Đề văn 11 Có mẹ trong cuộc đời, Phong Điệp

Đề thi khối 11

ĐỀ BÀI

PHẦN ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

HÁT CANH

Hát canh được coi là hình thức diễn xướng đậm tính nghệ thuật nhất của dân ca quan họ, chỉ diễn ra ở nhà hát đặc trưng của quan họ: “Nhà chứa”, giữa các liền anh, liền chị của hai bọn quan họ kết nghĩa. Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, mùa của hội chùa, hội đình làng vào đám, những nhóm Quan họ nam và nữ mời nhau đến nhà “ca một canh cho vui bầu vui bạn, vui xóm, vui làng, cầu may, cầu phúc”.

Canh hát thường được giữ đúng các lề lối như Quan họ đã định ra và thường kéo dài từ 7, 8 giờ tối đến 2, 3 giờ sáng. Đôi khi, hội làng mở nhiều ngày, cũng có những canh hát kéo dài 2, 3 ngày đêm.

Trình tự một canh hát đúng lề lối có thể chia thành 3 chặng:

Trong chặng đầu tiên, sau những nghi thức giao tiếp giữa Quan họ khách và Quan họ chủ, thường là bên nam, bên nữ, Quan họ đi vào chặng hát đầu tiên. Ở chặng hát này, người ta hát những giọng cổ cũng gọi là giọng Lề lối. Quan họ có đến 36 giọng cổ đã được ghi nhận trong một bài văn vần theo thể lục bát về tên các giọng trong một bài thơ sưu tầm được ở đền Vua Bà làng Diềm nhưng ngay ở quê hương của Vua Bà, các bọn quan họ cũng chỉ biết nhiều nhất được 20 giọng. Cho đến trước tháng 8-1945 thì chặng hát này thường chỉ hát chừng 5, 6 giọng: Hừ la, La rằng, Đương bạn (Bạn lan), Tình tang, Cây gạo, Cái ả… Các giọng cổ thường mang âm điệu cổ kính, chậm rãi, rền, nẩy, nhiều tiếng đệm lót, mang nhiều dấu hiệu đặc trưng của ca hát Quan họ truyền thống. Vai trò của giọng La rằng đặc biệt quan trọng trong giọng Lề lối, chi phối nghệ thuật ca hát trong chặng này. Hầu hết người Quan họ cho rằng không ca được bài La rằng cho vang, rền, nền, nẩy thì đừng nói chuyện ca Quan họ.

Chặng ca những bài cổ là chặng bắt buộc, được duy trì rất nghiêm, có thể coi là tiêu chuẩn để đánh giá trình độ cơ bản của các đôi Quan họ.

Chặng giữa tiếp theo sau chặng hát những bài giọng cổ. Lúc này, Quan họ hát sang những bài thuộc hệ thống mà người Quan họ gọi là Giọng vặt. Tuyệt đại bộ phận các bài ca quan họ còn sưu tập được đến hôm nay là Giọng vặt, trong đó bao gồm nhiều những bài được coi là những ca khúc dân gian mẫu mực ở trình độ nghệ thuật cao của văn học và âm nhạc.

Vào chặng ca Giọng vặt, không phải ca theo một trình tự bắt buộc theo thứ tự tên các bài ca. Nhưng cũng do tập truyền lâu đời, các canh hát cũng có những trình tự không khác nhau nhiều. Trình tự này đã được người Quan họ chỉ rõ bằng một câu nói quen thuộc, cửa miệng: “Quan họ càng về khuya càng bổng, càng trầm, càng mặn nồng tình nghĩa”. Đó là khi những bài hát thiết tha thổn thức, về nỗi nhớ, niềm thương cùng những nỗi trăn trở suy tư về cuộc đời, về số phận con người tuôn chảy dào dạt, xao xuyến không cùng… Canh hát được đẩy tới cao trào của tình cảm và tài hoa của nghệ thuật ca hát…

Chặng cuối thường diễn ra vào khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng, có thể cuối hoặc gần cuối chặng hát giữa, sau lúc người Quan họ mời nhau xơi tiệc mặn và tiệc ngọt có nơi uống rượu, có nơi không. Nếu nơi có uống rượu thì Quan họ chủ thường nâng chén rượu hát bài ca chuốc rượu để mời bạn. Sau bữa tiệc và tuần trầu, nước, Quan họ cũng có thể hát đối đáp thêm một số câu Giọng vặt nữa rồi chuyển sang ca những bài ca giã bạn, chuyển sang chặng cuối của canh hát.

Mở đầu chặng hát này thường là Quan họ khách bắt đầu ca một câu giã bạn tỏ ý xin tạm biệt ra về, và, để đối lại (không buộc phải theo lệ đối giọng) Quan họ chủ cũng ca bài giã bạn mang ý níu giữ khách. Những bài ca giã bạn được cất lên vào lúc giã hội hoặc vào khi tàn một canh hát, khoảng 2, 3 giờ sáng, trong tâm trạng quyến luyến, bịn rịn, nuối tiếc không nguôi… nên tình, ý, giai điệu thường rất xúc động lòng người. Những bài ca giã bạn quen thuộc và nổi tiếng còn lưu hành vẫn là các bài: “Tua rua chua đến đỉnh đầu”, “Tạm biệt từ đây”, “Chia rẽ đôi nơi”, “Kẻ Bắc người Nam”, “Con Nhện giăng mùng”… Tiếp theo là cuộc tiễn đưa nhiều lưu luyến và lời hò hẹn “Người về đến hẹn lại lên”…

(Tìm về cội nguồn quan họ, Nhiều tác giả, NXB Sân khấu, 2009, tr.81-83)

Câu 1. Chỉ ra cách tổ chức sắp xếp thông tin trong bài viết của tác giả.

Câu 2. Theo tác giả, hầu hết người ca quan họ đều có chung quan điểm là gì?

Câu 3. Có thể đổi nhan đề bài viết thành “Hát quan họ” được không? Vì sao?

Câu 4. Anh/chị có nhận xét gì về thái độ, quan điểm của tác giả trong bài viết?

Câu 5. Ngoài việc biết thêm thông tin về hát canh – một hình thức diễn xướng của hát quan họ, anh/chị còn rút ra được bài học gì cho bản thân? Trình bày suy nghĩ về bài học đó.

PHẦN VIẾT

Câu 1. Từ văn bản đọc hiểu trên, ta thấy tác giả không chỉ có sự yêu thích tìm hiểu mà còn có sự trải nghiệm rất sâu sắc với hát quan họ nói chung. Vậy, anh/chị hãy viết đoạn nghị luận trình bày về ý nghĩa của việc trải nghiệm thực tế đối với mỗi người.

Câu 2: Cho văn bản

NGHE GIÓ VỀ CHỤM LỬA

Phong Điệp

 

Tôi đã không thể tin được vào mắt mình. Rằng có những bữa cơm như thế. Những đứa trẻ lao xao nói cười, chạy va cả vào nhau để lo sao bày biện một cách nghiêm cẩn cho bữa cơm có khách lạ tới thăm, mặc cho tôi nói rằng mình đã ăn rồi để từ chối vì sợ bát cơm vừa đơm lên kia đang được gạn từ suất ăn của một trong những cái bụng con trẻ đang réo lên ùng ục. Bữa ăn chỉ vẻn vẹn 3.000 đồng cho một đầu người. Liệu có thể tin nổi không? Số tiền ít ỏi đến không tưởng ấy? 3.000 đồng với người thành phố không đủ mua cho con trẻ một hộp sữa. Nếu có thì cũng chỉ vừa đủ một gói bim bim, trẻ vừa ăn vừa làm vãi quanh nhà. Ra chợ, 3.000 đồng, mua dưa muối chua còn bị cô chủ quán ngúng nguẩy lườm nguýt chán chê mới chịu bán cho. Vậy mà bữa ăn của trẻ vùng cao, chỉ chừng ấy. Mà no.

3.000 đồng đã là nhiều. Cha mẹ quanh năm suốt tháng bám mặt vào núi, lấy đâu ra tiền. Gạo đong từ nhà đi. Muối cũng gói từ nhà đi. Rau thì rừng cho. Nước thì suối cho. Củi lửa cũng từ rừng. Nhen lên cho những bữa ăn đạm bạc giữa rừng. Mà sống.

Nó thật khác xa với những bữa tiệc tùng liên miên mà sau khi trở về nhà, tôi thấy mình lạ lẫm với chính mình. Rượu rót tràn trề. Những đĩa lớn nhỏ, nghi ngút khói và ngồn ngộn sắc mầu. Chúng bẽ bàng chờ vài đôi đũa hờ hững chạm vào, rồi nằm trơ khấc trên mâm bát ê hề những lời chúc tụng. Hóa đơn thanh toán dài cả gang tay. Rồi cả đám thức ăn ấy đến tàn cuộc bị dồn đồng vào nhau một cách phũ phàng. Thịt cá tanh tao cùng nhau, nhầu nhĩ cùng nhau, bẽ bàng cùng nhau. Người thành phố bây giờ còn mấy người nuôi lợn. Người thành phố nhao nhao ô tô ra đường, cuối tuần đi tắm khoáng nóng, lượn Big C, xem phim bom tấn hoặc lên các tháp đôi uống café ngắm thành phố sáng rực trong ánh điện. Hàng ngày thì chăm chăm lo theo dõi giá vàng tăng, giá đô giảm mà mất ăn mất ngủ. Thành thử ngồi trước bữa cơm mà lòng dạ để trên những hợp đồng chờ kí, những lời hứa hẹn sắp đến hạn mà thon thót lo âu. Thành thử thức ăn ế thừa, dù vẫn còn thơm nưng nức cũng đổ hết vào thùng rác, đổ ào cả xuống cống. Chỉ để béo lũ chuột và chủ nhà hàng thì mỏi tay đếm tiền. Khách khật khưỡng ra cửa, không còn nhớ nổi vị của bát súp mình vừa xì xoạp, mùi của tảng thịt nướng mình vừa nhai vừa nuốt ơ thờ. Chẳng nhớ gì. Không có cảm giác đói. Không cảm giác no. Không cảm xúc. Những bữa ăn nhạt nhẽo và rỗng tuếch. Tiền triệu trả cho những thứ xa xỉ và nhạt nhẽo như vậy.

Trong khi số tiền ấy, cùng với số thức ăn ế thừa ấy, là thứ quá xa vời cho đám trẻ đồng rừng dám mơ tới.

Chúng ở đây, trước mắt tôi. Thằng con trai có lẽ là lớn tuổi nhất dụi lửa cho cái nồi gang khê nồng khói. Tàn tro bám lốm đốm trên mặt vung. Nó chun miệng thổi nhẹ để làm sạch cái vung nồi. Sau đó một lớp muối trắng được rắc lên. Vung nồi nóng rẫy khiến chỉ trong chốc lát những hạt muối trở nên khô rang và trắng như những vụn tuyết. Một đứa bé gái chừng mười tuổi, tóc ngắn cắt nham nhở, mồ hôi do hơi nóng từ bếp lửa khiến cho những viên tóc vàng vọt bết lại vào hai bên má, dúi một cái bát nhỏ vào tay đứa lớn. Muối nghiêng từ vung cơm, đổ vào bát. Canh đồng thời cũng được bê ra. Không dầu mỡ. Không mùi. Chỉ là những cọng rau dớn hái từ bụi cây ven trường học, thả vào nồi nước sôi bùng bục. Nêm chút muối. Bắc ra trịnh trọng, và gọi là canh. Canh không cần bát tô. Mâm bát bày biện đơn sơ chỉ gồm một nồi cơm, một nồi canh, một bát muối khô trắng phau phau nằm xúm tụm vào nhau. Trẻ – ai cầm bát của người ấy. Cơm chia đều cho các bát. Hơi nát. Bữa nào cũng nát. Nhưng không bữa nào người ăn muốn nấu khô. Cô bé mặc áo len cộc tay mầu đỏ ngồi cạnh tôi toét miệng cười khoe “bí quyết”: thổi nát thì mới được nhiều cơm. Bữa nào hết gạo thì nấu cháo luôn. No lúc nào hay lúc ấy. Có ăn là tốt rồi.

Tôi bỗng chạnh nhớ những bữa tiệc mình đã từng có dịp dự. Cỗ bàn ê hề. Hải sản quẫy mình tươi ròng. Cả con bê quay vàng ươm tỏa mùi ngào ngạt. Vậy mà sao tôi vẫn không thấy nước miếng tứa ra, không có cảm giác thèm thuồng, không có cảm giác muốn ăn. Ăn bỗng nhiên trở thành một thứ nghĩa vụ, một thứ thủ tục. Ăn để làm việc. Ăn để thiết lập quan hệ. Ăn để chiều lòng nhau. Không nhiều những bữa ăn mình thực sự muốn ngồi vào, nước miếng xâm xấp đầu lưỡi. Dạ dày cuộn lên từng đợt. Từng miếng, từng miếng thức ăn vồn vã đưa vào dạ dày. Ăn tới đâu, hân hoan tới đấy. Tại sao những bữa ăn như vậy ngày càng hiếm hoi?

Còn ở đây, cái hân hoan rạng ngời trên những đôi mắt trẻ. Những đôi mắt sáng rực rỡ, hong hóng chầu chực vào nồi cơm đang bốc khói giữa nhà, chờ đến lượt mình được xới thêm cơm. Những cái miệng nhai nuốt hào hứng. Vị muối mằn mặn tan chảy trong kẽ răng, trộn vào miếng cơm nóng hổi, đằm đặm trôi vào bụng. Thêm một hớp canh. Canh không dầu mỡ, không mì chính. Chỉ chân chất rau rừng mà không múc nhanh, ăn nhanh thì nước trong nồi đã chạm tới đáy. Thìa đũa khua khoắng lanh canh cho những miếng cơm cuối cùng. Nhìn miệng của nhau ăn mà thấy ngon. Mâm cơm sạch bách, no nê và rạng rỡ. Bát đũa thu vén lại gọn ghẽ. Không hạt cơm rơi. Không thức ăn bỏ chứa. Dọn dẹp xong xuôi, những mái đầu khét cháy ngả xuống cạnh nhau trong giấc ngủ muộn chiều. Bóng đèn điện giữa phòng tắt lịm giữa đồng rừng im ắng.

Vậy mà trong khi đó, những người lớn thành phố chúng ta, và cả những đứa trẻ thành phố bây giờ bỗng nhiên cùng rủ nhau mắc chung hội chứng sợ ăn. Nhìn cái gì cũng thấy ớn, thấy ngán ngẩm, thấy chán chường vô cùng. Trẻ con thấy mẹ bưng bát đến gần là giẫy lên đành đạch, nước mắt nước mũi giàn giụa. Mấy cô mấy chị nội trợ luôn mồm than phiền vì không biết ăn gì, nấu gì cho cả nhà nên ra đến chợ rồi mà cứ đứng ngơ ngẩn như người mù mầu, lòng dạ hoang mang. Thịt bò à? Ôi ôi, gút là phải kiêng thịt mầu đỏ. Thịt lợn à? Ôi ôi, toàn nuôi bằng thuốc tăng trọng. Thịt gà à? Ôi ôi đang có dịch. Đậu phụ nhé? Toàn trộn thạch cao! Đến chuối cũng ngâm hóa chất cho nhanh chín. Hoa quả thì 90% là có chất bảo quản độc hại. Túm lại là bế tắc. Bế tắc toàn tập! Những người thành phố đang bế tắc thảm hại.

[…]

Người thành phố ra đường là phải cảnh giác. Trẻ con chơi với nhau cũng phải cảnh giác. Bài học cảnh giác phải học từ khi còn ẵm ngửa. Đến tận lúc nằm xuống mộ vẫn còn lo cảnh giác chừng ấy là chưa đủ, đề phòng chừng ấy chưa đủ. Ôi những người thành phố đáng thương chúng ta. Chúng ta vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm trong bi kịch mang tên phố phường.

Trong khi đó, vì đi học xa nhà, nên những đứa trẻ đồng rừng mười mấy tuổi đầu xúm tụm lại với nhau trong căn nhà tập thể kế bên lớp học quây bằng cót ép. Không lo cảnh giác. Không lo đề phòng, đối phó nhau. Gió mùa về tê tái. Những thân hình co ro, xa nhà nép vào nhau sẻ chút hơi ấm. May có ít chăn của đoàn từ thiện mới gửi về, những giấc ngủ say hơn, sâu hơn. Bữa ăn tự túc thì triền miên muối khô và canh rau dớn. Rau mọc bìa rừng, tự sinh, tự lớn. Không thuốc kích thích, không chất bảo quản. Cũng chẳng mất một đồng nào. Nếu có điều kiện cải thiện thì cá khô. Cả năm, bữa thịt bạc nhạc tính chắc có lẽ đếm được trên đầu ngón tay. Thành thử, mười mấy tuổi đầu, đứa nào đứa nấy chỉ như cọng cỏ, khô cháy giữa trời đông vùng cao. Nhưng mắt trẻ đồng rừng ai nấy đều trong văn vắt, và rạng rỡ vô ngần. Mắt trẻ đồng rừng, biết nhìn hạt gạo như hạt ngọc của trời. Nâng niu. Cố không làm sót hạt nào trong bữa ăn đơn sơ đến không thể đơn sơ hơn được nữa. Chúng biết cách thực sự là những con người, biết thương yêu nhau và sống mạnh mẽ giữa mưa rừng gió núi. Biết nghe gió về chụm lửa chờ cơm sôi. Bình thản sống, như cây giữa rừng.

(Trích Có mẹ trong cuộc đời, Phong Điệp, NXB Phụ nữ, 2018, tr. 134 – 141)

* Nhà văn Phong Điệp, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Phong Điệp, sinh năm 1976 tại Giao Thủy, Nam Định. Cô hiện công tác tại báo Nhân dân và là Ủy viên Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 2020 – 2025. Phong Điệp đã công bố 30 đầu sách gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết (Lạc chốn thị thành, Ga kí ức…), truyện ngắn (Khi ta hai mươi, Ma mèo, Phòng trọ, Biên bản bão…), truyện dài cho thiếu nhi (Nhật kí Sẻ đồng: chào em bé, Chúng mình làm bạn, con nhé…), tản văn (Bay trên mái nhà thành phố, Có mẹ trong cuộc đời này…), đối thoại văn học (Mạn đàm văn chương thời @, Cuộc phiêu lưu của những cái tôi…). Nhiều tác phẩm đã được dịch, xuất bản tại Pháp, Mĩ, Trung Quốc…

Viết bài nghị luận trình bày cảm nhận về hình ảnh bữa ăn được nói tới trong tản văn trên.

 

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI

PHẦN ĐỌC HIỂU

Câu 1. (GV hướng dẫn HS đọc bao quát lại văn bản và chú ý bám theo trình tự trước sau của văn bản)

– Trong bài viết, tác giả đã tổ chức, sắp xếp thông tin như sau: giới thiệu hát canh là gì và trình tự các chặng hát trong buổi hát canh đó diễn ra như thế nào.

Câu 2. (GV hướng dẫn HS xác định vị trí và tìm câu trả lời trong văn bản)

– Theo tác giả, “hầu hết người Quan họ cho rằng không ca được bài La rằng cho vang, rền, nền, nẩy thì đừng nói chuyện ca Quan họ.”

Câu 3. (Đây là dạng câu hỏi nêu về ý nghĩa nhan đề, GV hướng dẫn HS khai thác sự chi phối của nhan đề với nội dung văn bản để đưa ra câu trả lời phù hợp)

– Không thể đổi nhan đề thành “Hát quan họ”. Vì bài viết chỉ giới thiệu về hát canh là một trong nhiều hình thức diễn xướng của hát quan họ. Nếu như đổi nhan đề là “Hát quan họ” dễ gây hiểu nhầm cho người đọc là sự đơn điệu của hát quan họ.

Câu 4. (GV hướng dẫn HS đọc lại văn bản và chú ý cách trình bày thông tin và từ ngữ sử dụng trong văn bản để đưa ra nhận xét)

– Qua bài viết, ta có thể thấy được tác giả là một người rất yêu thích hát quan họ, tìm hiểu kĩ về “hát canh” trong quan họ nên không chỉ đưa ra thông tin đúng trình tự mà còn sử dụng những “thuật ngữ chuyên môn” rất chính xác. Điều đó cũng cho thấy thái độ làm việc cẩn thận, nghiêm túc của tác giả.

Câu 5. (GV lưu ý HS rút ra thông điệp cần ngắn gọn, phù hợp với đề tài, chủ đề của văn bản và mang tính tích cực)

– Ví dụ bài học: Cần đi thực tế, trải nghiệm để hiểu hơn các sinh hoạt văn hoá dân gian. Vì khi được sống trong bầu không khí sinh hoạt ấy, xem trực tiếp, nghe trực tiếp thì ta mới hiểu hơn, yêu hơn những điều mà nếu chỉ đọc trong sách vở sẽ không thể thấu hết được.

PHẦN VIẾT

Câu 1 (NLXH)

– Giải thích vấn đề: Trải nghiệm thực tế là việc chúng ta tham gia trực tiếp vào các hoạt động đời sống hoặc tự quan sát, khám phá những điều thú vị của đời sống mà vốn trước đó ta mới chỉ nghe nói hoặc biết đến trong sách vở.

– Bình luận: Việc trải nghiệm thực tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi người trong cuộc sống:

+ Giúp ta hình dung dễ hơn, hiểu sâu sắc hơn về những điều mà ta mới chỉ biết qua lí thuyết trước đó.

+ Thấy được biểu hiện phong phú và phức tạp của đời sống làm cho vốn sống của ta phong phú hơn.

+ Khiến cho ta hiểu hơn về chính mình để có cách ứng xử phù hợp, nhân văn hơn với hoàn cảnh, với mọi người xung quanh.

+ Nếu thiếu đi việc trải nghiệm thì cuộc sống của ta trở nên đơn điệu, nhàm chán và tẻ nhạt.

Mở rộng: Trải nghiệm thực tế không đồng nghĩa với việc thử mình với những thứ nguy hiểm, những chất cấm theo quy định của Luật pháp. Đồng thời phê phán những người thu mình, không chịu hoà mình với cuộc sống muôn màu.

Bài học: Ở mỗi lứa tuổi, sự trải nghiệm đều có những thú vị riêng vậy nên đừng ngại trải nghiệm khi có cơ hội các bạn nhé.

Câu 2 (NLVH)

  1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Phong Điệp, tác phẩm “Có mẹ trong cuộc đời này”.

– Giới thiệu đoạn trích “Nghe gió về chụm lửa” và nêu vấn đề nghị luận: hình ảnh bữa ăn.

  1. Thân bài
  2. a) Khái quát về thể loại

– Tản văn là một tiểu loại của kí, gần với tuỳ bút, cũng là tác phẩm tự sự phi hư cấu. Nội dung các bài tản văn thường nêu lên các hiện tượng chân thực, gần gũi với cuộc sống nhưng giàu ý nghĩa xã hội. Từ đó, người viết bộc lộ trực tiếp tình cảm, suy nghĩ mang đậm cá tính của mình. Giống như tuỳ bút, tản văn cũng có sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, trong đó, thường yếu tố tự sự nhiều hơn.

  1. b) Hình ảnh bữa ăn trong tác phẩm

– Hình ảnh mở đầu, kết thúc và cũng là xuyên suốt văn bản đều là hình ảnh của bữa cơm đám trẻ học sinh vùng cao: khi thì được nhắc tới riêng, khi thì được đối sánh với bữa cơm ở thành phố.

– Bữa cơm của học sinh vùng cao “chỉ vẻn vẹn 3.000 đồng cho một đầu người” mà được coi “đã là nhiều” bởi gạo, muối từ nhà mang đi, rau, nước, củi lửa từ rừng mà nên. Nó khác hoàn toàn với mức sống ở thành phố: phải gấp không biết bao nhiêu lần con số 3.000 đồng ấy cho một món ăn rồi cho những món ăn bừa phứa còn nguyên vẹn bỏ vô thùng rác và người gọi chúng cũng chả nhớ tới mùi vị của chúng như nào và có ngon miệng không.

– Bữa cơm thường ngày rét của đám trẻ vùng cao là cơm nóng nấu nồi gang trên bếp củi nhưng bữa nào cũng nát bởi không đủ gạo nên phải nấu nát để ăn cho được no, với muối nóng giòn nhảy trên vung cơm, rồi nồi canh rau dớn không dầu mỡ, không mùi chỉ có chút muối bỏ vào nhưng khua khoắng một lát đã hết “không hạt cơm rơi. Không thức ăn bỏ chứa”. Tác giả đã quan sát rất chăm chú, kĩ lưỡng từng thao tác từ việc chuẩn bị bữa cơm của đám trẻ cho đến “cái hân hoan rạng ngời trên những đôi mắt trẻ. Những đôi mắt sáng rực rỡ, hong hóng chầu chực vào nồi cơm đang bốc khói giữa nhà, chờ đến lượt mình được xới thêm cơm. Những cái miệng nhai nuốt hào hứng.”

– Bữa cơm đạm bạc của những đứa trẻ đồng rừng lại đáng trân trọng vô cùng bởi nó là bữa ăn của sự quây quần, quấn túm sẻ chia cùng nhau. Bữa cơm đáng quý bởi đám trẻ “biết nhìn hạt gạo như hạt ngọc của trời. Nâng niu. Cố không làm sót hạt nào trong bữa ăn đơn sơ đến không thể đơn sơ hơn được nữa. Chúng biết cách thực sự là những con người, biết thương yêu nhau và sống mạnh mẽ giữa mưa rừng gió núi. Biết nghe gió về chụm lửa chờ cơm sôi. Bình thản sống, như cây giữa rừng.”.

=> Hình ảnh bữa cơm của học sinh vùng cao là minh chứng cho sự phân hoá giàu nghèo rõ rệt giữa các vùng miền. Bữa cơm được tả đầy chân thực để ta hiểu rằng đó không chỉ là cuộc sống mà còn là những giá trị cốt lõi giản đơn: biết trân trọng những thứ mình có, biết chia sẻ với những người xung quanh mình.

  1. c) Thái độ, quan điểm của tác giả

Khi nói về bữa ăn của trẻ đồng rừng, tác giả luôn có cái nhìn đối sánh với những chi tiêu sinh hoạt, những bữa ăn của người thành phố, thậm chí của chính mình. Nhìn cách bọn trẻ ăn, bọn trẻ sống, tác giả vừa thêm thương xót cho sự thiếu thốn, vừa thêm trân trọng sự mộc mạc, hồn nhiên trong mắt trẻ nhưng cũng vừa tự vấn lại chính mình và những người như mình bởi chính bữa cơm nghèo khó kia đã giúp tác giả hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa và giá trị của cuộc sống này.

  1. Kết bài

– Khẳng định lại hình ảnh bữa cơm trong tác phẩm.

– Liên hệ mở rộng với các bài tản văn khác cùng chủ đề, nếu có.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *