Đề văn lớp 11 chương trình mới: Mắt biếc, lá đỏ

Đề thi khối 11

PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Hà Lan là một cô bé dễ thương và đặc biệt duyên dáng. Nét duyên dáng của Hà Lan hoàn toàn bẩm sinh, nó không hề ý thức về những cử chỉ mềm mại và kiểu cách của mình. Ngược lại, tôi luôn luôn tò mò và thích thú quan sát những động tác “dễ ghét” của nó. Hà Lan thường đưa tay vén tóc một cách đặc biệt, nó lắc đầu cho tóc hất qua vai cũng đặc biệt không kém và những cú liếc xéo của nó bao giờ cũng khiến tôi trố mắt nhìn.
Nhưng sức mạnh chủ yếu của Hà Lan nằm ở đôi mắt. Đôi mắt có hàng mi dài, lúc nào cũng mở to, hồn nhiên và ngơ ngác. Đôi mắt đó lúc bấy giờ đã khiến tôi buộc lòng đổi chỗ ngồi với thằng Ngọc và sau này cũng đôi mắt đó làm khổ tôi ghê gớm. Hồi nhỏ, tôi thích nhìn vào đôi mắt của Hà Lan, soi mình trong đó, và vẩn vơ so sánh chúng với những viên bi trong suốt, những viên bi “quí tộc” chỉ có bọn học trò trường thầy Phu chúng tôi – những đứa trẻ chỉ quen chơi với những viên bi làm từ trái mù u phơi khô thì đó chỉ là những ước mơ. Lớn lên, đôi mắt của Hà Lan lại gợi tôi nghĩ đến bầu trời và dòng sông, đến những ước mơ dịu dàng của tình yêu và khi đó tôi không còn đủ can đảm để nhìn lâu vào đôi mắt nó như ngày xưa thơ dại.

          Dù vậy, Hà Lan không phải là cô bé hoàn toàn dịu dàng. Có lúc nó tỏ ra cực kỳ bướng bỉnh. Nhiều lần, sự ngang ngạnh vô lý của Hà Lan khiến tôi giận phát khóc, tôi nghỉ chơi với nó cả tuần nhưng rồi sau đó, buồn bã và nhớ nhung, tôi lại làm lành với nó. Số tôi thế, yếu đuối và dễ mềm lòng ngay từ nhỏ tôi đã biết thế nào là… khổ vì phụ nữ. Lớn lên, tình trạng càng tồi tệ hơn.

          Nhưng bất chấp tính khí thất thường của Hà Lan, tôi vẫn yêu mến nó, người bạn gái đầu đời của tôi, bằng một tình cảm trong trẻo và ấm áp.

          Trước trường thầy Phu, bên kia đường là nhà ông Cửu Hoành, một cơ ngơi rộng lớn với khoảnh sân rộng lát gạch, hồ nuôi cá và vườn tược bao quanh. Bọn học trò chúng tôi chẳng biết và cũng chẳng cần biết ông Cửu Hoành là ai. Chúng tôi chỉ biết trong vườn nhà ông, cách cổng vào làm bằng những cây hoa giấy uốn cong khoảng mười thước, có một cây thị xum xuê trái. Bọn tôi thường rủ nhau lẻn vào đó nhặt những trái thị rụng vương vãi dưới gốc cây. Cây thị già, cao to, khó trèo, nhà ông Cửu Hoành lại có hai con chó dữ sẵn sàng xồ ra bất cứ lúc nào, vì vậy chẳng đứa nào trong bọn tôi dám nghĩ đến chuyện trèo lên cây thị.

          Có lần, thằng Ngọc đến trễ, những trái thị rụng đã bị bọn tôi vét sạch, nó đánh bạo bám cây trèo lên. Bọn tôi sợ hãi chạy dạt cả ra ngoài cổng, hồi hộp đứng nhìn vào. Ngọc vừa trèo lên tới chỗ chạc ba thấp nhất, đang bám cành cây nghỉ mệt, những con chó nghe động liền chạy túa ra bao vây gốc cây và đứng ngóc cổ sủa xối xả. Thằng Ngọc ở trên cây run như cầy sấy, mặt tái mét. Lần đó, ông Cửu Hoành đích thân dắt thằng Ngọc qua trường, méc với thầy Phu. Dĩ nhiên Ngọc lãnh hình phạt nặng nhất. Nó nhảy cóc ba vòng sân, tởn tới già.

          Trước tấm gương của thằng Ngọc, chẳng đứa nào mơ tưởng đến chuyện leo trèo nữa. Chúng tôi chỉ nhặt thị rụng. Trưa nào tôi cũng đến lớp thật sớm. Hễ ăn cơm xong, vừa buông đũa, là tôi tót là khỏi nhà. Nhét dấm dúi chiếc cặp vào ngăn bàn, tôi chạy ù qua vườn ông Cửu Hoành, vừa lấm lét canh chừng mấy con chó vừa vội vã nhặt những trái thị nằm lăn lóc trên cỏ. Có khi tôi phải giành nhau, kể cả đấm đá, với những đứa cũng đến sớm như tôi. Nếu tôi nhặt thị cho tôi thì tôi chẳng cần tả xung hữu đột làm gì cho u đầu sứt trán. Đằng này, tôi nhặt thị về cho Hà Lan.

         Hà Lan rất mê những trái thị nhưng nó lại sợ hai con chó nhà ông Cửu Hoành nên không dám bén mảng vào khu vườn như bọn con trai. Tôi phải đi nhặt thị về cho nó.

Hà Lan không bao giờ ăn ngay. Mỗi khi tôi đưa thị cho nó, nó đều đem bỏ vào cặp, trái nhỏ thì nó bỏ vào túi áo, chốc chốc lại lấy ra đưa lên mũi hít lấy hít để.

          Tôi nhìn trái thị vàng lườm trên tay nó, nhỏ nước dãi, giục:

         – Sao mày không lột ra ăn?

         – Để ngửi cho thơm!

         Nói xong, Hà Lan bỏ tọt trái thị vào túi áo như để trêu tức tôi. Nhưng thường thường, Hà Lan không nấn ná được lâu. Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng.

(Mắt biếc – Nguyễn Nhật Ánh, NXB Trẻ, 2013)

Thực hiện u cầu sau:

Câu 1. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?

Câu 2. Theo người kể chuyện, Hà Lan có tính cách như thế nào?

Câu 3. Hiệu quả của phép tu từ trong đoạn văn sau: Hồi nhỏ, tôi thích nhìn vào đôi mắt của Hà Lan, soi mình trong đó, và vẩn vơ so sánh chúng với những viên bi trong suốt.

Câu 4. Nêu nội dung chính của đoạn trích.

Câu 5. Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích.

  1. VIẾT (6.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận vẻ đẹp của hình ảnh “em gái tiền phương” được miêu tả trong bài thơ sau:

                                                          LÁ ĐỎ

– Nguyễn Đình Thi –

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.

Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.

Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.

Em vẫy cười đôi mắt trong.

Trường Sơn, 12/1974

(Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng,

NXB Chính trị quốc gia, 2009)

Chú thích:

* Tác giả: Nguyễn Đình Thi (1924- 2003), sinh ra tại thành phố Luông Pha Băng, nước Lào. Ông tham gia kháng chiến và giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng. Nguyễn Đình Thi được xem là một nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình, ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng trân trọng. Thơ ông tự do, phóng khoáng mà vẫn hàm súc, sâu lắng, suy tư và có nhiều tìm tòi theo hướng hiện đại.

* Tác phẩm: Mùa thu năm 1974, Nguyễn Đình Thi cùng với nhà thơ Tế Hanh, Phạm Tiến Duật và nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định theo đường mòn Hồ Chí Minh vào chiến trường Nam Bộ. Tại đây, ông đã chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt với sự hy sinh mất mát, đớn đau mà con người phải trải qua ở nhiều góc độ, khía cạnh, tầng bậc khác nhau… Nhưng cũng chính từ những tổn thất, đau thương, mất mát ấy lại hiện lên một vẻ đẹp diệu kỳ, lãng mạn của bức tranh thiên nhiên Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trút lá.

Câu 2 (4.0 điểm)

Hãy viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về về tình bạn trong cuộc sống con người.

  1. ĐÁP ÁN HƯỚNG DẪN
Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 4.0
1 Người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất.

*/ Cách cho điểm:

– Điểm 0,5 : Trả lời đúng như trên

– Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời

0,5
2 Theo người kể chuyện, Hà Lan có tính cách: dễ thương; không phải là cô bé hoàn toàn dịu dàng; có lúc cực kỳ bướng bỉnh; nhiều lần ngang ngạnh vô lý.

*/ Cách cho điểm:

– Điểm 0,5 : Trả lời đúng từ 3 đến 4 ý.

– Điểm 0,25 : Trả lời đúng 1 đến 2 ý.

– Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời.

0,5
3 – Biện pháp tu từ: So sánh: đôi mắt của Hà Lan với những viên bi trong suốt (0,25 điểm)

– Tác dụng:

+ Làm cho câu câu văn giàu hình ảnh, sinh động, hấp dẫn. (0,25 điểm)

+ Làm nổi bật vẻ đẹp đôi mắt của Hà Lan: to tròn, trong sáng,… qua đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.(0,25 điểm)

+ Thể hiện sự yêu mến, si mê của nhân vật “tôi” với đôi mắt của Hà Lan (0,25 điểm).

1,0
4 Nội dung của văn bản: Nhân vật “tôi” kể về kỉ niệm tuổi thơ của mình gắn với cô bạn gái Hà Lan và những rung động đầu đời .

*/ Cách cho điểm:

– Điểm 1,0: Nêu được 2 ý như trên.

– Điểm 0,5 : Nêu được 01 trong 02 ý trên

– Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời

– Lưu ý:  HS có những cách diễn đạt khác nhau nhưng nêu được bản chất của vấn đề, thuyết phục vẫn cho điểm tối đa.

1,0
5 Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích.

– Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích:

+ Truyện được kể theo ngôi thứ nhất;

+ Nhân vật được khắc họa qua ngoại hình, tính cách, qua những dòng hồi ức;

+ Cốt truyện nhẹ nhàng, dễ hiểu;

+ Ngôn ngữ giản dị, trong sáng:

+ …..

– Nhận xét: Nhờ những yếu tố nghệ thuật ấy, tác giả đã dễ dàng truyền tải được nội dung, tư tưởng của đoạn trích; tạo nên nét phong cách riêng của mình, tạo được ấn tượng với bạn đọc…

*/ Cách cho điểm:

– Điểm 1,0: Nêu được đầy đủ như đáp án.

– Điểm 0,75 : Nêu được 2 ý nhưng chưa đầy đủ

– Điểm 0,5:  Nêu được 1 trong 2 ý.

– Điểm 0,25: Nêu 1 ý nhưng chưa trọn vẹn.

– Điểm 0,0:  Trả lời sai hoặc không trả lời

– Lưu ý:  HS có những cách diễn đạt khác nhau GK linh hoạt chấm điểm.

1,0
II   VIẾT  
1 Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) bàn về vẻ đẹp của hình ảnh “em gái tiền phương” được miêu tả trong bài thơ “Lá đỏ” (Nguyễn Đình Thi). 2,0
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn: Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. HS có thể trình bày đoạn văn theo kiểu diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.. 0.25
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của hình ảnh “em gái tiền phương” được miêu tả trong bài thơ “Lá đỏ” (Nguyễn Đình Thi). 0.25
c. Đề xuất được các hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề

* Xác định rõ được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận. Sau đây là một số gợi ý:

– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm, hình ảnh “em gái tiền phương”.

– Vẻ đẹp của hình ảnh “em gái tiền phương” được miêu tả trong bài thơ “Lá đỏ” của Nguyễn Đình Thi:

+ Hình ảnh “em gái tiền phương” nhỏ bé giữa rừng Trường Sơn bạt ngàn, lộng gió nhưng lại mang đến cảm giác thân thương, gần gũi: vai áo bạc, quàng súng trường – như quê hương; với dáng đứng vững vàng bên đường khi làm nhiệm vụ.

+ Hình ảnh ấy là một biểu tượng về cuộc chiến tranh nhân dân. “Em gái tiền phương” là nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong trên khắp mọi miền đất nước. Sự có mặt của “em” trên đỉnh Trường Sơn nơi tuyến đầu Tổ quốc đã nhắc với mai sau về cuộc chiến đấu toàn dân tham gia, trong đó có sự đóng góp của những người con gái trẻ trung xinh đẹp, mảnh mai nhưng vô cùng dũng cảm, gan dạ.

+ Hình ảnh “em gái tiền phương” góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến; làm cho bài thơ sinh động, hấp dẫn hơn.

* Sắp xếp được hệ thống ý hợp lí theo đặc điểm, bố cục của kiểu đoạn văn.

0.5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

d. Viết được đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:

Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận: Hình ảnh “em gái tiền phương” trong bài thơ “Lá đỏ”.

– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

0.5
đ. Diễn đạt

Đảm bảo chuẩn chính tả,  dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

0.25
e. Sáng tạo:

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.

0.25
  2 Hãy viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về tình bạn trong cuộc sống của con người. 4,0
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Xác định đúng yêu cầu của kiểu bài: nghị luận xã hội. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Tình bạn trong cuộc sống của con người. 0,5
c. Đề xuất được các hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết.

– Xác định được các ý chính của bài viết.

– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài nghị luận:

* Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm cá nhân về vấn đề.

* Triển khai vấn đề nghị luận.

– Giải thích: Tình bạn là sự gắn bó, yêu thương, đồng cảm, chia sẻ của những người xa lạ, không cùng chung huyết thống.

– Thể hiện quan điểm của người viết, có thể theo một số gợi ý sau:

+ Trong cuộc sống, con người không thể không có bạn: bạn học, bạn làm ăn…

+ Biểu hiện của tình bạn đẹp: Sẵn sàng quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, đồng cam cộng khổ vượt qua mọi khó khăn hoạn nạn mà không đòi hỏi quyền lợi gì hơn; hòa hợp về tâm hồn, hiểu nhau, hợp nhau trên một phương diện nào đó, có thể tâm sự, trải lòng với sự tin tưởng nhất….

+ Tình bạn có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống: Một tình bạn đẹp sẽ là chỗ dựa tinh thần vững chắc và là điểm tựa của mỗi người trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Người bạn tốt không chỉ biết giúp đỡ khi khó khăn mà còn chỉ ra điều hay lẽ phải, chỉ ra lỗi lầm để bạn sửa chữa, hoàn thiện bản thân…

+ Lấy dẫn chứng để chứng minh: HS có thể lấy dẫn chứng về tình bạn của Các Mác và Lê-nin, của Bác Hồ với bác Tôn, của Nguyễn Tất Minh với Nguyễn Minh Hiếu (Minh bị tật nguyền chân, suốt 8 năm học phổ thông, Hiếu đưa Minh đến trường)….

+ Mở rộng: Muốn có một tình bạn đẹp thì trước hết phải biết trân trọng tình bạn; có cách sống đúng đắn, làm một người tốt, sẵn sàng cho đi, không vụ lợi… Phê phán, lên án những kẻ ích kỉ, vô cảm, coi thường bạn hoặc phản bội lại tình bạn….

* Khẳng định lại quan điểm của cá nhân đã trình bày và rút ra bài học:

– Nhận thức được vai trò quan trọng của tình bạn, có ý thức nuôi dưỡng tình bạn; biết chọn bạn mà chơi;

– Sẵn sàng giúp đỡ bạn khi cần thiết…

1,0
d. Viết bài viết đảm bảo các yêu cầu sau:

– Đảm bảo cấu trúc: Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

– Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm của cá nhân.

– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

Lưu ý: HS có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

1.5
đ. Diễn đạt

Đảm bảo chuẩn chính tả,  dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.

0.25
e. Sáng tạo:

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.

0.5
Tổng điểm 10.0

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *