Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 6

Tài liệu Văn

 

HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 

 BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN

Năm 2018

 

MỤC LỤC

MỤC LỤC……………………………………………………………………………………………. 1

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………. 3

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………………………. 4

I.Những vấn đề lí luận chung…………………………………………………………………….. 4

1.Văn bản văn học………………………………………………………………………………….. 4

1.1.Khaí niệm………………………………………………………………………………………… 4

1.2.Đặc điểm của văn bản văn học……………………………………………………………… 4

1.2.1.Đặc điểm về ngôn từ……………………………………………………………………….. 4

1.2.2.Đặc điểm về hình tượng nghệ thuật…………………………………………………….. 7

1.2.3.Đặc điểm về ý nghĩa văn bản văn học………………………………………………….. 7

1.2.4.Đặc điểm về cá tính sáng tạo của nhà văn…………………………………………….. 9

2.Tiếp nhận văn học………………………………………………………………………………. 10

2.1.Khái niệm………………………………………………………………………………………. 10

2.2.Đặc điểm……………………………………………………………………………………….. 11

2.3.Các cấp độ của quá trình tiếp nhận………………………………………………………. 13

3.Đọc- hiểu văn bản văn học như một hình thức tiếp nhận……………………………… 14

3.1.Những quan niệm về đọc – hiểu………………………………………………………….. 14

3.2. Vì sao phải hình thành kĩ năng đọc- hiểu………………………………………………. 15

3.3.Yêu cầu của đọc- hiểu văn bản văn học…………………………………………………. 16

3.4.Các bước đọc – hiểu văn bản văn học…………………………………………………… 17

3.4.1. Xác định mục đích, yêu cầu……………………………………………………………. 17

3.4.2.Lựa chọn văn bản………………………………………………………………………….. 22

3.4.3.Xây dựng câu hỏi/ bài tập rèn kĩ năng đọc- hiểu văn bản văn học……………… 22

  1. Thực hành: Hệ thống câu hỏi/ bài tập rèn kĩ năng đọc- hiểu theo mức độ mô tả của từng thể loại…………………………………………………………………………………………………………. 38

1.Hệ thống câu hỏi luyện kĩ năng đọc – hiểu theo mức độ mô tả……………………… 38

1.1. Ca dao than thân…………………………………………………………………………….. 38

1.2. Văn bản thơ………………………………………………………………………………….. 41

1.2.1.Đò Lèn ………………………………………………………………………………………. 41

1.1.2. Chốn về …………………………………………………………………………………….. 46

1.1.3. Đi lễ chùa…………………………………………………………………………………… 48

1.1.4.Lời bài” Khúc hát sông quê” ……………………………………………………………. 49

1.1.5. Noel 1  ……………………………………………………………………………………… 51

  1. Hệ thống câu hỏi rèn kĩ năng đọc – hiểu truyện, kí theo mức độ mô tả…………… 52

2.1. Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản truyện…………………………………………………. 52

2.1.1.Dạng 1.Luyện kĩ năng đọc – hiểu chi tiết……………………………………………. 52

2.1.2.Dạng 2.Rèn kĩ năng đọc – hiểu giọng điệu trong văn bản tự sự………………… 54

2.1.3.Dạng 3.Rèn kĩ năng đọc – hiểu nhân vật  trong văn bản tự sự………………….. 55

2.1.4.Dạng 4.Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản tự sự nói chung…………………………. 57

2.2. Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản kí………………………………………………………. 64

  1. Hệ thống bài tập tạo lập văn bản luyện kĩ năng đọc – hiểu…………………………… 66

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………. 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………. 78

PHỤ LỤC…………………………………………………………………………………………… 79


PHẦN MỞ ĐẦU

Qúa trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn là một quá trình nghiêm túc, vất vả. Và kết quả của quá trình sáng tạo ấy là kết tinh của tài năng nghệ thuật cùng những vốn sống, vốn kinh nghiệm… của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Có người ví hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn chẳng khác gì hành trình lao động vất vả, mệt nhọc của những  con ong mật đi gom nhặt, chọn lựa những tinh túy hương hoa của tạo hóa… để dâng mật ngọt cho đời. Mỗi tác phẩm văn học được sinh ra, tồn tại…là một viên ngọc quý. Vì vậy người tiếp nhận phải có thái độ trân trọng và cẩn trọng đối với di sản văn học được sáng tạo đầy gian khổ của tác giả. Những tiếp xúc vội vã, xem nhẹ và định kiến với tác phẩm, với tác giả để rồi lòng mình dửng dưng với bao điều mới lạ trong tác phẩm thì mãi mãi tác phẩm vẫn giữ nguyên bí mật của mình. “Tiếp nhận đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn để cảm nhận cái thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến cho người đọc văn học”. Muốn tiếp nhận được thông điệp thẩm mĩ tác giả gửi gắm qua tác phẩm thì đòi hỏi người đọc cần có năng lực đọc – hiểu văn bản. Hướng dẫn để học sinh có thể tự đọc – hiểu tác phẩm cũ – khi đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu – một cách độc lập vượt qua màng ngăn của người đi trước đã là một việc khó, hướng dẫn học sinh hình thành kĩ năng đọc – hiểu tác phẩm mới ngoài chương trình lại càng thêm khó. Bởi hiện nay học sinh còn thụ động, chưa có thói quen tự mình khám phá văn bản, dần mất đi tiếng nói đối thoại với văn bản, và cũng làm mất luôn năng lực tự học. Vì thế kĩ năng đọc – hiểu văn bản đối với học sinh rất quan trọng. Học sinh cần rèn luyện để có năng lực đọc, kĩ năng đọc để có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Sinh thời Hồ chủ tịch rất chú ý đến kĩ năng này. Mới đầu Bác đã tìm đọc truyện của nhà văn Anatol Franc và Lev Tolstoi. Bác đọc chú ý quan sát bài văn và có nhận xét về văn trong bài văn, Bác nhận thấy trong văn học không chỉ có kể chuyện mà còn miêu tả, trong miêu tả người ta viết những gì người ta cảm thấy. Không phải chỉ thấy, mà cảm thấy, nghĩa là có cảm xúc về điều ta thấy. Do có cảm xúc về sự vật mà lời văn cũng có cảm xúc, có chất văn. Chỉ cần mình biết cảm nhận về sự vật, phát hiện trong sự vật cảm xúc của mình rồi đem cái đó mà viết ra. Qua câu chuyện của Bác thấy rằng khi tự mình đọc hiểu được văn thì mới trau dồi viết văn cho tốt được, bởi lẽ chỉ những ai hiểu được văn mới viết được văn và ngược lại cũng vậy. Khi có kĩ năng đọc hiểu thì với một văn bản chưa học cùng loại với văn bản SGK chắc chắn học sinh sẽ khám phá tìm hiểu được.

Với chuyên đề “Rèn kĩ năng đọc- hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn” chúng tôi mong muốn học sinh có thể tự xây dựng cho mình cách đọc – hiểu riêng để khám phá tác phẩm.

 

PHẦN NỘI DUNG

I.Những vấn đề lí luận chung

1.Văn bản văn học

1.1.Khaí niệm

Theo từ điển thuật ngữ văn học “Trong tiếng Anh có 2 thuật ngữ: text và discourse. Theo truyền thống, “text” là loại được ghi, khắc lại, còn “discourse” là thứ được phát âm ra bằng miệng. “Text” được dịch là văn bản còn “discourse” được dịch là “lời diễn thuyết”, “diễn ngôn”, “lời nói”, “đàm luận”. Ngày nay người ta không phân biệt như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, “văn bản là bất cứ chuỗi kí hiệu nào có khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa được(…) Do đó, một nghi thức, một điệu múa, một nét mặt, bài thơ… đều là văn bản” [4,394]. Quan niệm này giống với Diệp Quang Ban trong “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản”[1].

Còn văn bản văn học ( hay còn gọi là văn bản nghệ thuật, văn bản văn chương) là sản phẩm của tiến trình lịch sử. Văn bản văn học rất đa dạng và phong phú. Có thể hiểu văn bản văn học theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn bản văn học là tất cả các văn bản sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật. Như vậy, không chỉ văn bản thơ, truyện, kịch mà cả các văn bản hịch, cáo, chiếu, biểu, sử kí của thời trung đại hoặc kí, tạp văn của thời hiện đại… đều có thể coi là văn bản văn học. Còn theo nghĩa hẹp, văn bản văn học chỉ bao gồm các sáng tác có hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng hư cấu ( tức là tạo ra những hình tượng bằng tưởng tượng) như sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ…

Muốn đọc hiểu văn bản văn học cần tìm hiểu đặc điểm của nó.

1.2.Đặc điểm của văn bản văn học

1.2.1.Đặc điểm về ngôn từ

Ngôn từ văn học có tính nghệ thuật và thẩm mĩ. Các yếu tố âm thanh, từ ngữ, kiểu câu trong văn bản thường được lựa chọn kĩ lưỡng, trau chuốt, sắp xếp theo một trật tự đặc biệt để tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn. Chẳng hạn như một từ bình thường nhưng được dùng đúng chỗ sẽ giúp người đọc tưởng tượng và cảm thụ một cách đúng đắn và hợp lý về đối tượng được miêu tả: con đường vươn ra, nhà sàn chênh vênh, mắt hau háu…; ngược lại chỉ một từ dùng sai cũng sẽ làm cho câu văn, câu thơ trở nên ngớ ngẩn hoặc vô nghĩa ( Bác Hồ đã từng phê phán cách viết: no cơm áo, cười thênh thênh…). Hay như cách dùng từ của Nguyễn Du rất đặc sắc, có giá trị biểu hiện, khi đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ ( cái vô học của Mã Giám Sinh “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, cái gian manh của Sở Khanh “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”; cái tầm thường, ti tiện của Hồ Tôn Hiến “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình” ).  Hoặc có thể dẫn ra đây hai câu thơ của Bích Khê với những từ ngữ mang thanh bằng gợi cảm giác êm ái, tĩnh lặng trong không gian buổi chiều và trong lòng người:

Chiều đi trên đồi êm như tơ

Chiều đi trong lòng êm như mơ.

Như vậy ở đây cách sử dụng từ ngữ, vần nhịp, thanh điệu… đã tạo thành tính nghệ thuật. Vẻ đẹp, sức hấp dẫn của hình tượng đã làm nên tính thẩm mĩ.

Ngôn từ văn học dùng để sáng tạo hình tượng, tức là nói tới một thế giới tưởng tượng, “mỗi từ đều có khả năng phát động một trường liên tưởng rộng lớn” (V.V.Vinogradop). Gía trị của ngôn từ văn học khi nó dựng lên được bức tranh của đời sống chân thật sinh động trong trí tưởng tượng của con người. Đặc điểm này khiến cho văn bản văn học khái quát được các vấn đề xã hội và con người. Các nhân vật như Huấn Cao, Đôn Ki- hô – tê, chị Dậu, lão Hạc… dẫu có nguyên mẫu ngoài đời nhưng đều là nhân vật hư cấu. Có những hình tượng được xây dựng là những loài vật, sự vật nhưng ít nhiều đều mang bóng dáng, tính cách của con người, biểu hiện đời sống của con người như nhân vật Dế Mèn, võ sĩ Bọ Ngựa, con mèo lười trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài, là vầng trăng, bông hoa hồng trong thơ Bác… Ví dụ như bằng ngôn từ Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo biểu tượng cho linh hồn con người Tây Nguyên trong kháng chiến, cho khát vọng tự do, sức mạnh, sức sống mãnh liệt, cho vinh quang, vĩnh cửu bất tận của con người sử thi…

Ngôn từ văn học do yêu cầu sáng tạo hình tượng mà có tính biểu tượng và đa nghĩa. Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm nhưng lại mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc. Các từ ngữ thông thường như dòng sông, sóng, đất, cát, hoa, cỏ, nắng, gió, mưa, bão… khi đi vào văn bản văn học đều có thể trở thành những biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc và khái quát. Ví như xây dựng hình ảnh người mẹ như là biểu tượng cho Tổ quốc, đất nước – một biểu tượng vừa gần gũi, thân thương, biết bao kì vĩ, đó là tài năng và sâu xa hơn, đó là tình cảm gắn bó máu thịt, là tình yêu thiết tha, sâu sắc nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ đối với quê hương đất nước.

Mẹ Việt Nam ơi!

Đêm nay con về gối đầu trên cánh tay của mẹ

Ôi cánh tay rắn rỏi, dịu hiền

Lấm láp bùn lầy nhưng ấm áp niềm tin

Đó là hai cánh đê sông Hồng của mẹ.

(Nguyễn Khoa Điềm)

Như trong truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu tác giả bằng ngôn từ văn học đã xây dựng hình tượng là chiếc gương soi mặt và bức tranh của ông thợ cắt tóc

( người chiến sĩ năm xưa) chính là biểu tượng độc đáo cho tác phẩm. Như vậy tính biểu tượng làm cho ngôn từ văn học có khả năng biểu đạt sâu, rộng, phong phú.

Do tính biểu tượng mà ngôn từ văn học thường có tính đa nghĩa, biểu hiện những ý ở ngoài lời. GS.Trần Đình Sử trong bài “Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học” [7] khẳng định: Tính mơ hồ, đa nghĩa của nghệ thuật bắt nguồn từ chỗ nghệ thuật được viết ra để cho người đọc đồng sáng tạo…Mà đã đồng sáng tạo thì tác phẩm không thể đồng nhất vào chính nó. Nó nhòe đi, lớn lên, phong phú thêm, hoặc biến dạng bất ngờ do cảm nhận sâu, nông của người đọc. Khi ta nắm bắt một tư tưởng tác phẩm cũng là lúc tác phẩm đã nhòe đi, mơ hồ đi vì ta chỉ nắm được một phần của nó. Trong câu “Người đi? ừ nhỉ, người đi thực! Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say”(Tống biệt hành – Thâm Tâm), khuyết đối tượng được “thà coi”, làm cho người đọc lý giải, cảm nhận ở nhiều hướng khác nhau. Từ việc lược chủ thể đã chuyển sang đa chủ thể. Hay như trong câu “Đưa người ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng?/Bóng chiều không thắm không vàng vọt/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”( Tống biệt hành – Thâm Tâm). Sự đa nghĩa trong những câu thơ trên tạo ra những trường liên tưởng ở người đọc. Từ “sao” được đặt ở đầu câu không phải để diễn tả có hay không có “tiếng sóng” và “hoàng hôn” mà hỏi để khẳng định nỗi buồn ngập tràn trong lòng người đưa tiễn và người ở lại.

Các đặc điểm về ngôn từ làm cho văn bản văn học có giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ.

 

1.2.2.Đặc điểm về hình tượng nghệ thuật

“Hình tượng văn học chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật” [4,147]. Như vậy từng câu, từng chữ của văn bản với các chi tiết về hành vi, lời nói, chân dung của con người, màu sắc của ngoại cảnh cùng với cách bố cục, kết cấu của tác giả… dần dần gợi ra thế giới của những con người nói riêng. Đến với nghệ thuật, ta như được chứng kiến, được sống cuộc sống trong tác phẩm, ta ghi nhớ Chí Phèo vì cái mặt lằn dọc lằn ngang đầy những sẹo của hắn, vì “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”, vì cách uống của hắn, vì những cuộc rạch mặt ăn vạ, vì “mối tình” của hắn với thị Nở, vì nỗi buồn khi tỉnh rượu và cuộc trả thù đẫm máu( Chí Phèo – Nam Cao)

Hình tượng văn học là một phương tiện giao tiếp đặc biệt. Hình tượng văn học không chỉ là thế giới đời sống mà còn là một thế giới “biết nói”. Thông qua các chi tiết, nhân vật, cảnh vật và quan hệ giữa các nhân vật, nhà văn truyền cho người đọc cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, gợi lên một cách hiểu, quan niệm về cuộc sống.

Nói hình tượng văn học là một phương tiện giao tiếp vì nó vừa biểu hiện hiện tượng đời sống, vừa hàm chứa các ý nghĩa khái quát do tác giả gửi gắm mà người đọc cần “đọc” ra. Vì vậy đọc hiểu văn bản chính là thực hiện quá trình giao tiếp giữa người đọc và tác giả.

1.2.3.Đặc điểm về ý nghĩa văn bản văn học

Để phân tích, lý giải, có thể chia ý nghĩa của văn bản văn học thành các lớp như sau:

Đề tài là hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong văn bản văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Ví dụ, đề tài của “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố) là cuộc sống bế tắc đen tối của người nông dân trước cách mạng.

Chủ đề là vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định: tác phẩm viết về cái gì? thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi: vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? Chủ đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm. Ví dụ như cuộc sống cơ cực, bế tắc của người nông dân Việt Nam qua chính sách sưu thuế tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến những năm 30 là chủ đề của tiểu thuyết “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố. Chủ đề bao giờ cũng hình thành và được biểu hiện trên cơ sở của đề tài. Tuy nhiên, trong thực tế văn học lại tồn tại một tình trạng phổ biến là: nhiều tác phẩm cùng hướng về một đề tài nhưng chủ đề của chúng lại khác nhau ( ví dụ như: Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan; Tắt đèn của Ngô Tất Tố; Chí Phèo của Nam Cao)

Chủ đề tác phẩm nói lên chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống. Vì vậy, từ những đề tài cụ thể, rất bình thường, tác giả có thể nêu lên những chủ đề mang ý nghĩa khái quát to lớn, sâu sắc. Cùng với tư tưởng, chủ đề tạo ra tầm vóc của tác phẩm.

Ở những văn bản văn học có nội dung cụ thể rộng lớn, cốt truyện phức tạp phân thành nhiều tuyến, khối lượng nhân vật phong phú, người ta thường phân biệt chủ đề chính và các chủ đề phụ, vì ở đây nhà văn có thể đặt ra hàng loạt vấn đề. Trong những trường hợp này chủ đề chính được xem là vấn đề bao quát nhất, chủ yếu nhất, còn chủ đề phụ được xem là những vấn đề nhỏ hơn, thứ yếu hơn và có liên quan chặt chẽ với chủ đề chính.

Tư tưởng văn bản văn học là sự nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cá thể sống động của văn bản văn học, cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Ví dụ như: tư tưởng của tiểu thuyết “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố là tố cáo quyết liệt thế lực thống trị đen tối, thối nát, phi nhân đã chà đạp tàn bạo cuộc sống của con người, nhất là nông dân nghèo. Tư tưởng của “Tỏa nhị Kiều” – Xuân Diệu là sự liên hệ, suy tưởng giàu sức gợi về những cuộc đời nhạt nhẽo, vô vị, lỡ nhịp, tẻ nhạt.

Chủ đề của văn bản văn học còn bao hàm các lớp ý nghĩa khác gắn liền với tính chất thẩm mĩ, tư tưởng của văn bản. Cảm hứng là niềm say mê thể hiện trong sự ngợi ca, yêu thương hay căm giận…; tính chất thẩm mĩ thể hiện ở cái đẹp, cái cao cả, cái bi hay cái hài…; triết lí nhân sinh thể hiện ở quan niệm về cuộc đời, con người…

Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của văn bản văn học, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời. Tư tưởng thấm nhuần trong văn bản như máu chảy trong huyết quản thấm đến từng tế bào cơ thể. Do yêu cầu của tư duy khái quát, chúng ta thường đúc kết tư tưởng của văn bản bằng một mệnh đề trừu tượng, ngắn gọn. Thật ra, qua văn bản tư tưởng “náu mình” trong những hình tượng sinh động, những cảm hứng sâu lắng của tác giả.

Đối với tư tưởng văn bản văn học trước hết hãy cảm nhận bằng trái tim. Mọi sự khái quát suy lí đều chỉ có giá trị tương đối. Đó là lí do vì sao có sự tiếp nhận khác nhau về tư tưởng văn bản văn học, và vì sao mà các nhà văn lớn như Gớt, Tonxtoi từ chối trả lời câu hỏi về tư tưởng văn bản cụ thể của họ.

Tư tưởng văn bản văn học không phải giản đơn là cái ý đồ tư tưởng mà nhà văn muốn biểu hiện, mà là cái điều tự thân văn bản “nói” với người đọc. Tư tưởng văn bản thường lớn hơn ý đồ nhà văn.

Gọi đề tài, chủ đề, cảm hứng, tính chất thẩm mĩ… là các lớp nghĩa của văn bản văn học vì chúng hàm ẩn trong các nhân vật, chi tiết, ngôn từ, do người đọc nhận ra và khái quát thành những nhận định. Nhưng các nhận định ấy không bao giờ nói hết những lớp ý nghĩa được người đọc cảm nhận trực tiếp từ hình tượng.

1.2.4.Đặc điểm về cá tính sáng tạo của nhà văn

Văn bản văn học nào cũng do tác giả viết ra và ít nhiều đều để lại dấu ấn của người sáng tạo. Văn học dân gian tuy không thể hiện cá tính riêng biệt của tác giả như văn học viết, song cũng có thể nhận thấy cách nhìn của người sáng tạo qua lời ăn tiếng nói, có thể phân biệt được đặc điểm riêng trong ca dao của người miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Văn bản văn học viết do tác giả là những cá nhân sáng tác nên thường thể hiện được cá tính – những nét riêng có tính cá nhân của họ. Nhà phê bình Hoài Thanh quan niệm rằng nhà văn nào cũng phải có cá tính sáng tạo. Đây là điều kiện tiên quyết quyết định đến sự thành bại của văn chương. Với Hoài Thanh “trong văn chương cần phải theo bẩm tính của nhà văn”. “Bẩm tính” chính là khả năng sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi nhà văn. Ông đã từng đưa ra một so sánh thú vị “Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống hệt nhau. Hình dung còn thế huống nữa tinh thần”. Như vậy Hoài Thanh đề cao cái tài, bản sắc riêng, coi nó là “một nguồn sống”. Khi cho cái tài là nhân tố hàng đầu thì tất yếu thừa nhận sự quan trọng của cá tính sáng tạo của nhà văn trong việc tạo ra các văn bản văn học có giá trị. Mỗi tác giả tạo cho mình một giọng điệu riêng, phong cách riêng được thể hiện ở cách dùng từ, đặt câu, cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ nhân vật…Như cùng viết về cái danh trong khoa cử, nếu Tú Xương có phát ngôn thơ trào phúng mang tính mạnh mẽ, sâu cay: “Sở khảo khoa này bác cử Nhu/ Sách như hũ nút, chữ như mù/ Văn chương nào phải là đơn thuốc/ Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu” (Ông cử Nhu), thì Nguyễn Khuyến lại nhẹ nhàng mà thâm thúy: “Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ/ Cái giá khoa danh ấy mới hời” (Tiến sĩ giấy).Vậy là chỉ có các tài năng lớn mới tạo ra những nét nghệ thuật độc đáo, có ý nghĩa lớn thể hiện trong trong hình tượng, chi tiết, cách nhìn, giọng điệu.

Đặc điểm về cá tính sáng tạo của tác giả làm cho các văn bản văn học phong phú, mới mẻ, không lặp lại. Văn học không chấp nhận sự rập khuôn, sáo mòn, không chấp nhận nhà văn là “những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” để cho ra đời những sản phẩm hàng loạt. Văn bản văn học có cá tính sáng tạo là một tiếng nói riêng mới lạ, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của người đọc. Như sử dụng hoa sen đã trở thành biểu tượng phẩm chất cao quý của con người Việt Nam nhưng mỗi tác giả có cách biểu đạt riêng mang đậm nét cá tính sáng tạo riêng. Khi nói đến sen, là người Việt Nam chắc hẳn ai cũng thuộc câu ca dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/ Nhị vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Khi xưa Mạc Đĩnh Chi khi đứng trước vua Trần Anh Tông đã thể hiện rõ phẩm chất của mình qua bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc). Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, tuy gần bùn mà chảng hôi tanh mùi bùn, vả lại sen lại được trồng trong giếng ngọc nữa thì càng cao quý biết bao. Mạc Đĩnh Chi cũng như sen, dù trong hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao.

Tất cả các đặc điểm ngôn từ, hình tượng đến ý nghĩa, cá tính sáng tạo làm cho văn bản văn học trở thành một sản phẩm độc đáo.

2.Tiếp nhận văn học

2.1.Khái niệm

Tiếp nhận văn học có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau. Theo giáo trình “Lí luận văn học” [8] đã viết “tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác, giao tế của văn học. Người nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khái quát về cuộc đời cho người đọc. Chỉ khi ban đọc tiếp nhận, quá trình sáng tạo mới được hoàn tất. Thực chất của quá trình này là chuyển từ cảm xúc đến bạn đọc cộng hưởng cảm xúc đó.”

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì “tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng của hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể…” [4]

Như vậy, các quan niệm trên đều cho thấy rằng tiếp nhận văn học là quá trình giao tiếp giữa bạn đọc với tư cách là “người nhận tin” và tác giả với tư cách là “người truyền tin”. Thực chất của hoạt động này là sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa người đọc và hình tượng văn học.

2.2.Đặc điểm

Văn bản văn học là kết tinh quá trình tư duy nghệ thuật của nhà văn, biến những biểu tượng, ý nghĩa, cảm xúc bên trong của nhà văn thành sự thực văn hóa xã hội khách quan cho mọi người soi ngắm, suy nghĩ. Mỗi tác phẩm văn chương được khẳng định là chân chính… khi tác phẩm đó được xã hội, công chúng tiếp nhận văn học thừa nhận, khẳng định giá trị nghệ thuật và tầm cao tư tưởng của nó. Có thể nói tác phẩm chỉ có được đời sống khi được tiếp nhận. Công chúng độc giả không tham gia vào hoàn cảnh sản sinh tác phẩm nhưng họ lại là “cán cân công lý” quyết định sức sống lâu dài hay ngắn ngủi của mỗi sáng tác văn học.

Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, là hình thái ý thức xã hội. Bởi văn học là sản phẩm của cá tính sáng tạo. Mỗi cá nhân nhà văn nhận thức xã hội, lịch sử thời đại thông qua lăng kính chủ quan của họ và phản ánh những sự kiện sự việc…trong đời sống thông qua những đề tài, chủ đề khác nhau với mục đích cũng rất khác nhau. Chính vì vậy sự phản ánh của họ mang tính cụ thể, cảm tính thông qua những kinh nghiệm, những hiểu biết của từng người.

Tác phẩm văn học là kết quả của những tình cảm và lao động nghệ thuật nghiêm túc nhất của mỗi nhà văn để đưa chân lý khách quan tới bạn đọc, là kết quả của việc đánh giá thực tiễn bằng nghệ thuật của mỗi nhà văn, nhà thơ. Có thể nói quá trình người nghệ sĩ lao động sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật là một hành trình vất vả, gian khổ kiếm tìm cái đẹp. Văn học nghệ thuật là lĩnh vực của cái đẹp – là hoạt động sáng tạo mang tính thẩm mĩ. Và nhà văn là người sáng tạo nên cái đẹp. Vậy ai là người làm cho cái đẹp trường tồn với thời gian? Trả lời câu hỏi này cũng có nghĩa là khẳng định vị trí, vai trò của công chúng độc giả trong vòng đời sinh mệnh của tác phẩm văn học. Tác phẩm chỉ có được đời sống khi được tiếp nhận – nghĩa là được công chúng độc giả thừa nhận – khẳng định giá trị chân chính của nó. Chính trong quá trình tiếp nhận, độc giả đã thổi vào mỗi trang văn bản linh hồn của sự sống, tạo cho tác phẩm một cuộc sống mới – cuộc sống trong đời sống văn học. Độc giả là cầu nối quan trọng biến những bản văn chương trở thành tác phẩm văn chương, biến những kí hiệu ngôn ngữ chết cứng trên văn bản thành những ngôn ngữ biết nói, những dòng chữ “phập phồng nhựa sống”.

Điều đáng nói ở đây là vai trò của người tiếp nhận văn học. Làm thế nào để vừa khai thác được giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, làm nổi bật ý đồ nghệ thuật của nhà văn… vừa không làm cho tác phẩm ấy nhàu nát đi…

Có thể nói tiếp nhận văn học là một quá trình sáng tạo lại tác phẩm. Nói như nhà ngữ văn Nga Potepnhia: “Chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo nó”. Sáng tạo ở đây là để hiểu tác phẩm chứ không phải làm ra tác phẩm mới. Chúng ta không thể coi văn bản là số 0, đã biến mất, tác phẩm do người đọc sáng tạo ra. Qúa trình tiếp nhận văn học mà khâu đầu tiên là đọc văn – là một quá trình đồng sáng tạo. Người đọc văn học được coi là kẻ đồng sáng tạo ra tác phẩm. Tuy nhiên, tính sáng tạo của người đọc – người tiếp nhận và tác giả khác nhau. Tính sáng tạo của tác giả thể hiện ở việc nhà văn tìm tòi, khái quát… để tạo ra tác phẩm mới. Nhà văn là người luôn “đào sâu, tìm tòi… khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Tính sáng tạo của người đọc là hoạt động cùng sản xuất sản phẩm tinh thần với tác giả, hình thành chu trình sản xuất mà tác giả đã khởi đầu, và chủ yếu là nói sự đồng thể nghiệm, đồng cảm, cùng biểu diễn để làm sống dậy cái điều nhà văn muốn nói.

Trong quá trình tiếp nhận văn học tùy từng kinh nghiệm, hứng thú, lập trường, quan điểm của người đọc khiến cho sự chú ý, rung cảm của người đọc liên hệ với các thuộc tính, chi tiết, bình diện khác nhau của tác phẩm: đạo đức, triết lý, thẩm mĩ, chính trị, nhạc điệu…

Các thời kì lịch sử và môi trường xã hội cũng khiến cho các cách hiểu của cá nhân bị phụ thuộc vào. Ví dụ như câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã có một thời trong một thời người ta cho rằng những câu thơ trên thể hiện chất tiểu tư sản ủy mị, nó nói đến những “buồn rơi mộng rớt” làm yếu mềm bàn tay cầm súng của người chiến sĩ. Nhưng giờ đây, có đủ thời gian bình tĩnh đọc lại, với thái độ công bằng hơn, người ta có thể khẳng định đây là những câu thơ hay nhất trong thi phẩm. Nó ghi lại chân thực những khuất nẻo trong tâm hồn người lính. Bàn tay trước khi cầm súng đã từng cầm bút. Nỗi nhớ của họ là nỗi nhớ rất con người. Trước khi là người anh hùng họ phải là những con người của đời thường bình dị. Nói như Mác “không có gì thuộc về con người mà lại xa lạ đối với tôi”. Nếu không có những phút giây lãng mạn, bay bổng như thế thì tâm hồn người lính sẽ chai sạn, họ sẽ không đủ sức để đương đầu và vượt qua gian khổ. Người lính cầm súng lên đường, hi sinh tuổi xuân, thậm chí cả mạng sống của mình vì quê hương. Nhưng quê hương là gì nếu như trước hết không phải là những gì họ yêu thương nhất?

Chúng ta đã từng cảm thông với nỗi nhớ mộc mạc của người lính xuất thân từ nông thôn:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh, tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya. (Hồng Nguyên)

thì tại sao chúng ta không trân trọng nỗi nhớ thi vị của người lính xuất thân từ những thanh niên trí thức Hà thành.? Chính nỗi nhớ này đã tạo nên vẻ đẹp lãng mạn cho hình tượng người lính. Chân dung của họ trở nên hoàn hảo, vừa hào hùng lại rất đỗi hào hoa. Qua đó có thể khẳng định rằng: tiếp nhận là một giai đoạn tồn tại của hình tượng nghệ thuật, là một khâu không thể thiếu được của sáng tạo nghệ thuật như “là một hoạt động sản xuất tinh thần”. Tiếp nhận văn học là một quá trình phong phú, phức tạp… cải biến văn bản văn học thành tác phẩm văn học. Và lúc này, tác phẩm văn học thực sự sống cuộc sống của nó – cuộc sống trong đời sống văn học.

Tiếp nhận văn học là một quá trình hoạt động bằng sự thực hành và thưởng thức. Qúa trình đó đem lại cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố và phát triển một cách phong phú nhân cách khả năng thuộc về thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống.

2.3.Các cấp độ của quá trình tiếp nhận

-Cấp độ thứ nhất: cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, trực tiếp của tác phẩm. Đây là cách tiếp nhận đơn giản nhưng khá phổ biến.

-Cấp độ thứ hai: cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung tư tưởng của tác phẩm.

-Cấp độ thứ ba: cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức để thấy được giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

3.Đọc- hiểu văn bản văn học như một hình thức tiếp nhận

Gía trị đích thực và cuối cùng của lý thuyết tiếp nhận văn học là ở chỗ văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có sự tương tác với bạn đọc, “chỉ qua hành động đọc của người đọc văn bản mới trở thành tác phẩm văn học” [6,11]. Người đọc luôn là người kiến tạo nghĩa cho văn bản trở thành tác phẩm, như vậy đồng nghĩa với việc đề cao vai trò sáng tạo của mỗi bạn đọc. Đọc hiểu văn bản văn học như một hình thức tiếp nhận bởi khi việc đọc hiểu một văn bản văn học diễn ra thì có bao nhiêu bạn đọc là có bấy nhiêu tác phẩm được sinh thành trong họ. Truyện Kiều là một minh chứng cho điều đó, có một truyện Kiều do Nguyễn Du sáng  tác nhưng khi bạn đọc đọc- hiểu tiếp nhận thì lại có vô vàn, đó là truyện Kiều “của Phạm Qúy Thích, “của” Mộng Liên Đường, “của” Chu Mạnh Trinh, “của” Phạm Quỳnh, “của” Huỳnh Thúc Kháng, mỗi người một vẻ, và ở trong trường phổ thông mỗi học sinh lại có một truyện Kiều trong sâu thẳm trái tim khối óc của mình.

3.1.Những quan niệm về đọc – hiểu

Có nhiều quan niệm về đọc hiểu văn bản. GS Trần Đình Sử đã tách đọc – hiểu thành hai khái niệm đồng đẳng nhau “đọc” và “hiểu”[9]. “Đọc là hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa”. “Đọc” có nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng giọng đúng chỗ. Bước hai là đọc kĩ, đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ. Bước thứ ba là đọc hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc. Đọc vận dụng và đọc sáng tạo là khâu cao nhất, người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu được nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Còn “hiểu” theo tác giả là “hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu nghĩa toàn bài. Khi đã hiểu đúng thì mới hiểu sáng tạo”.

Còn với tác giả Nguyễn Thanh Hùng thì khẳng định khi đặt vấn đề đọc hiểu trong môi trường đọc thì sẽ thấy hiện lên một hệ thống các nhân tố có liên quan mật thiết đến nhau. ” Trong hệ thống ấy, hành động đọc là cơ bản và có tầm quan trọng”, còn “hiểu chỉ là kết quả mong muốn và tất yếu của hoạt động đọc”[5].

Tuy nhiên, gần đây quan niệm của PISA về đọc hiểu được nhiều người quan tâm đến. Theo PISA, “Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng, phản hồi và chiếm lĩnh các văn bản viết nhằm đạt được những mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như tham gia vào đời sống xã hội của mỗi cá nhân”

3.2. Vì sao phải hình thành kĩ năng đọc- hiểu

Đọc sách báo là nhu cầu tự nhiên: đọc để giải trí, đọc để hiểu biết, trau dồi vốn sống để sống tốt hơn. Ai biết chữ và thích đọc đều có thể đọc. Tuy nhiên hiện nay nhiều người còn nhầm tưởng cứ biết chữ là biết đọc văn mà không hiểu rằng biết chữ nhưng rất có thể là mù văn . Bởi văn bản văn học là văn bản nghệ thuật, muốn hiểu biết và thưởng thức thường không dễ. Các Mác từng nói, đối với đôi tai không biết âm nhạc thì bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa gì. Nhà văn Sê- khốp trong một vở kịch đã từng chế giễu người xem kịch hát chỉ hứng thú với cái giọng trầm của diễn viên. Đối với anh ta nội dung vở kịch không có gì đáng chú ý. Như vậy không có kĩ năng đọc hiểu, đọc mà không hiểu gì về văn bản văn học thì tác phẩm dẫu có dễ hiểu bao nhiêu cũng vẫn có thể hiểu sai, hiểu lệch.

GS Trần Đình Sử đã từng đưa ra những cứ liệu xác đáng về tầm quan trọng của việc đọc hiểu văn bản: “ủy ban văn hóa và giáo dục liên hiệp quốc vào năm 1970 tại khóa họp thứ 16 đã đưa ra khái niệm “xã hội đọc”, đến năm 1996 người ta đã kỷ niệm 40 năm thành lập hiệp hội những người đọc quốc tế gọi tắt là IRA. Trung Quốc từ năm 1991 đã thành lập hội người đọc Trung Quốc gọi tắt là CRA. Ở phương Tây, vấn đề đọc đã có lịch sử nghiên cứu lâu dài, môn “đọc học” chính thức ra đời năm 1879. Bắt đầu từ phòng nghiên cứu tâm lý đọc của học giả Đức Wunf, tiếp theo là nghiên cứu giải thích học, mỹ học, tiếp nhận xã hội học và sự đọc, kỹ thuật đọc nhanh. Đến năm 1979, người ta đã kỷ niệm 100 năm của ngành học này. Rõ ràng với cách hiểu sâu rộng đó, thế giới đã tiến xa hơn chúng ta một chặng đường rất dài. Một nước cũng đi sau thế giới phương Tây như Trung Quốc đến năm 1980 đã bừng tỉnh về khoa học đọc. Cho đến nay, theo số liệu của Giáo sư Tăng Tường Cần đã có 120 cuốn sách chuyên luận về đọc, 1600 bài khảo sát nghiên cứu về sự đọc. SGK Ngữ văn một phần được gọi là đọc văn (duyệt độc) bên cạnh phần làm văn (tác văn)” [10]. Như vậy khái niệm đọc hiểu văn bản đã hình thành từ rất lâu trên thế giới.

Mặt khác trong thời đại ngày nay khi sự giao lưu văn hóa quốc tế được gia tăng, khi điều kiện tiếp xúc các nguồn văn bản được mở rộng, trong bối cảnh đó trình độ văn hóa của một quốc gia được đánh giá bằng năng lực nắm bắt, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. Mà quốc gia nào có nhiều người biết đọc hiểu, biết đâu là chỗ quy tụ thông tin, đâu là câu then chốt thể hiện tư tưởng của tác giả thì đó là quốc gia mạnh. Muốn như vậy nhiệm vụ của nhà trường rất           quan trọng – đó sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc hiểu, đọc chủ động sáng tạo chứ không phải là sự đọc ăn theo nói leo một số người nào đó. Nhất là trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay khi các phương tiện nghe nhìn cạnh tranh quyết liệt với thời gian đọc thì việc nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho mọi người càng cần thiết.

GS Hoàng Tuệ đã từng khẳng đinh rằng: kỹ năng nghe, nói, đọc, viết là kĩ năng lao động của con người. Phai có kĩ năng ấy con người mới có thể tham gia thực sự vào hoạt động lao động xã hội hiện đại. Nội dung sơ đẳng nhất của việc đọc đó là nắm bắt đúng thông tin trong văn bản sau đó mới tới cảm nhận giá trị thẩm mĩ, tiếp nhận giáo dục hay năng lực tư duy sáng tạo. Nếu không tự đọc hiểu văn thì không thể trau dồi viết văn cho tốt được. Do không có năng lực đọc – hiểu nên nếu cho một văn bản cùng loại với văn bản đã học trong SGK thì học sinh sẽ khó khăn khi tiếp cận.

Vì vậy, muốn đọc hiểu được văn bản văn học, cảm thông và thưởng thức được các giá trị tư tưởng, nghệ thuật thì phải học cách đọc.

3.3.Yêu cầu của đọc- hiểu văn bản văn học

Muốn hiểu đúng một văn bản văn học thì cần phải tôn trọng tính chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết, đích của văn bản. Người đọc cần hiểu rằng mọi yếu tố của văn bản đều có nghĩa, các yếu tố đó kết lại thành hệ thống, và nghĩa có sức thuyết phục nhất sẽ phù hợp, không mâu thuẫn với bất cứ yếu tố biểu hiện nào. Nếu chỉ nắm lấy một vài yếu tố, bỏ qua, không đếm xỉa đến các yếu tố khác chỉ là sự suy diễn hay cắt xén.

 

 

3.4.Các bước đọc – hiểu văn bản văn học

3.4.1. Xác định mục đích, yêu cầu

Mục đích cuối cùng của việc đọc – hiểu văn bản văn học là khám phá tầng ý nghĩa, tìm ra thông điệp, bài học cuộc sống mà nhà văn gửi gắm.

Vì vậy yêu cầu của đọc – hiểu văn bản trước hết phải cắt nghĩa được văn bản văn học đó.

3.4.1.1.Xử lý văn bản

3.4.1.1.1.Khám phá nhan đề, đề từ, mở, kết của văn bản.

-Nhan đề thường kết tinh nội dung và tư tưởng của tác phẩm.

Ví dụ:

“Vợ nhặt”- khêu gợi trí tò mò cho người đọc, Tràng lại “nhặt” được vợ trong cái năm người chết đói như ngả rạ. Tác phẩm tố cáo sâu sắc chế độ thối nát, vô nhân đạo đương thời. Hay “Đôi mắt”- nhan đề bộc lộ cách nhìn, cách đánh giá của Nam Cao đối với quần chúng nhân dân lao động và cuộc kháng chiến của dân tộc, cũng như quan điểm sáng tác của tác giả: muốn sáng tác được những tác phẩm có giá trị, nhà văn phải thâm nhập vào thực tế và biết nhìn nhận, đánh giá những mặt tốt của con người.

-Mở, kết của tác phẩm cũng có tầm quan trọng đặc biệt. nó phản ánh cách đặt vấn đề và giải quyết các vấn đề đời sống của tác giả.

Ví dụ: tác phẩm “Chí Phèo

+ Mở: ta bắt gặp Chí Phèo ngật ngưỡng với chai rượu trong tay, vừa đi, vừa chửi tất cả.

+ Kết: xuất hiện cái lò gạch cũ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…

Ý nghĩa của mở và kết của “Chí Phèo”: chừng nào còn tồn tại cái xã hội bất công, vô nhân đạo, chà đạp lên quyền sống của con người, chừng ấy vẫn còn có những nhân vật như Chí Phèo. Tác phẩm tố cáo xã hội một cách sâu sắc.

3.4.1.1.2.Tìm hiểu từ ngữ, điểm nhìn và cái nhìn chủ thể.

-Khi tiếp nhận văn bản, nhất thiết phải tìm hiểu các từ ngữ, nhất là những từ “thần”, từ “đắt’.

Ví dụ:                Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Hoặc:                 Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào

Có người đã nhận xét rằng, Nguyễn Du thật tài tình. Cụ đã giết Mã Giám Sinh bằng một chữ “tót”, giết Sở Khanh bằng một chữ “lẻn”. chỉ một chữ thôi nhưng đã lột tả được bản chất của hai kẻ buôn nguyệt bán hoa

-Để hiểu sâu sắc văn bản, người đọc cũng phải xác định điểm nhìn, cái nhìn của chủ thể nhà văn, để từ đó hiểu thêm ý tứ của tác giả.

Ví dụ: “Khóc Tổng Cóc” và “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường” – là hai bà thơ khóc hai ông chồng của một tác giả – Nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Hai bài thơ có những nét khác nhau cơ bản, xuất phát từ hai điểm nhìn khác nhau của nhà thơ.

3.4.1.1.3.Cắt nghĩa được câu văn, đoạn văn trong văn bản.

Khi đọc, cần dừng lại ở những câu thơ hay, những đoạn văn tiêu biểu để suy ngẫm, phân tích, đánh giá chúng. Ví dụ: câu văn “vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm” (“Ký Sông Đà” – Nguyễn Tuân) có cụm từ “nắng giòn tan” rất hay và độc đáo, cho ta cảm nhận được một thứ ánh nắng ấm áp, vui tươi mà người ta chờ đợi rất lâu sau kỳ mưa dầm lê thê.

Chọn những thông tin quan trọng nhất trong bài văn để suy ngẫm.

Nắm bắt các câu then chốt trong bài văn.

  • Câu chuyển đoạn, chuyển mạch, chuyển ý.
  • Câu chủ đề (đầu hoặc cuối đoạn).
  • Câu trung tâm và tư tưởng của bài văn

Ví dụ:

“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chụi mất nước, nhất định không chụi làm nô lệ”. Đây là câu then chốt trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nói lên tinh thần quyết chiến với kẻ thù của Hồ Chủ Tịch và nhân dân ta.

Tóm lại, trong quá trình đọc, nhất thiết ta phải hiểu nghĩa của văn bản ấy. Các yếu tố vừa đề cập ở trên, nhiều khi không bộc lộ trực tiếp dưới dạng suy lý, khái niệm, mà nó thể hiện qua toàn bộ thế giới hình tượng: tính cách, xung đột, không khí, cảnh vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ… chúng tồn tại trong tác phẩm như những hàm nghĩa của hình tượng. Đề tài, chủ đề, tính cách, sự lý giải, cảm hứng của tác giả… thực chất là những “nghĩa” ở các cấp độ và phạm vi khác nhau của tác phẩm.

Như vậy, cắt nghĩa là con đường chiếm lĩnh tác phẩm một cách tự giác, làm cho nội dung tác phẩm được cụ thể hóa trong tâm trí người đọc. Sau khi cắt nghĩa được văn bản văn học thì người tiếp nhận cần đi sâu khám phá các tầng nghĩa của văn bản văn học.

3.4.1.2.Xác định các bước đọc- hiểu văn bản văn học

3.4.1.2.1.Đọc – hiểu ngôn từ

Bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng sử dụng một chất liệu nhất định trong tự nhiên để xây dựng thành hình tượng. Nhờ những thủ pháp nghệ thuật riêng cuả từng loại hình nghệ thuật, các chất liệu tự nhiên được nhào nặn lại và trở thành những yếu tố mang tính thẩm mĩ. Quan hệ giữa hình tượng và chất liệu là quan hệ hữu cơ, xuyên thấm, thâm nhập vào nhau. Chất liệu sẽ mất đi tình thẩm mĩ nếu rời bỏ hình tượng và ngược lại hình tượng chỉ có thể tồn tại qua chất liệu. Vì vậy trong thực tế không có hình tượng nói chung mà chỉ có hình tượng gắn liền với chất liệu cụ thể: hình tượng hội họa được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; hình tượng điêu khắc được xây dựng bằng đường nét, hình khối; hình tượng âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu. Còn văn học? Văn học xây dựng hình tượng bằng ngôn từ. Nói văn học là nghệ thuật ngôn từ là vì thế. Nói văn học là nghệ thuật ngôn từ thực chất là nói văn học là nghệ thuật sử dụng các từ ngữ hình tượng, các phương thức chuyển nghĩa của từ, câu, đoạn… để tạo nên chỉnh thể tác phẩm thống nhất.

Để đọc – hiểu văn bản văn học thì trước hết phải có ấn tượng toàn vẹn về văn bản. Muốn vậy, phải đọc đúng, đọc thông suốt toàn văn bản, hiểu được các từ khó, từ lạ, các điển cố, các phép tu từ… Đối với thơ, nếu học thuộc lòng thì càng tốt, bởi thế ấn tượng về âm hưởng, hình ảnh thơ sẽ ăn sâu vào tâm trí tạo điều kiện để hiểu thơ hơn. Đối với tác phẩm truyện phải nắm được cốt truyện và các chi tiết từ mở đầu đến kết thúc. Khi đã thuộc lòng văn bản nghĩa là đã nhập tâm vào văn bản và hoàn toàn “chiếm lĩnh” được thế giới ngôn từ.

Ngoài ra, khi đọc văn bản văn học cần hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt mạch xuyên suốt từ câu trước ra câu sau, từ ý này chuyển sang ý khác, đặc biệt là phát hiện ra những mạch ngầm trong văn bản, từ đó mới phát hiện ra chất văn. Bởi thế phải đọc kĩ thì mới phát hiện ra những điểm đặc sắc, khác thường thú vị.

Thực hiện những yêu cầu trên học sinh cần ( hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh) tiến hành một số bước như sau:

B1: gạch chân những từ khó, từ chìa khóa trong văn bản.

B2: nắm bắt logic của văn bản, trong đó có logic về thể loại và logic về ý nghĩa.

B3: khảo sát ngôn ngữ văn bản bằng cách xác định những từ hoặc hệ thống từ chìa khóa trong văn bản, xác định các biện pháp tu từ và ý nghĩa của việc sử dụng những phép tu từ đó.

B4: tìm những điểm bất thường trong logic sự kiện và đánh giá những điểm bất thường đó có dụng ý gì của người viết.

B5: sâu kết các hoạt động trên để tạo ra những ấn tượng chung về nội dung và hình thức văn bản.

Các bước này có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà (đối với văn xuôi) hoặc thực hiện tại lớp ( đối với thơ, các đoạn kịch)

Đọc hiểu ngôn từ là hoạt động tiền đề, có tính chất bản lề cho việc đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật.

3.4.1.2.2.Đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật

Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình giúp con người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh. Nhưng khác với các nhà khoa học, người nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp bằng ý nghĩ, tình cảm, bằng khái niệm trừu tượng, bằng định lí, công thức mà bằng hình tượng, nghĩa là làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, hiện tượng, những con người… đáng làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời tình người qua một chất liệu cụ thể – ngôn từ.

Như vậy, hình tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tài hiện không phải bằng sao chép cái có sẵn mà bằng tưởng tượng sáng tạo. Các khách thể này tồn tại trong không gian, thời gian, trong các sự kiện và những quan hệ, và quan trọng là chúng thường có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ. Đó là tính tạo hình của hình tượng.

Thế giới hình tượng không chỉ được nghệ sĩ phú cho một hình hài, thể xác mà có khả năng bộc lộ cái bên trong, hé mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Đó chính là tính biểu hiện của hình tượng. Tính biểu hiện góp phần gợi lên sự toàn vẹn, đầy đặn của hình tượng.

Hình tượng nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một quan hệ xã hội thẩm mĩ. Đó là những mối quan hệ chồng nén, đối xứng, nhân hóa, ví von… tạo thành những phức hợp quan hệ mang nội dung khái quát. Trước hết đó là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với thực tại mà nó phản ánh, thứ đến, là quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa, quan hệ giữa các yếu tố của bức tranh đời sống. Phức hợp quan hệ này làm cho hình tượng nghệ thuật là một nội dung đa nghĩa, hàm súc, như “phần chìm của tảng băng trôi”.

Muốn đọc – hiểu tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương phải có cái nhìn sâu sắc về hệ thống ngôn từ, một chất liệu biến hóa tạo nên hình tượng. Người đọc phải so sánh đối chiếu những hình ảnh có liên quan với nhau để xác định hình tượng trung tâm của tác phẩm.

3.4.1.2.3.Đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học

Nhà văn sáng tác bao giờ cũng nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm trong tác phẩm. Đó là linh hồn của tác phẩm. Vì vậy, đọc – hiểu văn bản văn học là phải phát hiện được tư tưởng, tình cảm của nhà văn ẩn chứa trong văn bản. Tuy nhiên, tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học thường không được trực tiếp nói ra bằng lời. Chúng thường được thể hiện ở giữa lời, ngoài lời, vì thế, người ta đọc – hiểu tư tưởng tác phẩm bằng cách kết hợp ngôn từ và phương thức biểu hiện hình tượng. Văn bản văn học nói chung không bao giờ nói thẳng tuột ý muốn biểu đạt, cho nên việc đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả ở đây đòi hỏi người đọc phải có năng lực phán đoán, khái quát chính xác, và đó là biểu hiện của sáng tạo.

3.4.1.4.Đọc – hiểu và thưởng thức văn học

Khi một ý nghĩa nào đó xuất hiện trong văn bản văn học, nói chung đều gắn với sự mong muốn, chờ đợi của người đọc, một sự chờ đợi phù hợp với cách biểu đạt của ngôn từ và logic của hình tượng. Đọc – hiểu như vậy là sự tự khẳng định của người đọc về nhiều mặt. Người đọc sung sướng nhận ra tư tưởng của tác phẩm, nhận ra sự thống nhất toàn vẹn của văn bản xung quanh tư tưởng ấy, cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa của văn bản và có được khoái cảm về tinh thần.

Thưởng thức văn học là trạng thái tinh thần vừa bừng sáng với sự phát hiện chân lí đời sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của tác giả, vừa hưởng thụ ấn tương sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Đó là đỉnh cao của đọc – hiểu văn bản văn học. Khi đọc các tác phẩm ưu tú của nhân loại mà chưa đạt đến trạng thái tinh thần ấy, thì có thể nói, việc đọc chưa đạt tầm cao của rung cảm và hưởng thụ nghệ thuật.

3.4.2.Lựa chọn văn bản

Muốn đọc – hiểu văn bản văn học một cách cá tính, độc đáo, mang tính cá nhân thì khâu lựa chọn văn bản phù hợp rất quan trọng. Văn bản đó phải được đánh giá đạt đến sự mẫu mực về thể loại, giàu nội dung, hình thức độc đáo, mang cá tính sáng tạo của nhà văn. Văn bản văn học ấy còn phải phù hợp với trình độ nhận thức, tiếp nhận của lứa tuổi.

3.4.3.Xây dựng câu hỏi/ bài tập rèn kĩ năng đọc- hiểu văn bản văn học

3.4.3.1.Xác định loại thể văn bản văn học

3.4.3.1.1.Quan niệm về loại thể

Lịch sử phân chia loại thể tồn tại nhiều quan niệm phức tạp. Mặc dù loại thể văn học là một hiện tượng hiển nhiên và quan niệm lí luận về loại thể văn học đã có từ lâu trong lịch sử khoa nghiên cứu văn học nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được một lí luận đầy đủ, thống nhất và triệt để về loại thể văn học. Song theo thời gian, quan niệm về vấn đề loại thể cũng thay đổi và ngày càng tiếp cận dần tới chân lý.

Các tác giả Trần Đình Sử – Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam biên soạn cuốn “Lý luận văn học – tập II” nhìn nhận vấn đề loại thể như sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể”[8,194].

Các tác giả Hà Minh Đức – Đỗ Văn Khang – Phạm Quang Long trong cuốn ” Lý luận văn học” có nhìn nhận vấn đề loại thể như sau: ” Thể loại văn học thuộc về phương thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn học cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể… không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của thể loại. Phân tích một tác phẩm về nội dung cũng như nghệ thuật không thể xem nhẹ đặc trưng thể loại” [3,157]. “Vấn đề đặt ra là cần tránh sự tùy tiện, xem nhẹ đặc trưng của từng thể loại và dẫn đến xóa nhòa các ranh giới của thể loại” [3,163].

Như vậy, loại thể văn học là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khăng khít đến nội dung. Mỗi tác phẩm văn học tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp với nó.

Các nhà lý luận văn học và nghiên cứu văn học khi nghiên cứu về vấn đề này đều gặp nhau ở điểm là khi tìm đến loại thể văn chương không nên chỉ dừng lại ở hình thức cấu trúc của nó. Vấn đề loại thể không nên thiên về hình thức mà thực chất “trong bất lỳ hoạt động có tính quy luật nó là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức mà trong đó vai trò của nội dung là chủ yếu” [3,82]. Tức là, sự phân chia loại thể văn học nên xuất phát từ cấu tạo bên trong của tác phẩm văn học và hình tượng văn học chứ không đơn thuần dựa vào một số biểu hiện về hình thức bên ngoài.

Dù diễn đạt bằng cách này hay cách khác thì các nhà nghiên cứu đều nhằm mục đích phân chia thể loại văn học thành ba loại lớn : Tự sự, Trữ tình, Kịch. Các học giả đời sau như Horatxơ, Boalô cũng đều theo đó mà chia làm ba loại.

Nhưng cần nhận thức rất rõ là sự phân chia như trên chỉ là vấn đề lý luận và có tính chất tương đối, hoàn toàn không phải tuyệt đối rạch ròi, dứt khoát. Như chúng ta đã biết “Mọi lý thuyết  thì màu xám còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi” ( Gớt). Thực tế các tác phẩm văn học luôn đa dạng, phong phú, phức tạp như chính hiện thực cuộc sống. Như vậy, chúng ta khó có thể lấy lý thuyết rành mạch để áp đặt, soi rọi vào các tác phẩm văn học. Cần phải có con mắt linh hoạt và hiểu thấu đáo vấn đề. Nếu như chúng ta nhất định muốn xếp các tác phẩm theo từng loại thể riêng biệt, rõ ràng, triệt để như xếp các thông tin vào các file trong máy tính là điều không thể làm được. Nếu như chúng ta cố tạo ra những đường biên cứng nhắc giữa các loại thể hẳn chúng ta sẽ rơi vào tình trạng sai sót đáng tiếc.

Cần lưu ý rằng việc phân chia văn học ra thành loại thể là kết quả tất yếu trên con đường nhận thức của con người “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” ( Mác). Nói rõ hơn, nó là kết quả của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa thực tế tác phẩm sinh động, đồng thời ngược lại kết quả đó lại giúp cho việc phân tích, nhận thức và cảm thụ từng tác phẩm cụ thể. Nói như TS Nguyễn Viết Chữ trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể”: “Việc tận dụng cách phân chia này cũng là cần thiết bước đầu khi đến với tác phẩm văn học. Điều quan trọng là chúng ta luôn thường xuyên tỉnh táo với ba loại tính chất ở từng tác phẩm. Vì chính “tính chất loại thể” ấy mới làm ra diện mạo tinh thần tác phẩm” [2].

Tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” cũng có những đề xuất tương tự như vậy: “Khi xác định một tác phẩm thuộc loại này hay loại kia là chúng ta căn cứ vào đặc trưng loại thể chủ đạo của nó mà thôi, đồng thời không những có thể mà cần thiết phải thừa nhận khả năng các yếu tố thuộc loại thể khác vẫn song song tồn tại trong tác phẩm”.

Thực tế các tác phẩm văn học đã cho ta thấy những ví dụ điển hình. Chúng ta khó có thể xác định và khẳng định một cách cứng nhắc rằng tác phẩm này là thể loại kịch, tác phẩm kia là thể loại trữ tình… Trong tác phẩm tự sự có bao hàm những yếu tố trữ tình và ngược lại.  “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đâu chỉ là câu chuyện kể về số kiếp người con gái tài hoa bạc mệnh mà ẩn giấu trong từng lời thơ, hơi thở của nhân vật là nỗi lòng tê tái, quặn đau, là trái tim thổn thức của nhà thơ.

Sự kết hợp đó là yêu cầu có tính quy luật của sự sáng tác văn học và nhiều khi đó là dấu hiệu về phẩm chất nghệ thuật của một tác phẩm.

Đứng trước vấn đề phức tạp trên đây, chúng ta cần phải có một đường hướng giải quyết nhất định. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với cách làm việc của TS Nguyễn Viết Chữ “Trong từng loại ấy theo sự phát triển ở mỗi thời kì lịch sử của văn học mà có sự thay đổi ở các dạng nhỏ hơn. Về mặt hình thức thì phân chia ba loại tự sự, trữ tình, kịch là tương đối ổn định. Nhưng với công việc của ngành khoa học phương pháp dạy – học văn thì không thể dừng lại ở đó mà phải cụ thể hơn với tính chất của ba loại trong từng tác phẩm cụ thể cũng phải được phát hiện mới có cách xử lý thích hợp đúng đắn và đạt hiệu quả cao” [2,85].

Song song với ba loại ấy về phương diện nội dung ta cần nhận ra “tính chất trữ tình”, “tính chất tự sự”, “tính chất kịch” trong từng tác phẩm cụ thể.

Nếu chúng ta xác định được thi pháp tư tưởng, phong cách, “tạng” riêng của từng nhà văn, điều này rất dễ giúp ta khám phá ra “chất của loại” trong tác phẩm cụ thể.

Về vấn đề “thể” của tác phẩm, hiện nay các nhà nghiên cứu giảng dạy văn học thuộc chuyên ngành ngữ văn học đã giải quyết hợp lý. Nhưng vấn đề “chất của loại” trong thể lại là vấn đề còn để ngỏ, cần có sự phát hiện và nhìn nhận thấu đáo.

3.4.3.1.2.Đặc trưng loại thể văn bản văn học

Đặc trưng của mỗi loại thể văn bản văn học sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng câu hỏi đọc – hiểu về loại thể văn bản văn học đó.

3.4.3.1.2.1.Văn bản trữ tình

-Chú ý âm, vần, thanh, sự trùng điệp âm hưởng.

Ví dụ:

+ Tài cao, phận thấp, chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương (Tản Đà): bằng – trắc

+ Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc

+ Yêu nhau, tam tứ núi cũng trèo

Thập bát song cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua

Cách ngắt nhịp, thể LBBT, điệp âm, vần, thanh, âm hưởng trúc trắc… tác giả dân gian đã cụ thể hóa những khó khăn, trắc trở mà đôi trai gái phải vượt qua khi đi theo tiếng gọi của tình yêu.

-Câu thơ, thể thơ

Chú ý những câu thơ mang tư tưởng tác giả, câu thơ nhấn mạnh, có nội dung quan trọng.

Thể thơ: mỗi thể thơ có một cách gieo vần, ngắt nhịp riêng. Cần nắm được quy luật của nó mới có thể đọc hay được.

Thể thơ truyền thống:

+ Lục bát

+ Lục bát biến thể

+ Song thất lục bát

+ Thất ngôn

Thơ hiện đại:

+ Thơ 8 chữ

+ Thơ tự do

+ Thơ 7 chữ

+ Thơ văn xuôi

-Hình tượng ngôn ngữ trong tác phẩm: bao gồm biểu tượng, hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu, tu từ, ẩn dụ, mỉa mai…

Ví dụ: Em tưởng nước giếng sâu

Em nối sợi gầu dài

Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây

-Ý ngoài lời thơ, sự nhảy vọt, tỉnh lược của ý thơ, dùng trí tưởng tượng để khôi phục hoàn chỉnh về đời sống cảm xúc trong bài thơ.

Ví dụ: + Ra thế!

Lượm ơi!

+ Khen ai khéo vẽ trò vui thế

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu

Có sự đột biến, nhảy vọt trong cảm xúc – thái độ mỉa mai, giễu cợt, đả kích sâu cay.

Thấy được giọng điệu, ý vị của thơ: vui, buồn, trang trọng, mỉa mai, thương tiếc…

-Tìm hiểu ngữ cảnh, chủ thể trữ tình của thơ. Cần nắm sự thay đổi trạng thái tâm hồn nhà thơ, trạng thái đó đã sản sinh ra các hình tượng thơ.

3.4.3.1.2.2.Văn bản truyện và kí

*Những yếu tố cơ bản của truyện

-Nhân vật

Là hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm, được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.

Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật ước lệ, được ta nhận ra bởi nhiều dấu hiệu khác nhau.

  • Tên
  • Diện mạo
  • Hành động, cử chỉ
  • Ngôn ngữ
  • Số phận

Tất cả tạo nên tính cách, mang tính khái quát rất cao: chị Dậu (rách rưới, khổ sở), Chí Phèo (say rượu, ăn vạ), Từ Hải (oan ức)…. Nhân vật có vai trò hết sức quan trọng. Chức năng cơ bản của nó là miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội, đưa người đọc vào thế giới khác nhau của đời sống. Ngoài ra, nhân vật còn có chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới con người, chức năng tạo nên mối liên hệ giữa các sự kiện trong tác phẩm, tạo ra cốt truyện.

-Sự kiện và cốt truyện

Sự kiện (biến cố)

Là những hành vi, việc làm của nhân vật hay sự việc xảy ra đối với nhân vật dẫn đến hậu quả làm biến đổi hay bộc lộ một ý nghĩ nào đó.

Ví dụ: Kiều cùng các em đi chơi xuân, gặp mộ Đạm Tiên, sau đó gặp Kim Trọng và yêu chàng. Đây là hai sự kiện có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời Kiều.

Các sự kiện trong văn học thường có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc về nhân sinh, xã hội.

Ví dụ: sự kiện năm 1945, người chết đói như ngả rạ, nhà anh cu Tràng lại nhặt được vợ (sự kiện này phát triển thành cốt truyện).

Cốt truyện

Là một chuỗi các sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm. Cốt truyện có hai tính chất:

Tính liên tục hữu hạn trong trật tự thời gian, từ đầu cho đến khi truyện kết thúc.

Các sự kiện có mối quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa, làm cho cốt truyện nêu bật được ý nghĩa nào đó mà nhà văn muốn thể hiện.

Ví dụ: cốt truyện “Chí Phèo” được xây dựng bằng sự xuất hiện lần lượt của 7 sự kiện:…

Các sự kiện vừa có tính liên tục, vừa có tính nhân quả, thể hiện một cuộc đời, một số phận nhân vật.

Vậy, cốt truyện có chức năng gắn kết các sự kiện thành chuỗi, bộc lộ các xung đột, mâu thuẫn của con người, tạo ra ý nghĩa nhân sinh, gây hấp dẫn.

-Hoàn cảnh

  • Hoàn cảnh hẹp: hoàn cảnh giao tiếp trong tác phẩm
  • Hoàn cảnh rộng: hoàn cảnh lịch sử, xã hội khi tác phẩm ra đời

-Đề tài, chủ đề

-Miêu tả và trần thuật

-Điểm nhìn trần thuật

Khi kể chuyện, tác giả thường kể những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian. Vì thế, điểm nhìn thể hiện vị trí mà người kể dựa vào để quan sát, trần thuật các nhân vật và sự kiện.

Có nhiều loại điểm nhìn:

Điểm nhìn bên ngoài: người kể nhìn sự vật từ phía bên ngoài, kể những điều nhân vật không biết.

Ví dụ: đoạn kể, tả lại dung mạo Chí Phèo sau 8 năm ở tù

Điểm nhìn bên trong: kể xuyên qua cảm nhận của nhân vật:

Ví dụ:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Điểm nhìn không gian: nhìn xa, nhìn gần

Điểm nhìn di động: từ đối tượng này chuyển sang đối tượng khác

Ví dụ: đoạn miêu tả Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh: có sự luân phiên điểm nhìn: ngoài – trong, xa – gần… làm cho người đọc vừa trông thấy cảnh chia tay bên ngoài, lại vừa thấu được tâm can bên trong của nhân vật.

3.4.3.1.2.3.Văn bản kịch

-Xung đột là mâu thuẫn vận động, phát triển ngày càng gay gắt, căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết bằng một kết cục nào đó. Đây là đặc trưng quan trọng của kịch so với các thể tự sự, trữ tình… ( “tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của kịch” – Hê- ghen; “Xung đột tạo nên kịch tính” – Bi-e-lin-xki).        Kịch được xây dựng dựa trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…; có xung đột bên ngoài và xung đột bên trong.

-Hành động kịch là sự cụ thể hóa của xung đột kịch, đó là sự tổ chức cốt truyện với các tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến logic, chặt chẽ, nhất quán. Hành động kịch thường dồn dập, gấp gáp, quyết liệt.

-Hành động kịch thường được thực hiện bởi các nhân vật kịch.

-Ngôn ngữ kịch: các nhân vật được xây dựng bằng ngôn ngữ ( lời thoại) của họ. Qua lời thoại, tính cách nhân vật, những vấn đề, những mâu thuẫn cũng như cuộc sống xã hội hiện dần lên. Ngôn ngữ kịch mang tính hành động, thường mang tính tranh luận, biện bác gần gũi với đời sống ( súc tích, dễ hiểu, mang tính khẩu ngữ); có các loại ngôn ngữ:

đối thoại, độc thoại, bàng thoại.

3.4.3.1.3.Xác định loại thể trong quá trình đọc – hiểu văn bản văn học

Mỗi văn bản văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi phương pháp, cách thức khám phá riêng phù hợp với nó. Khi tìm hiểu văn bản văn học, người tiếp cận vấn đề nhất thiết phải hiểu rằng: nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người giảng dạy, học tập cũng phải theo như vậy. Nói một cách khác, phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc. Sự cảm thụ đối với một tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, tác phẩm kịch không phải là hoàn toàn giống nhau. Bởi tự sự, trữ tình, kịch là ba phương thức cơ bản của sự cấu tạo hình tượng.

Nắm vững được ba nguyên tắc cơ bản của sự cấu tạo hình tượng, chúng ta sẽ tìm thấy con đường để đọc- hiểu cơ cấu của hình tượng văn bản văn học.

Ví dụ với những văn bản văn học tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó – qua con người, hành vi, sự kiện, được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó thì khi tiếp cận sẽ phải có đường hướng đọc- hiểu riêng. Tất nhiên một văn bản tự sự cũng giống như bất kì một văn bản nào khác, đòi hỏi phải được đọc- hiểu toàn diện, cặn kẽ, đúng hướng. Nhưng điều đặc biệt của văn bản thuộc thể truyện ( Ví dụ “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài) là cấu tạo hình tượng phải dựa vào ba yếu tố: tình tiết, nhân vật, lời kể.Vì thế cho nên khi đọc – hiểu cấu tạo hình tượng của văn bản tự sự không thể không lưu tâm đến 3 yếu tố này.

Còn với những văn bản thơ trữ tình ( ví dụ như “Thơ duyên” của Xuân Diệu), “Sóng” của Xuân Quỳnh khi đọc- hiểu cũng cần có phương pháp, biện pháp đặc biệt. Đọc- hiểu thơ chú ý đến hình tượng thơ, là qua hình thức để giảng nội dung, qua việc tìm hiểu các yếu tố về loại thể, kết cấu, ngôn ngữ để làm sống dậy hình tượng với tất cả vẻ đẹp, chiều sâu của nó.

Hiện nay, việc xác định “chất của loại” trong thể trong quá trình tìm hiểu văn bản văn học nói chung chưa được tiến hành thấu đáo. Ví dụ, nếu như một số truyện ngắn giàu chất trữ tình nhưng lại được tìm hiểu như một truyện ngắn tự sự bình thường thì sẽ không khai thác được chiều sâu tác phẩm. Khi tìm hiểu tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cần hiểu thi pháp của nhà văn như sau: Thạch Lam có một lòng thương người sâu sắc. Tâm hồn Thạch Lam được dệt bằng muôn sợi tơ mỏng mà chỉ cần một làn gió thổi nhè nhẹ sẽ làm tất cả rung động. Thạch Lam là nhà văn trân trọng sự sống và sự sáng tạo. Bao trùm lên những trang văn của Thạch Lam là một tiếng nói da diết, một niềm trắc ẩn mênh mông, thấm thía dành cho những kiếp người nhọc nhằn, bất hạnh trên mảnh đất này. Thạch Lam là nhà văn xuôi trữ tình. Truyện ngắn của Thạch Lam là truyện ngắn trữ tình. Văn Thạch Lam sinh ra để hòa giải các khuynh hướng hiện thực – lãng mạn. Văn Thạch Lam sinh ra là để hòa giải về thể loại. Thạch Lam viết những truyện ngắn giàu chất thơ. Có thể nói đó là “tạng” riêng của Thạch Lam: một thi sĩ trong bộ dạng nhà văn xuôi. Tâm hồn Thạch Lam giàu lòng trắc ẩn, nắm bắt được những biến thái mong manh, mơ hồ, hư ảo trong cảm xúc. Trong nghề văn, Thạch Lam có sở trường sử dụng ngôn ngữ giàu nhịp điệu. Thạch Lam là nhà văn mang trong mình nhịp điệu vũ trụ, mà nhịp điệu là hình thức của xúc cảm, là tinh chất của xúc cảm. Vì vậy có thể khẳng định, Thạch Lam có tố chất của một thi sĩ.

Tìm hiểu “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam phải nhận thức được vấn đề: yếu tố cốt truyện bị giải thể khiến các yếu tố khác ùa vào. Phân tích tình huống truyện phải hiểu rằng văn Thạch Lam không có tình huống hành động, cũng ít có tình huống nhận thức mà chủ yếu là tình huống tâm trạng. Nhân vật của Thạch Lam là kiểu nhân vật giàu tình cảm, có đời sống nội tâm sâu sắc, gọi chung là kiểu nhân vật duy cảm. Như vậy khi đọc – hiểu tác phẩm “Hai đứa trẻ” phải nắm được những kiến thức tối thiểu về thi pháp tư tưởng của Thạch Lam, phong cách văn Thạch Lam. Điều đó giúp chúng ta xác định “Hai đứa trẻ” là tác phẩm trữ tình cho dù nó là truyện.

Như vậy, mỗi tác phẩm văn chương đều tồn tại dưới một hình thức loại thể nhất định đòi hỏi những phương pháp, cách thức tìm hiểu phù hợp với nó. Hiểu được thế nào là thể truyện, thể kí, thể thơ… đã là điều kiện tốt thâm nhập vào tác phẩm nhưng phải làm sao hiểu được cặn kẽ thế nào là loại tự sự, loại trữ tình, loại kịch… điều đó sẽ giúp chúng ta đọc- hiểu tác phẩm được sâu sắc, tinh tế hơn.

3.4.3.2.Nguyên tắc xây dựng câu hỏi

Câu hỏi xây dựng đảm bảo logic của hoạt động tiếp nhận và cấu trúc văn bản văn học đã trình bày ở trên. Mặt khác, câu hỏi khám phá văn bản phải đảm bảo được quan điểm toàn diện trong việc tiếp cận, phân tích văn bản văn học. Tiếp cận, phân tích văn bản văn học theo quan điểm toàn diện trước hết phải vận dụng những hiểu biết ngoài văn bản như hoàn cảnh lịch sử, thời đại, văn hóa, văn học, tiểu sử con người, tư tưởng, ý đồ nghệ thuật của nhà văn để hiểu đúng văn bản văn học. Nhưng trong tiếp cận, phân tích văn bản văn học thì bản thân văn bản văn học là căn cứ quan trọng nhất. Phải tiếp cận cấu trúc văn bản văn học, phát hiện các cấp độ của chỉnh thể, phân tích sự thống nhất giữa nội dung và hình thức văn bản văn học. Bên cạnh đó, xây dựng câu hỏi để khai thác văn bản văn học cần chú ý hướng vào thi pháp thể loại, thi pháp cấu trúc văn bản văn học, thi pháp tác giả. Tuy nhiên thi pháp thể loại là cái chung, khi vận dụng cần chú ý đến những nét riêng làm nên giá trị của mỗi văn bản văn học. Khi xây dựng câu hỏi cần lưu ý các câu hỏi có mối quan hệ với nhau để góp phần hiểu văn bản đó theo đặc trưng thể loại.

3.4.3.3.Xây dựng bảng mô tả các mức độ nhận thức

3.4.3.3.1.Văn bản trữ tình

*Ca dao dân gian

Mức độ nhận biết Mức độ thông hiểu Mức độ vận dụng và vận dung cao
Chỉ ra những nét chính về ca dao Trình bày đặc điểm   thể loại ca dao (lục bát, lục bát biến thể, hỗn hợp)

 

Vận dụng hiểu biết về thể loại để phân tích, lí giải về các vấn đề đặt ra trong ca dao
– Nêu được các thông tin về văn bản (  thể loại, kết cấu…) Trình bày ý nghĩa, nội dung từng văn bản ca dao – Đọc diễn cảm ca dao.

 

– Ngâm, hát ca dao.

Chỉ ra hình thức văn bản: ngôn ngữ/thể loại văn học. Cắt nghĩa một số từ ngữ, hình ảnh… trong các câu  ca dao

Trình bày những đặc điểm về bố cục, vần, nhịp, đối… của thể thơ, thể loại.

Phân tích, lý giải, so sánh để đánh giá ý nghĩa, tác dụng, sự sáng tạo của hình thức ngôn ngữ, thể loại đó.
Nhận diện được nhân vật trữ tình trong các bài ca dao.

 

 

– Nhận xét cảm xúc của nhân vật trữ tình trong từng câu/từng bài ca dao

– Khái quát bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình trong các bài ca dao.

Giải thích, phân tích, so sánh, lí giải tâm trạng nhân vật trữ tình trong các câu/ cặp câu/ bài.
Nhận diện được giọng điệu của từng bài ca dao trong sách giáo khoa, tiến hành đọc theo giọng điệu đã nhận diện.

 

– Vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân trong  ca dao

– Nhận xét được vẻ đẹp riêng của từng bài  ca dao cùng loại.

Vận dụng tri thức đọc hiểu văn bản để kiến tạo những giá trị sống của cá nhân

 

Chỉ ra những câu ca dao thể hiện rõ nhất tư tưởng cảm xúc, thông điệp thẩm mỹ của tác giả dân gian Nhận xét/ trình bày/ tóm tắt/diễn đạt lại tư tưởng của nhà thơ trong câu  ca dao – Phân tích, nhận xét, lí giải, so sánh để khẳng định tư tưởng được thể hiện trong các bài ca dao

– Biết tự đọc và khám phá những giá trị của các văn bản mới cùng thể loại

*Thơ trung đại Việt Nam

Mức độ nhận biết Mức độ thông hiểu Mức độ vận dụng Mức độ vận dụng cao
– Nêu thông tin về tác giả; hoàn cảnh sáng tác, thể loại, ngôn ngữ của văn bản…

 

– Lí giải được mối quan hệ/ảnh hưởng của cuộc đời (tiểu sử, con người) và hoàn cảnh sáng tác với việc sử dụng thể loại, ngôn ngữ và xây dựng hình tượng nghệ thuật để thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. – Phân tích, chứng minh giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm dựa trên những hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, thể loại và ngôn ngữ của tác phẩm. – So sánh, nhận xét, đánh giá bằng việc đưa ra những kiến giải riêng, phát hiện sáng tạo về văn bản dựa trên những hiểu biết về thơ trữ tình trung đại Việt Nam được học trong chương trình và sách giáo khoa.
– Nhận biết được bố cục, vần, nhịp, các từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ… nổi bật trong văn bản thơ trữ tình trung đại được học trong chương trình và sách giáo khoa. – Nêu được biểu hiện/đặc điểm của bố cục, vần, nhịp, các từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ… nổi bật trong văn bản thơ trữ tình trung đại được học trong chương trình và sách giáo khoa. – Lí giải, phân tích được ý nghĩa của bố cục, vần, nhịp, các từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ… nổi bật trong văn bản đối với việc thể hiện nội dung hoặc tạo nên sự sáng tạo về nghệ thuật của các văn bản thơ trữ tình trung đại được học trong chương trình và sách giáo khoa. – So sánh, nhận xét, đánh giá bằng việc đưa ra những kiến giải riêng, phát hiện sáng tạo về văn bản dựa trên những hiểu biết về bố cục, vần, nhịp, các từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ… nổi bật của các văn bản thơ trữ tình trung đại được học trong chương trình và sách giáo khoa.
– Nhận diện nhân vật trữ tình, hình tượng nghệ thuật của văn bản. – Chỉ ra được mạch cảm xúc/ tâm trạng của nhân vật trữ tình; đặc điểm của hình tượng nghệ thuật của văn bản. – Phân tích mạch cảm xúc/ tâm trạng của nhân vật trữ tình; đặc điểm của hình tượng nghệ thuật của văn bản. – So sánh, nhận xét, đánh giá mạch cảm xúc/ tâm trạng của nhân vật trữ tình; đặc điểm của hình tượng nghệ thuật của văn bản.

– Vẽ tranh, sáng tác nhạc… (lấy cảm hứng từ văn bản đã học).

– Nhận ra được quan điểm, tư tưởng của nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm. – Lí giải được quan điểm, tư tưởng của nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm. – Phân tích, làm sáng tỏ về quan điểm, tư tưởng của nhà thơ gửi gắm qua các tác phẩm. – So sánh, nhận xét, đánh giá bằng việc nêu những phát hiện, kiến giải riêng của bản thân về quan điểm, tư tưởng của nhà thơ.

– Vận dụng/Học tập những quan điểm, tư tưởng tích cực của các nhà thơ(qua những tác phẩm đã học) vào thực tế đời sống của bản thân.

– Nhận biết được các văn bản thơ trữ tình trung đại Việt Nam khác (ngoài chương trình và sách giáo khoa). – Nắm được những nét chính về nội dung và nghệ thuật của các văn bản thơ trữ tình trung đại Việt Nam khác (ngoài chương trình và sách giáo khoa).

 

 

 

– Phân tích, so sánh nội dung, nghệ thuật của các văn bản thơ trữ tình trung đại Việt Nam khác (ngoài chương trình và sách giáo khoa). – Trình bày  (nói hoặc viết) những kiến giải riêng, phát hiện sáng tạo về văn bản thơ trữ tình trung đại Việt Nam khác (ngoài chương trình và sách giáo khoa) dựa trên những đặc trưng thể loại của thơ trữ tình trung đại Việt Nam (đã học).

*Thơ hiện đại Việt Nam

Mức độ nhận biết Mức độ thông hiểu Mức độ vận dụng thấp và vận dụng cao
Nêu những nét chính về tác giả. Chỉ ra những biểu hiện của con người tác giả được bộc lộ trong văn bản? Bài thơ giúp em hiểu thêm điều gì về tác giả?

 

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh nào? Tác động của hoàn cảnh ra đời đến việc thể hiện nội dung tư tưởng của bài thơ là gì? Nếu ở trong hoàn cảnh tương tự của tác giả, em sẽ làm gì?
Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ nào? Cắt nghĩa một số từ ngữ, hình ảnh trong câu thơ? Việc sử dụng ngôn ngữ đó có tác dụng gì?
Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Chỉ ra những đặc điểm về vần, nhịp, bố cục… trong bài thơ? Việc sử dụng thể thơ đó có hợp lí không? Vì sao?
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? – Nêu cảm xúc của nhân vật trữ tình trong mỗi câu thơ?

– Khái quát bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ?

Em có nhận xét gì về tâm trạng của nhân vật trữ tình trong từng câu/ cặp câu/ bài  thơ?
Xác định hình tượng nghệ thuật được xây dựng trong bài thơ? – Phân tích những đặc điểm của hình tượng nghệ thuật đó?

– Hình tượng nghệ thuật giúp nhà thơ thể hiện các nhìn về cuộc sống và con người như thế nào?

Theo em, sức hấp dẫn của hình tượng nghẹ thuật đó là gì?
Tư tưởng của nhà thơ bộc lộ rõ nhất trong câu/cặp câu thơ nào? Lí giải tư tưởng của nhà thơ trong từng câu thơ? Có nhận xét gì về tư tưởng của tác giả thể hiện trong bài thơ?

3.4.3.3.2.Văn bản truyện, kí

*Truyện

Mức độ nhận biết Mức độ thông hiểu Mức độ vận dụng thấp Mức độ vận dụng cao
Nêu thông tin về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, thể loại Lý giải được mối quan hệ, ảnh hưởng của hoàn cảnh sáng tác với việc xây dựng cốt truyện và thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm.

-Hiểu, lý giải ý nghĩa nhan đề

Vận dụng hiểu biết về tác giả, tác phẩm để viết đoạn văn giới thiệu về tác giả, tác phẩm. -So sánh các phương diện nội dung nghệ thuật giữa các tác phẩm cùng đề tài, hoặc thể loại, phong cách tác giả.
Nhận diện được ngôi kể, trình tự kể. Phân tích giọng kể, ngôi kể đối với việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Khái quát được đặc điểm phong cách của tác giả từ tác phẩm. Trình bày những kiến giải riêng, phát hiện sáng tạo về văn bản.
Nắm được cốt truyện, nhận ra đề tài, cảm hứng chủ đạo. -Lý giải sự phát triển của cốt truyện, sự kiện, mối quan hệ giữa các sự kiện. -Khái quát các đặc điểm của thể loại từ tác phẩm. Biết tự đọc và khám phá các giá trị của một văn bản mới cùng thể loại.
-Liệt kê/ chỉ ra/ gọi tên hệ thống nhân vật ( xác định nhân vật trung tâm, nhân vật chính, phụ). Giải thích, phân tích đặc điểm, ngoại hình, tính cách, số phận nhân vật.

Đánh giá khái quát về nhân vật.

Trình bày cảm nhận về tác phẩm. -Vận dụng tri thức đọc – hiểu văn bản để tạo lập văn bản theo yêu cầu.

-Đưa ra những ý kiến quan điểm riêng về tác phẩm, vận dụng vào tình huống, bối cảnh thực để nâng cao giá trị sống cho bản thân.

-Phát hiện, nêu tình huống truyện. Hiểu, phân tích được ý nghĩa của tình huống truyện. -Thuyết minh về tác phẩm. -Chuyển thể văn bản ( vẽ tranh, đóng kịch…)

-Nghiên cứu khoa học, dự án.

-Chỉ ra/ kể tên/ liệt kê được các chi tiết nghệ thuật đặc sắc của mỗi tác phẩm/ đoạn trích và các đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện. -Lý giải được ý nghĩa và tác dụng của các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, câu văn, các biện pháp tu từ…    

* Kí hiện đại Việt Nam

Mức độ nhận biết Mức độ thông hiểu Mức độ vận dụng
Em hãy nêu những nét chính về tác giả? Chỉ ra những biểu hiện về con người tác giả được thể hiện trong tác phẩm? Bài kí giúp em hiểu thêm gì về tác giả?
Bài kí được viết trong hoàn cảnh nào? Tác động của hoàn cảnh ra đời đến việc thể hiện nội dung tư tưởng của bài kí là gì? Hoàn cảnh ra đời của bài kí giúp em hình dung như thế nào về đất nước, con người Việt Nam?
Nhan đề của tác phẩm là gì? Giải thích ý nghĩa của nhan đề đó? Trình bày suy nghĩ của em về nhan đề tác phẩm?
Bài kí xây dựng hình tượng nghệ thuật nào? Phân tích những đặc điểm của hình tượng nghệ thuật đó?

Hình tượng nghệ thuật giúp nhà văn thể hiện cái nhìn về cuộc sống và con người như thế nào?

Hình tượng nghệ thuật đó gợi cho em ấn tượng gì?
Nêu các biện pháp nghệ thuật chủ yếu được sử dụng trong bài kí? Phân tích tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó? Đánh giá về sự phù hợp của các biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm?

3.4.3.3.3.Văn bản kịch

Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao
Nhận diện thể loại của văn bản kịch.

-Chỉ ra chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ/ thông tin… nổi bật trong văn bản.

-Xác định kiểu loại nhân vật/ tuyến nhân vật.

Khái quát nội dung chính/ vấn đề chính mà văn bản đề cập.

-Xác định mâu thuẫn, xung đột kịch.

-Hiểu được ý nghiã/ tác dụng/ hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ/ chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ… trong văn bản.

-Nắm được đặc điểm ngôn ngữ kịch.

-Hiểu được quan điểm/ tư tưởng/ tình cảm của tác giả.

Nhận xét/ đánh giá về tư tưởng /quan điểm/ tình cảm/ thái độ của tác giả thể hiện trong văn bản.

– Nhận xét ý nghĩa nhân sinh, giá trị tư tưởng/ đặc sắc về nghệ thuật của văn bản.

Rút ra bài học về tư tưởng/ nhận thức cho bản thân.

-Thể hiện quan điểm ( đồng tình/ phản đối) với một ý kiến được đề ra trong văn bản.

-Rút ra thông điệp/ bài học ý nghĩa nhất từ văn bản.

  1. Thực hành: Hệ thống câu hỏi/ bài tập rèn kĩ năng đọc- hiểu theo mức độ mô tả của từng thể loại

1.Hệ thống câu hỏi luyện kĩ năng đọc – hiểu theo mức độ mô tả

1.1.Với bài Ca dao than thân

Thân em như hạt mưa rào

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

*Câu hỏi mức độ nhận biết, thông hiểu

Câu 1: Ca dao khác dân ca ở điểm nào?

Câu 2: Vì sao phải đặt ca dao, dân ca vào môi trường diễn xướng?

Câu 3: Xác định nhân vật trữ tình trong bài ca dao là ai?

Câu 4: Hình thức lặp lại “Thân em” khá lớn trong ca dao cho ta biết điều gì về thân phận  người phụ nữ trong xã hội cũ ?

Câu 5: Bài ca dao đã sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ nào để nói về thân phận đó?

Câu 6: Sự đối lập giữa “hạt vào đài các” và “hạt ra ruộng cày” cho thấy nhân vật trữ tình đang thấm thía rõ nhất điều gì?

Câu 7: Giong điệu của nhân vật trữ tình?

Câu 8: Tâm tình được gửi gắm trong bài ca dao?

*Câu hỏi mức độ vận dụng:

Câu 1. Vì sao ca dao được coi là “thơ của vạn nhà”?

Câu 2. Thử ngâm, hát một bài ca dao/ dân ca.

Đọc diễn cảm ca dao.

Câu 3. Thân phận người phụ nữ tuy có nét chung nhưng nỗi đau của từng người lại mang sắc thái riêng. Hãy chỉ ra sự khác biệt ấy?

Câu 4. Suy nghĩ về vị thế của người phụ nữ ngày nay?

Gợi ý

*Câu hỏi mức độ nhận biết, thông hiểu

Câu 1. – Ca dao là tiếng nói của tình cảm, tư tưởng, tâm hồn: gia đình, quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa và nhiều mối quan hệ khác.

– Ca dao là lời của bài hát dân ca

Dân ca là nhạc, là giai điệu.

Ca dao thuộc loại trữ tình dân gian.

Dân ca tồn tại trong diễn xướng. Ca dao thường được hát, ru, đọc.

Câu 2: Được sản sinh ra từ trong môi trường diễn xướng, qua những buổi lao động sinh hoạt văn hóa cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng… tính ngẫu hứng đầy thẩm mỹ của ca dao thực sự chỉ được thể hiện trọn vẹn khi được đưa vào môi trường sinh hoạt diễn xướng dân ca. Nếu sinh hoạt diễn xướng dân ca đã thực sự mang lại cho lời ca dao một dáng vẻ mới, sinh động, phong phú hơn, giá trị diễn tả nội dung đạt đến độ nghệ thuật cao hơn thì ngôn ngữ ca dao trong sinh hoạt diễn xướng dân ca với sự cộng hưởng của các yếu tố nghệ thuật dân gian luôn toả sáng, làm cơ sở trực tiếp cho những giai điệu dân ca đậm đà hương đồng gió nội.

Câu 3. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là người phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến xưa.

Câu 4. – Mô típ mở đầu: Thân em hoặc em – lời than thân là của người phụ nữ – khắc sâu ấn tượng chung về  giá trị con người  và thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội nghiệp từ hàng triệu mảnh đời của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ thuộc loại người khổ nhất trong xã hội.

Câu 5. Bài ca dao sử dụng hình ảnh so sánh: ví thân phân người phụ nữ như ” hạt mưa sa” gợi về vẻ đẹp trong sáng, mát lành nhưng số phận của họ thật nhỏ bé, vô nghĩa. Hình ảnh “hạt vào đài các” và “hạt ra ruộng cày” ẩn dụ cho số phận của từng hạt mưa – người phụ nữ la khác nhau. Họ bị chi phối, phụ thuộc vào hoàn cảnh.

Câu 6. Sự đối lập giữa “hạt vào đài các” và “hạt ra ruộng cày” càng cho thấy nhân vật trữ tình thấm thía nỗi đau số phận bấp bênh, hẩm hiu, bị lệ thuộc vào người khác, không được tự quyết định hạnh phúc của bản thân.

Câu 7. Giọng điệu than thân ngậm ngùi, xót xa nhấn mạnh đến thân phận nhỏ nhoi, đáng thương của người phụ nữ.

Câu 8. Bài ca dao là lời tâm tình chân thành, thiết tha của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ than cho nỗi đau thân phận bị phụ thuộc, tương lai mờ mịt để ước mong về sự đồng cảm, sẻ chia.

*Câu hỏi mức độ vận dụng

Câu 1. Ca dao được coi là thơ của vạn nhà, là tấm gương soi tâm hồn và đời sống dân tộc. . Ca dao là nơi người lao động gửi gắm những yêu thương, sướng vui, đau khổ, hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi…

Câu 3. Thân phận người phụ nữ tuy có nét chung nhưng nỗi đau của từng người lại mang sắc thái riêng. Như trong bài ca dao:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Người phụ nữ ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân của mình, không làm chủ, tự định đoạt được tương lai số phận của mình. Một nỗi lo mơ hồ, ám ảnh chưa biết được cuộc đời mình sẽ dạt vào đâu, về với ai. Tất cả chỉ trông chờ vào sự may rủi của duyên kiếp.

-Còn trong bài ca dao:

Thân em như lá đài bi

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

là nỗi đau của người phụ nữ dãi nắng dầm sương, quần quật đêm ngày làm lụng.

Câu 4. Trong xã hội xưa người phụ nữ đã bị bao đè nén, ràng buộc, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân. Luật Tam tòng và tứ đức phần nào đã kìm hãm khiến cho họ sống cuộc đời phụ thuộc vào người khác. Nhưng ngày nay khi xã hội đã thay đổi, người phụ nữ có quyền bình đẳng, họ tự khẳng định vị thế của mình, tự quyết định cuộc đời, tương lai của bản thân.
1.2. Văn bản thơ

Mỗi giai đoạn nên tìm một đoạn/ bài thơ cùng tác giả, cùng đề tài, độ khó tương đương với các văn bản đã học để xây dựng hệ thống câu hỏi luyện tập kĩ năng đọc – hiểu. Sau đó tiến tới luyện kĩ năng đọc – hiểu tác phẩm, tác giả mới ngoài chương trình.

1.2.1.Đò Lèn ( Nguyễn Duy, 9/1983, tập “Ánh trăng”, NXB Tác phẩm mới, HN, 1984)

Đọc văn bản “Đò Lèn” của Nguyễn Duy và trả lời câu hỏi:

Câu 1: Hệ thống hình ảnh trong bài thơ được xây dựng đặc biệt thế nào?

Câu 2: Mạch liên kết cảm xúc trong bài thơ như thế nào?

Câu 3: Cảm nhận của em về tuổi thơ của cậu bé trong bài thơ? Nét quen thuộc và mới mẻ trong cách nhìn của tác giả về chính mình trong quá khứ?

Câu 4: Trong bài thơ sử dụng phép liệt kê những địa danh của quê hương tác giả, điều ấy gợi ra những cảm xúc gì?

Câu 5: Với câu thơ “ Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” em hiểu thế nào về tình cảm của tác giả với bà mình?

Câu 6: Từ láy “thập thững” trong câu thơ “Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” tạo nên hiệu quả nghệ thuật thế nào? Hãy so sánh giá trị nghệ thuật của từ “thập thững” với “bước cao thấp” trong câu thơ: “ Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao thấp trên bờ tre hun hút”  ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)

Câu 7: Cái hay của hai câu thơ: “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần”

Câu 8: Có nhà phê bình đã nhận xét “Nguyễn Duy đã đi tìm cái đẹp trong cái khổ, không phải là cái đẹp thi vị hóa mà là cái đẹp đời thường, đơn sơ mà kì diệu”. Từ việc cảm nhận về hình ảnh người bà trong đoạn thơ:

“Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.”

em hãy viết đoạn văn chứng minh nhận định trên.

Câu 9: Hình ảnh “dòng sông”, “nấm cỏ” trong khổ thơ cuối mang lại dư vị triết lí gì?

Câu 10: Nhận xét về hình thức nghệ thuật đặc biệt của bài thơ.

Câu 11: So sánh nét riêng trong cách sử dụng hình ảnh thơ giữa hai tác giả cùng viết về một đề tài: Bằng Việt ( Bếp lửa) và Nguyễn Duy ( Đò Lèn)?

Câu 12: Qua bài thơ em rút ra được bài học gì về lẽ sống?

Câu 13: Nêu chủ đề của bài thơ?

Câu 14: Từ những bài thơ đã được học, được đọc của Nguyễn Duy, em hãy khái quát ngắn gọn phong cách thơ của tác giả này?

Câu 15: Trong văn học có nhiều tác phẩm viết về tình ruột thịt. Hãy kể tên một số tác phẩm viết về đề tài này mà em đã học hoặc đã đọc.

Câu 16: Từ việc cảm nhận về bài thơ “Đò Lèn” ( Nguyễn Duy) và những tác phẩm em được học hoặc đã đọc hãy trình bày ý kiến của mình về nhận định “Học văn làm con người tốt đẹp hơn.”

Gợi ý

Câu 1. Bài thơ được cấu tứ trên 2 hệ thống hình ảnh tương phản:

-Hệ thống thứ 1: hình ảnh hư ảo, huyền hoặc, chập chờn trong không gian nghi ngút khói hương.

-Hệ thống thứ 2: hình ảnh về thực tại lam lũ, cơ cực của người bà.

Câu 2. Bài thơ là sự liên kết cảm xúc liền mạch trong hồi ức nhớ nhung miên man của người cháu. Cậu bé vô tư lự ngày xưa giờ đã là người lính trưởng thành nhớ về bà, sống dậy những kỉ niềm thời thơ bé bên cạnh người bà thân thương, cảm thương bà cũng là cảm thương về quê hương.

Câu 3. -Tuổi thơ của cậu bé phong phú, sinh động với bao trò chơi con trẻ, đặc biệt có không gian văn hóa tâm linh in dấu đậm nét.-> vô tư, đầm ấm, hạnh phúc bên người bà tảo tần.

-Nét quen thuộc và mới mẻ trong cách nhìn của tác giả về chính mình thời quá khứ đó là sự hồn nhiên, chân thật, không thi vị hóa hay tô hồng hiện thực tạo nên sự gần gũi với cuộc sống mỗi con người.

Câu 4. -Sử dụng phép liệt kê những địa danh quê hương tác giả:

+gợi tình quê và hoài niệm.

+cái nhỏ nhoi bình thường mà cao quý

+cảm hứng về cội nguồn.

Câu 5. “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”->câu thơ dung dị, chân thật mà xót xa đến đắng lòng:

+là sự tự nhận thức lại của một người đã trải qua thực tiễn nhận ra cái giá qua đắt phải trả cho sự vô tư hồn nhiên sống với tuổi thơ của mình.

+bộc lộ tình thương yêu người bà tha thiết đồng thời thể hiện nỗi ân hận xót xa.

Câu 6. -Từ láy “thập thững” trong câu thơ “Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”dân dã, bình dị:

+giá trị tạo hình cao: diễn tả bước chân run rẩy, khó nhọc, không chắc chắn, tất bật của người đi.

+giá trị biểu cảm đặc biệt: mô phỏng sự hụt hơi của người bà tuổi già sức yếu phải vất vả trong cuộc mưu sinh.

-So sánh: + “bước cao thấp” ( Bên kia sông Đuống): tượng hình, nghiêng nhiều về sắc thái tượng trưng, gợi sự tất tả, chông chênh đến tội nghiệp của những bà mẹ trong chiến tranh.

+ “thập thững”: nghiêng về sắc thái cụ thể, gợi ấn tượng thị giác và thính giác. 2 thanh trắc đặc tả bước chân nhọc nhằn, sức nặng đè lên vai người bà già nua.

Câu 7. Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực

giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần.

+hai bờ: ranh giới phân định hai bên

+bên hư: thế giới của tiên, Phật, thánh, thần, thế giới của huyền thoại, cổ tích.

+bên thực: cuộc đời vất vả của bà.

+trong suốt: trạng thái nhận thức thơ ngây, trong trẻo, vô tư hồn nhiên.

-> Câu thơ vừa là nỗi ngậm ngùi ân hận, vừa là sự chiêm nghiệm, nhận ra cái giá phải trả cho những ảo tưởng, là sự tự nhìn lại mình của nhân vật “tôi”.

Câu 8. Viết đoạn văn cần đảm bảo các ý sau:

-Khổ thơ là bài học nhẹ nhàng nhưng thấm thía: không thể chống lại cái ác, cái xấu, bom đạn bằng niềm tin ngây thơ được.

-Hình ảnh người bà nhọc nhằn, lam lũ, vất vả nuôi cháu, đã vượt lên cái khổ sống bằng tất cả yêu thương.

Câu 9. -Hình ảnh “dòng sông”, “nấm cỏ” mang lại dư vị triết lí sâu sắc, ngậm ngùi:

+cuộc sống như “dòng sông xưa” mãi trôi chảy “vẫn bên lở bên bồi” với bao phồn tạp. Đi cùng dòng sông – cuộc đời, nhận thức của mỗi người sẽ trưởng thành hơn, sẽ tự chiêm nghiệm được cái còn mất của cuộc đời.

+”nấm cỏ” mong manh, nhỏ nhoi, dân dã, đơn sơ.

->Người cháu bây giờ đã thức tỉnh trước quy luật đơn giản mà nghiệt ngã của cõi đời “Khi tôi biết thương bà thì đã muộn…”

Hãy dành tình yêu thương, sự cảm thong và thấu hiểu với người thân, với mọi người quanh ta, đừng để khi thực sự biết yêu thương người khác thì cơ hội đền đáp đã không còn.

Câu 10. Bài thơ có hình thức nghệ thuật đặc biệt: những chữ đầu dòng không viết hoa. Mạch thơ được triển khai theo dòng suy nghĩ miên man của nhân vật trữ tình, thể hiện sự liền mạch về hình ảnh và ý tưởng trong từng khổ cũng như cả bài thơ. Khổ thơ cuối đặt dấu chấm kết thúc bài thơ cũng là kết thúc dòng suy tưởng của tác giả. Từ đó mở ra những cảm xúc khác nhau trong lòng người đọc.

Câu 11. So sánh:

*Giong: Cảm xúc và điểm nhìn:

-đều là kí ức thời thơ ấu có hình ảnh người bà thân thiết tảo tần, hiền hậu.

-đều do chủ thể trữ tình lấy điểm nhìn của “hôm nay” khi đã trưởng thành mà suy nghĩ về tuổi thơ.

*Khác Đò Lèn Bếp lửa
Kết quả sự “nhận thức lại” Sự ân hận muộn màng Tình yêu thương sâu sắc
Bút pháp Hóm hỉnh, dân dã Mực thước, trang trọng
Giong điệu Ngậm ngùi, xót xa, cay đắng Trìu mến thiết tha

 

Câu 12. Bài thơ nhắc nhở cho nhiều người về lẽ sống ở đời ( tình yêu quê hương, sống có trách nhiệm), đặc biệt là thái độ sống của mỗi người trong hiện tại với những gì thân thiết, gần gũi.

Câu 13. Chủ đề bài thơ: Viết về người bà tần tảo sớm hôm với những kí ức tuổi thơ trên quê hương yêu dấu trong nỗi niềm xót xa, ân hận muộn màng của người cháu nay đã trưởng thành, bài thơ không chỉ bộc lộ tình yêu quê hương tha thiết, gắn bó sâu nặng với những con người ruột thịt mà còn là sự thức tỉnh đầy nhân bản.

Câu 14. Phong cách thơ Nguyễn Duy: Ông được gọi trìu mến, thân thương là “nhà thơ thảo dân”( Chu Văn Sơn). Thơ ông giàu chất chiêm nghiệm, luôn “thương nhớ đồng quê”, gắn bó máu thịt với đất nước bằng tình cảm cụ thể với người dân. Bài thơ “Đò Lèn” là tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Duy.

Câu 15. Con cò ( Chế Lan Viên), Mẹ Tơm ( Tố Hữu), Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ( Nguyễn Duy)

Câu 16. HS cần đảm bảo các ý sau: ( Cần minh họa bằng nhiều tác phẩm văn học)

-Văn học đem đến cho con người những bài học về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình. Đọc “Đò Lèn” giúp mỗi người tự nhìn lại mình, tự nhận thức, tự thức tỉnh trân trọng với mối quan hệ với người thân, với mọi người xung quanh.

-Học văn giúp con người có thái độ, quan điểm đúng đắn về cuộc sống như câu ca dao “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”.

-Học văn để biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn được thanh lọc trở nên trong sáng, cao thượng hơn. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” gợi biết bao ân nghĩa thủy chung của tình đồng bào.

-Học văn để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu…có quan hệ tốt đẹp, gán bó cuộc sống cá nhân mình với mọi người xung quanh.

àNhư vậy học văn để góp phần làm cho tâm hồn mình được thanh lọc, hoàn thiện trước cuộc sống phồn tạp biết bao xấu tốt lẫn lộn để từ đó có những hành động đúng đắn, thiết thực cụ thể hơn.

 

 

1.1.2. Chốn về – Nguyễn Ngọc Tư In trong tập thơ “Chấm”, NXB Hội nhà văn Hà Nội, 2013, tr.8.)

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

mình có ngôi nhà khép cửa

                   chưa bao giờ mình mời ai tới đó

                   những tượng đất nung ngủ vùi

                   cuộc diễu hành tịch lặng

 

treo đèn lựu đỏ sân sau

chỉ một mình ngồi ngắm

mình không bóng

ngủ sâu không ai gọi

say nắng không người lay

ai kẻ dắt tay qua ác mộng ngày

máu chảy tự khô,

vết đau tự liếm láp,

cúc tự cài,

hát mình nghe

chưa bao giờ mình mời ai tới đó

 

nơi ấy không mặt nạ

không lời ngọt nhạt lạ xa

chỉ mình thôi với ngọn gió cuối cùng.

Câu 1. Trong bài thơ, hình ảnh ngôi nhà (Chốn về) được hiện lên như thế nào?

Câu 2. Cách sử dụng từ “mình” (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất) có tác dụng gì trong việc thể hiện/ bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình?

Câu 3. Nhận xét về hình thức đặc biệt trong bài thơ trên.

Câu 4. Ý nghĩa của việc lặp lại câu thơ ” chưa bao giờ mình mời ai tới đó”.

Câu 5. Cảm xúc của nhân vật trữ tình trong các câu thơ ” nơi ấy không mặt nạ/ không lời ngọt nhạt lạ xa/ chỉ mình thôi với ngọn gió cuối cùng”.

Câu 6. Nhận xét về ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ.

Câu 7. Viết một đoạn văn (khoảng 5 đến 7 câu) trình bày cảm nhận của mình về cuộc sống, tâm hồn của nhân vật trữ tình khi ở giữa “Chốn về”.

Gợi ý

Câu 1. Trong đoạn thơ, hình ảnh ngôi nhà ( Chốn về) hiện lên qua những hình ảnh: ngôi nhà khép cửa, tượng đất nung ngủ vùi, đèn lựa đỏ. Ngôi nhà hiện lên mang vẻ tĩnh mịch, yên ả.

Câu 2. Cách sử dụng từ “mình” ( đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất) bộc lộ được cảm xúc cá nhân tự nhiên của nhân vật trữ tình. Từ “mình” mang âm điệu ngọt ngào, như một lời tâm sự gần gũi. Vì vậy, khoảng cách giữa nhân vật trữ tình và bạn đọc thu hẹp, “chốn về” của “mình” mang bóng dáng của nhiều bạn đọc là như thế. Dùng từ “mình” nhân vật trữ tình giúp bộc lộ cảm xúc một cách thành thật, sâu sắc; tạo giọng điệu tâm tình, trầm ngâm, giàu suy tư; lời thơ giống như những lời tự tình (tự sự về bản thân).

Câu 3. Đoạn thơ sử dụng hình thức thơ đặc biệt khi các chữ đầu dòng không viết hoa, câu nọ nối câu kia bằng thủ pháp vắt dòng. Cảm xúc thơ dạt dào tràn từ dòng trên xuống dòng dưới.

Câu 4. Bài thơ ngắn mà lặp lại 2 lần câu thơ “chưa bao giờ mình mời ai tới đó” nhấn mạnh vào cuộc sống thích cô đơn, sống khép kín, nội  tâm của nhân vật trữ tình. Một cuộc sống buồn đến hoang hoải nhưng tuyệt đẹp bởi tâm hồn trong sáng, thanh thản của “mình”.

Câu 5. Kết thúc bài thơ “nơi ấy không mặt nạ/ không lời ngọt nhạt lạ xa/ chỉ mình thôi với ngọn gió cuối cùng” vẫn là lời khẳng định trân trọng cuộc sống khép kín, nội tâm của nhân vật trữ tình. “Mình” thuộc về lễ hội đám đông nhưng không hòa nhập, vẫn giữ riêng một “chốn về” để sống với chính mình.

Câu 6. Ngôn ngữ sử dụng trong bài thơ mộc mạc, bình dị. Nguyễn Ngọc Tư đi theo xu hướng thả phóng ngôn ngữ khiến cho lời tâm sự của nhân vật trữ tình trở nên gần gũi. Thơ Nguyễn Ngọc Tư là tiêu biểu cho thơ đương đại đang ngày càng tiệm cận dần với đời sống hiện thực. Thơ chị có một mạch chảy tự nhiên bởi chữ nghĩa tuôn trào, vung vãi. Câu thơ như câu văn xuôi.

Câu 7. “Chốn về” của Nguyễn Ngọc Tư hiện lên là nơi bình yên sâu thẳm. Một cuộc sống ở đó không có âm thanh rộn ràng mà chỉ có những hình ảnh tĩnh lặng  như tượng đất nung ngủ vùi, đèn lựu đỏ sân sau… Nhân vật trữ tình ở giữa “chốn về” hoàn toàn vứt bỏ con người xã hội để sống với tất cả con người thực của mình. “Mình” trở về với tâm hồn trong trẻo, sống với tận cùng con người mình nhất. ” Mình” trong không gian ấy thoải mái, bình yên, tĩnh lặng, giàu suy tư. Nhưng chốn về của “mình” man mác nỗi buồn, cô đơn, trống trải khi chỉ có mình đối diện với mình.

1.1.3. Đi lễ chùa – Dư Thị Hoàn ( trích tập “Lối nhỏ”, Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng)

Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:

Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa

Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ

Người thứ nhất thở dài:

-Tội nghiệp nhất người đàn bà không chồng

Người thứ hai chép miệng:

-Vô phúc nhất người đàn bà không con

Người thứ ba cười buông:

-Bất hạnh nhất người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng

Người thứ tư điềm đạm:

-Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con.

Người thứ năm:

-Mô Phật!

Lão xà ích giật dây cương

Roi quất

Tung bụi đường.

Câu 1. Chỉ ra những nỗi đau khổ của kiếp đàn bà được nhắc đến trong bài thơ?

Câu 2. Tác giả dùng từ ngữ nào thể hiện nỗi đau của họ.

Câu 3. “Người thứ năm: Mô Phật!” em hãy lí giải cảm xúc của người đàn bà thứ năm?

Câu 4. Nhận xét giọng điệu bài thơ.

Câu 5. Nêu chủ đề bài thơ.

Gợi ý

Câu 1. Với câu chuyện về năm người đàn bà, thi sĩ đã khái quát được những đau khổ trầm luân của kiếp đàn bà: từ nỗi khổ không chồng, không con, nỗi cô độc, nỗi đau câm lặng, khó được sẻ chia: không khóc được trước mặt chồng, không cười được khi thấy con.

Câu 2. Tác giả dùng từ ngữ thể hiện nỗi đau của họ: tội nghiệp, vô phúc, bất hạnh, tuyệt vọng; thậm chí không gọi được tên, mênh mang, hư vô.

Câu 3. Người thứ năm: Mô Phật!. Không rõ thái độ của người đàn bà thứ năm, cũng không rõ bà ta cho thế nào là bất hạnh. Nhưng tiếng nói vô nghĩa bật ra như thói quen của các tín đồ: “Mô Phật” lại là đỉnh cao của nỗi đau vô vọng. Dường như người đàn bà không còn đủ sức để định nghĩa về nỗi đau của mình, thay vào đó là trạng thái an nhiên của kẻ đã thấu hiểu sâu sắc và thấm thía lẽ đời.

Câu 4. Giong điệu bài thơ khách quan, vô âm sắc. Cuộc đời như một cỗ xe với những vòng quay luân hồi chất chở bao đau khổ đầy vơi của kiếp người. Tác giả đã làm người kể chuyện đứng ngoài để tạo cảm giác về dòng đời cứ trôi đi với những quy luật dòng chảy khách quan của nó.

Câu 5. Bài thơ “Đi lễ chùa” của Dư Thị Hoàn mang đậm tính triết luận ở tầng sâu ngôn bản. Bài thơ là niềm thương cảm với người phụ nữ, những may rủi họa phúc là vô thường không ai có thể tránh khỏi. Điều quan trọng là cần giữ cho mình sự nhẹ nhòm, thanh thản trước cuộc đời vốn nhiều thăng trầm.

1.1.4.Lời bài” Khúc hát sông quê” của Nguyễn Trọng Tạo, phổ trên lời thơ của Lê Huy Mậu

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Quá nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê

Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ,

Chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn

Từng hạt phù sa tháng ba, tháng bảy

Từng vị heo may trên má em hồng

Ơi con sông quê, con sông quê.

Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ

Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng

Ơi con sông quê, con sông quê.

Con cá dưới sông, cây trồng trên bãi,

Lúa gặt rồi còn để lại rơm thơm

Cùng một bến sông con trâu đằm, sóng vỗ

Bầy trẻ thơ tắm mát giữa thượng nguồn

Một dòng xanh trong trẻ mãi tới vô cùng”

Câu 1. Hình tượng chính của bài thơ là gì? Hình tượng đó mang ý nghĩa biểu tượng như thế nào?

Câu 2. Tìm một thành ngữ trong bài thơ, nói rõ ý nghĩa của thành ngữ đó?

Câu 3. Anh / chị hình dung và cảm nhận như thế nào về hai câu thơ:” Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng”?

Câu 4. Từ hình tượng ” con sông quê”, liên tưởng tới truyện ngắn ” Bến quê” của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn lớp 9), hãy viết một đoạn văn khoảng 7-10 câu về đề tài ” quê hương – nguồn cội”?

Gợi ý

Câu 1. Hình tượng chính của bài thơ là ” con sông quê”. Hình tượng đó mang ý nghĩa biểu tượng cho quê hương, cho tuổi thơ, cho nguồn cội thiêng liêng trong cuộc đời mỗi con người.

Câu 2. Thành ngữ trong bài thơ là ” chớp bể mưa nguồn”. Ý nghĩa của thành ngữ không dừng lại ở nghĩa đen về những hiện tượng thiên nhiên mà chủ yếu gợi những khó khăn, trắc trở, những bất ổn, chông gai trong cuộc sống.

Câu 3. Hai câu thơ:” Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng” có giá trị gợi hình và biểu cảm sâu sắc – gợi hình ảnh đứa con ngồi bên bờ sông quê, ánh mắt bồn chồn, khắc khoải chờ mẹ đi chợ về, chờ ánh mắt trìu mến, nụ cười ấm áp, bàn tay ân cần của mẹ cùng món quà quê dân dã bình dị mà quí giá vô cùng với đứa trẻ nghèo / từ láy ” vời vợi” vừa thể hiện cái nhìn chờ đợi của đứa trẻ, vừa gợi chiều dài nhớ nhung của kí ức với những năm tháng tuổi thơ êm đềm một đi không trở lại, gợi cả cái thao thiết của dòng sông quê trôi chảy suốt chiều dài tuổi thơ, suốt cả đời người…

Câu 4. Từ hình tượng ” con sông quê”, liên tưởng tới truyện ngắn ” Bến quê” của Nguyễn Mnh Minh Châu ( Ngữ văn lớp 9), viết một đoạn văn khoảng 7-10 câu về đề tài ” quê hương – nguồn cội” có thể hướng tới một vài gợi ý sau đây:

– Vai trò của quê hương với tâm hồn mỗi con người – nơi con người luôn có thể tìm thấy sự trong trẻo để thanh lọc, cảm giác bình yên để dịu lòng, chốn đợi chờ chở che ấm áp cho mọi mệt mỏi lạc loài…

– Vai trò của nguồn cội với nhân cách con người – quê hương, gia đình luôn là nguồn cội sâu xa, thiêng liêng nhất giúp hình thành, thanh lọc và gìn giữ phẩm cách con người. Người quên nguồn cội là người bạc bẽo vong bản, họ sẽ mất điểm tựa tinh thần vững chắc, mất nền tảng của những giá trị, mất những xúc cảm đạo đức tích cực nhất như lòng biết ơn, nghĩa tình chung thuỷ…

1.1.5. Noel 1 – Dương Tường ( trích tập “Ba sáu bài tình”, NXB Trẻ, tpHCM, 1989)

Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi:

Noel lụa len len đêm tổ tông truyền

Hồ bờ len người len đèn len liễu loen mắt

loen màu nhen răm răm giane men

nen ren em quen

Em về phố lặng

lòng đổ chuông

llềnh lluềnh nước

lli

lluâng

lloang llưng

lliêng llinh lluông buông boong

ad lllibitum.

Câu 1. Anh/ chị hãy nêu nội dung bài thơ.

Câu 2. Hãy nhận xét về cấu trúc bài thơ. Cấu trúc đó có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện nội dung?

Gợi ý

Câu 1. Bài thơ viết về cảnh Noel bắt đầu từ lúc đông vui nhất cho đến khi tàn đêm.

Câu 2. Cấu trúc bài thơ đặc biệt. Nó không đi theo lối diễn đạt thông thường mà chữ nọ gọi chữ kia, âm nọ gọi âm kia kéo thành dây thành chuỗi, líu ríu, chen chúc ( Hồ bờ len người len đèn len liễu loen mắt/ loen màu nhen răm răm gai nen men/ nen ren em quen), góp phần tượng hình không khí đông đúc, náo nhiệt trong đêm Noel ở bờ Hồ. Nhà thơ không chủ trương khắc nghĩa mà gợi lên ấn tượng về không gian, tạo nên những hiệu ứng âm thanh. Tiếng chuông giáo đường cứ ngân nga, vang xa theo gió, tụ rồi tán, tán rồi lại tụ. Tiếng chuông ấy là tiếng chuông có thật, vang lên từ trong lòng người. Âm thanh vang ngân trong đêm lặng như làm rung động cả mặt hồ, làm loang ra những vòng sóng. Những âm sắc vô nghĩa, lần đầu xuất hiện trong tiếng Việt lại gợi lên sự cộng hưởng của ánh sáng, âm thanh và hình ảnh.

2.Hệ thống câu hỏi rèn kĩ năng đọc – hiểu truyện, kí theo mức độ mô tả

Để rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản truyện, kí cho học sinh, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu cả văn bản bằng hệ thống các câu hỏi hướng tới đọc – hiểu đặc điểm của truyện, kí. Tuy nhiên, giáo viên có thể tỉ mỉ hướng dẫn học sinh tiếp cận các dạng đề đọc – hiểu từng đặc điểm riêng của truyện, kí để học sinh nắm bắt. Dưới đây là ví dụ minh họa từng dạng đề luyện kĩ năng đọc – hiểu truyện với các đặc điểm riêng, sau đó là luyện đề tổng hợp cả văn bản văn học truyện.

2.1.Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản truyện

2.1.1.Dạng 1: Luyện kĩ năng đọc – hiểu chi tiết

Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi kèm theo:

Liền hai ngày sau Cún vẫn không ăn. Số phận Cún đã được định đoạt. Ông “xuất khẩu” đưa đến hai anh lái chó. Nằm gối đầu lên chiếc chăn cũ, Cún ngửi thấy người họ, cái thòng lọng của họ sặc mùi chó. Cún hiểu. Nhưng Cún không dậy được nữa, dù sau nhiều ngày không ăn, Cún vẫn là con chó to lớn.

Tôi trở về buồng mình, không dám nhìn cảnh Cún bị bắt đi.

Đứng lặng ở giữa nhà, tôi căng mọi giác quan ra nghe ngóng, mỗi giây dài như vô tận.

Tiếng Cún kêu lên. Rồi tiếng Cún nghẹn lại vì bị buộc mõm. Và im lặng. Tim tôi nhói lên.

Tôi thấy họ xuống thang. Tôi không thể không nhìn Cún lần cuối cùng. Cún bị trói ngược hai chân trước, cái chân mà chị Thanh vừa chạm vào, Cún đã run lên vì đau đớn. Hai người khiêng Cún xuống. Tôi cảm thấy con ngươi ươn ướt của Cún nhìn tôi đờ đẫn. Đó là cái nhìn vĩnh biệt.

Ông “xuất khẩu” đi phía sau chép miệng:

– Tiếc quá. Không bán sớm được mấy ngày. Hôm nay mới bán, mất nửa tiền.

Tôi sang chị Thanh. Chị ngồi úp mặt xuống gối, về phía chiếc lò sưởi, bất động. Tôi ngồi im trên ghế nhìn chị. Nhìn chung quanh. Nhìn cái áo sơ mi cũ của anh Trung vẫn treo trên mắc. Nhìn cái bát Cún vẫn ăn. Rồi lại nhìn chị Thanh vẫn ngồi gục đầu xuống hai cánh tay khoanh trên đầu gối. Lâu lắm…

Chợt chị ngẩng lên. Tôi thấy chị đầm đìa nước mắt. Ngước đôi mắt sưng húp về phía tôi, chị nói:

– Thế là hết cả rồi anh ạ.

(Bùi Ngọc Tấn – “Cún” in trong tập truyện “Người chăn kiến”, NXB Trẻ, 2014, tr.39-40)

Câu 1: Đoạn trích đề cập đến sự việc gì? Có những đối tượng nào liên quan đến sự việc đó?

Câu 2: Cún được khắc họa qua những chi tiết nào? Anh/ chị có cảm nhận gì về nhân vật qua những chi tiết ấy?

Câu 3: Đoạn trích trên có sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp tu từ ấy?

Câu 4: Các nhân vật có phản ứng như thế nào khi Cún bị đưa đi? Những phản ứng ấy cho anh/ chị thấy điều gì về họ?

Gợi ý

Câu 1. – Đoạn trích đề cập tới sự việc: Cún bị ốm, liên hai ngày không ăn, không có cách gì chữa nên đã bị người đến đưa đi trong nỗi buồn bã, đau xót của người chủ.

– Các đối tượng liên quan đến sự việc: Cún, ông “xuất khẩu”, hai anh lái chó, Tôi (người kể chuyện) và chị Thanh.

Câu 2. – Các chi tiết khắc họa Cún: không ăn, nằm gối đầu lên chiếc chăn cũ, ngửi thấy mùi thòng lọng, hiểu việc mình sắp bị bắt đi, không dậy được nữa, Cún kêu lên rồi nghẹn lại vì bị rọ mõm, Cún bị trói ngược hai chân trước, run lên vì đau đớn, con ngươi ươn ướt nhìn đờ đẫn.

– Cảm nhận về Cún: Học sinh có thể có những cảm nhận khác nhau song cần làm rõ:

+ Sự buồn bã, tuyệt vọng trong những giờ phút cuối cùng bị bắt đi.

+ Số phận đau thương, phải chịu cái chết nghiệt ngã.

+ Cún rất khôn, hình như hiểu được tình cảm của mọi người và bản thân nó cũng rất tình cảm.

Câu 3. – Biện pháp tu từ được sử dụng: nhân hóa.

– Tác dụng: Khắc họa sắc nét hình tượng Cún, để Cún hiện lên như một nhân vật có tâm hồn, đời sống và thân phận riêng. Cún là bạn và có một ý nghĩa tinh thần quan trọng với nhân vật Tôi và chị Thanh.

Câu 4. – Phản ứng của các nhân vật khi Cún bị đưa đi:

+ Tôi: không dám nhìn cảnh Cún bị bắt đi; căng mọi giác quan ra nghe ngóng; nghe tiếng Cún kêu và tim nhói lên; nhìn Cún lần cuối cùng thấy con ngươi ươn ướt của Cún nhìn tôi đờ đẫn; sang nhà chị Thanh, ngồi im trên ghế nhìn chị, nhìn cái áo sơ mi của anh Trung vẫn treo trên mắc, nhìn cái bát Cún vẫn ăn, nhìn chị Thanh vẫn ngồi gục đầu xuống hai cánh tay khoanh trên đầu gối.

+ Chị Thanh: ngồi úp mặt xuống gối, bất động rất lâu; sau đó ngẩng lên, mắt đầm đìa nước, sưng húp, nói với nhân vật Tôi: “Thế là hết cả rồi anh ạ”.

– Những phản ứng trên cho thấy:

+ Cả hai người đều vô cùng đau buồn, xót xa, ám ảnh về việc Cún bị bắt đi. Họ đều dành tình yêu lớn cho Cún, coi Cún như một người bạn, một người thân.

+ Nhân vật Tôi ám ảnh về số phận của Cún, day dứt về cuộc sống của chị Thanh, thương cảm cho chị.

+ Chị Thanh đau đớn, chết lặng trong mất mát, tuyệt vọng.

2.1.2.Dạng 2. Rèn kĩ năng đọc – hiểu giọng điệu trong văn bản tự sự

Ví dụ 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi ở dưới:

(…)Khảm bảo: “Hai anh em mình mang tiếng có học mà Tết nhất đến một bộ quần áo hẳn hoi cũng không có”. Đoài bảo: “Chỉ có con đường lấy vợ giàu thôi. Tối nay mày đưa tao đến con ông ánh sáng ban ngày đấy nhé”. Khảm bảo: “Được thôi! Nếu anh tán được, thưởng em cái gì?”. Đoài bảo: “Thưởng cái đồng hồ”. Khảm bảo: “Được rồi! Anh ghi cho em mấy chữ làm bằng”. Đoài hỏi: “Không tin tao à?”. Khảm bảo: “Không”. Đoài ghi vào giấy: “Ngủ được với Mỹ Trinh, thưởng một đồng hồ trị giá ba ngàn đồng. Lấy Mỹ Trinh thưởng năm phần trăm của hồi môn. Ngày…tháng…năm…Nguyễn Sĩ Đoài”. Khảm cất tờ giấy vào túi rồi nói: “Cảm ơn”…

(Không có vua – Nguyễn Huy Thiệp)

Câu 1. Ngôi kể được tác giả sử dụng trong đoạn văn?

Câu 2. Sử dụng ngôi kể có tác dụng gì trong việc thể hiện giọng điệu trần thuật?

Câu 3. Qua giọng điệu trần thuật anh/ chị hiểu gì về các nhân vật trong đoạn trích?

Câu 4. Đánh giá về con người nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua giọng văn?

Gợi ý

Câu 1. Đoạn trích sử dụng ngôi kể thứ 3 – người kể chuyện đứng ngoài, chỉ tường thuật lại sự kiện diễn ra.

Câu 2. Sử dụng ngôi kể như vậy khiến cho giọng điệu trần thuật khách quan, không bình luận, không giải thích, không bộ lộ cảm xúc chủ quan về đối tượng đã giúp người đọc có điều kiện phát huy tối đa cảm xúc chủ quan của mình mà không bị kiềm tỏa trong cái khuôn có sẵn do tác giả đúc nên bởi cái tạng thẩm mĩ của mình.

Câu 3. Sự thật đời sống được tái hiện một cách trần trụi, trắng trợn. Nhà văn đã phản ánh tới kiệt cùng của sự bê tha, nhếch nhác, đốn mạt trong đời sống con người. Viết về những điều ấy tác giả đã sử dụng giọng điệu lạnh lùng, dửng dưng, kiêu bạc. Qua giọng điệu, nhân vật hiện lên với tâm lí vụ lợi trong quan hệ “tiền trao cháo múc”, quy đổi mọi giá trị người thành hàng hóa.

Câu 4. Lạnh lùng, dửng dưng nên người đọc có thể cho Nguyễn Huy Thiệp là người khinh bạc, nhẫn tâm nhưng thật bình tĩnh và công bằng mà nói thì không phải ai cũng có bản lĩnh đi đến tận cùng như vậy và suy cho kĩ thì giọng điệu này xuất phát từ ước vọng hoàn toàn vì con người, cảnh tỉnh con người: “Này! Sống thế nào thì sống, sống như thế khổ lắm, nhục lắm, sống như thế đểu lắm, khốn nạn lắm”.

2.1.3.Dạng 3.Rèn kĩ năng đọc – hiểu nhân vật  trong văn bản tự sự

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

“Bởi tôi ăn uốn có chừng mực và làm việc có điều độ nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Đôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ. Những ngọn cỏ gẫy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua. Đôi cánh tôi, trước kia ngắn hủn hoẳn bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vỗ lên, đã nghe tiếng phành phạch giòn giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhi ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Tôi lấy làm hãnh diện với bà con vì cặp râu ấy lắm. Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.

Tôi đi đứng hùng dũng. Mỗi bước đi, tôi là điệu rún rẩy cái cẳng chân, rung lên rung xuống hai chiếc râu. Cho ra kiểu cách con nhà võ. Tôi tợn lắm. Dám cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm. Khi tôi to tiếng thì ai cũng nhịn, không ai đáp lại. Bởi vì quanh quẩn ai cũng quen mình cả. Không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he. Ấy vậy, tôi cho tôi giỏi. Những gã xốc nổi thường làm cử chỉ ngông cuồng là tài cao. Tôi quát mấy mấy chị châu chấu ngụ ngoài đầu bờ khiến mỗi lần thấy tôi đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên. Tôi càng tưởng tôi là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi”.

( Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài)

Câu 1. Nhà văn Tô Hoài sử dụng ngôi kể nào?

Câu 2. Nhân vật Dế Mèn được miêu tả qua những yếu tố nào?

Câu 3. Qua các yếu tố đó, nhân vật Dế Mèn hiện lên như thế nào?

Câu 4. Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ của nhà văn khi miêu tả về nhân vật này.

Gợi ý

Câu 1. Trong đoạn trích trên, nhà văn Tô Hoài sử dụng ngôi kể thứ nhất.

Tác dụng của ngôi kể: Nhà văn nhập hẳn vào nhân vật Dế Mèn, người kể chuyện xưng “tôi” khiến cho câu chuyện trở nên chân thật. Câu chuyện trở thành những trải nghiệm chân thật mà nhân vật đã trải qua, người đọc cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc rất thật của nhân vật.

Câu 2. Nhân vật Dế Mèn được miêu tả qua ngoại hình và cách ứng xử với những người xung quanh.

Câu 3. Chú Dế Mèn hiện lên mang vẻ đẹp của sự khỏe khoắn, hùng dũng, mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhưng qua cách chú ứng xử với mọi người thì bộc lộ sự ngạo mạn, khinh thường.

Câu 4. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt các từ chỉ đặc điểm, tính chất để tả lại vẻ đẹp của Dế Mèn. Các tính từ trong đoạn trích được sử dụng một cách sinh động, qua đó bộc lộ sự hùng dũng, khỏe khoắn cuả nhân vật. Việc sử dụng liên tiếp nhiều tính từ để miêu tả cho thấy nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách tài tình của nhà văn Tô Hoài.

2.1.4.Dạng 4. Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản tự sự nói chung

Truyện ngắn “Bức tranh” ( Nguyễn Minh Châu)

Câu 1: Tóm tắt câu chuyện xảy ra của nhân vật “tôi”.

Câu 2: Nhận xét về điểm mới trong cách xây dựng cốt truyện ở tác phẩm “Bức tranh” – sáng tác tiêu biểu sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu.

Câu 3: Nhận xét về giọng điệu trần thuật của Nguyễn Minh Châu?

Câu 4: Tình huống nảy sinh khiến nhân vật “tôi” tự thú về việc làm của mình? Em hãy gọi tên tình huống và phân tích?

Câu 5: Trong tác phẩm “Bức tranh” có 2 chi tiết nghệ thuật quan trọng. Đó là chi tiết nào? Vì sao?

Câu 6: Nhân vật “tôi” đã vẽ bức tranh tự họa của mình bằng những chi tiết nào? Nêu ý nghĩa của việc lặp lại bức tranh tự họa của nhân vật “tôi” ở phần đầu và phần cuối tác phẩm?

Câu 7: Trong truyện “Bức tranh” Nguyễn Minh Châu có viết câu “Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên”, câu văn này đặt trong văn cảnh của thiên truyện gợi cho em nhớ tới câu thơ nào trong truyện Kiều mà em đã học. Từ đó hãy nói rõ tâm trạng của các nhân vật được diễn tả trong câu văn, câu thơ ấy? Vì sao các nhân vật lại có tâm trạng đó? Việc thể hiện tâm trạng đó đã làm thấm thía ý nghĩa tư tưởng gì của tác phẩm.

Câu 8: Cảm nhận của em về nhân vật người chiến sĩ – anh thợ cắt tóc trong truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu.

Câu 9: Trong tác phẩm này đã thể hiện rõ lời tự thú của một tâm hồn hướng thiện. Em hãy phân tích ý nghĩa của bức tranh tự họa trong tác phẩm.

Câu 10: Nhan đề “Bức tranh” có mối liên hệ như thế nào với biểu tượng về chiếc gương soi mặt và “bức ảnh truyền thần” người chiến sĩ năm xưa?

Câu 11: Bức tranh” là truyện ngắn có tính luận đề. Qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu muốn nhắc nhở mọi người điều gì?

Câu 12: Chỉ ra nét mới trong nhận thức về con người của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 qua tác phẩm “Bức tranh“?

Gợi ý

Câu 1. Toàn bộ “Bức tranh” là tấm chân dung tự họa trong nỗi day dứt của một người họa sĩ. Trong chiến tranh, vì tự ái nghề nghiệp “tôi là một họa sĩ chứ đâu phải là một thợ vẽ truyền thần”, người họa sĩ ấy đã từ chối vẽ chân dung cho một người chiến sĩ để anh gửi về cho mẹ già. Rồi sau đó, khi được người chiến sĩ cứu sống, người họa sĩ vẽ chân dung anh với lời hứa không chỉ với anh mà còn với chính bản thân mình là sẽ mang bức tranh đó về trao tận tay mẹ của anh. Nhưng về tới Hà Nội, người họa sĩ đã không thực hiện lời hứa của mình mà mang bức tranh đi triển lãm. Bức “chân dung chiến sĩ giải phóng” đã mang lại thành công và sự nổi tiếng cho ông. Tám năm sau, một lần tình cờ vào hiệu cắt tóc, người họa sĩ nhận ra người cắt tóc chính là anh chiến sĩ năm nào, và người mẹ của anh, vì không nhận được tin tức gì của con trai trong thời chiến, ngỡ con mình hi sinh nên đã khóc lòa cả mắt. Toàn bộ câu chuyện là nỗi ân hận, day dứt của người họa sĩ khi đối diện với lương tâm của chính mình, nhất là khi người thợ cắt tóc bao dung, độ lượng, vờ như không nhớ chuyện quá khứ.

Câu 2. Cốt truyện được nới lỏng, sự kiện và biến cố không còn quan trọng thiết yếu bên cạnh các yếu tố suy tư triết lý, những xung đột tâm lý, những hồi ức, giả tưởng. Cốt truyện của “Bức tranh” được xây dựng trên xung đột nội tâm và bi kịch tinh thần của người họa sĩ. Toàn bộ tác phẩm không có những sự kiện, những tình tiết gay cấn mà chỉ như một lời thú tội, lời kể lại của người họa sĩ về nỗi niềm của mình. Trọng tâm của truyện ngắn là mô tả những diễn biến, những vận động nội tâm của con người khi đối diện với một lỗi lầm trong quá khứ, đồng thời đó cũng là quá trình tự ý thức bản thân mình, họa bức chân dung “sơn dầu” hoàn thiện về con người đích thực của mình. Phải mất mấy tháng để người họa sĩ hoàn thành bức tranh, đó cũng là khoảng thời gian đấu tranh nội tâm gay gắt để sống chân thực với cả phần “bóng tối và ánh sáng” trong tâm hồn mình. Cả câu chuyện đi theo mạch kể của nhân vật xưng “tôi”- người họa sĩ, có cả hồi ức – những câu chuyện chiến trường cách đây 8 năm, có cả giả tưởng – những cuộc hội thoại giữa anh chiến sĩ năm xưa và người họa sĩ với đầy đủ cung bậc, hay nói cách khác là những lần họa sĩ tự phân thân để nhìn nhận, đánh giá về con người mình.

Câu 3. Từ giọng trữ tình mang tính ngợi ca trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu chuyển sang giọng điệu trần thuật bình đẳng, đa thanh hết sức mới mẻ. “Bức tranh” có nhiều giọng điệu: giọng lên án, giọng bào chữa, giọng xuê xoa lẩn tránh, giọng khắc khoải, tự si vả mình. Ngôn ngữ nửa trực tiếp: đan xen giọng điệu của tác giả, người họa sĩ, người chiến sĩ năm xưa.

Câu 4. Với một cốt truyện được nới lỏng, cốt truyện về đời tư, thế sự, Nguyễn Minh Châu không xây dựng những tình huống kịch tính giống văn học trước 1975 mà ông chủ yếu đi vào những tình huống tự nhận thức. Người họa sĩ vô tình vào một hiệu cắt tóc, nhận ra người chiến sĩ năm xưa mình đã từng bội ước, thì cảm giác lo sợ, ân hận, day dứt xuất hiện. Theo mạch truyện, mỗi một lần đến hiệu cắt tóc là một lần người họa sĩ nhận thức thêm được về mình qua hình ảnh phản chiến trong tấm gương soi. Qúa trình tự nhận thức của người họa sĩ không chịu tác động của anh chiến sĩ năm xưa ( người chiến sĩ dường như cố tình không nhận ra ông và đối xử một cách bình thường), hoặc nếu có tác động thì chỉ là thái độ khoan dung của người chiến sĩ càng làm cho ông hổ thẹn ( khác hẳn với những cuộc đối thoại giả tưởng diễn ra trong tâm hồn người họa sĩ với những lời “đồ dối trá”, “cút đi”)

Câu 5. Trong tác phẩm có 2 chi tiết nghệ thuật quan trọng đó là bức chân dung anh chiến sĩ và bức tranh tự họa của người họa sĩ. Bởi vì qua 2 bức tranh này chủ đề của tác phẩm đã được bộc lộ. Mỗi bức tranh là kết quả của một lần tự suy nghĩ và phán xét về chính mình. Đồng thời đó cũng là lời tự thú chân thành của người họa sĩ với những lỗi lầm của mình đã mắc phải.

Câu 6. Ý nghĩa: Trong cuộc sống thường nhật, con người thường nhận ra phần tốt của mình, chỉ đến khi được soi rọi bằng thứ “ánh sáng từ muôn nghìn nến”, ánh sáng của lương tâm thì mới nhận ra mình còn có bộ mặt khác ẩn đằng sau chiếc mặt nạ vẫn mang theo hàng ngày. Người họa sĩ khi ngồi cắt tóc, nhìn thấy mình trong tấm gương như được đối diện với con người thứ hai của mình, con người xấu xí và lạ lẫm, với đôi mắt “khắc khoải” và một phần chưa lộ rõ hết bởi lớp bọt xà phòng che phủ nửa dưới của khuôn mặt. Cái khuôn mặt thứ hai ấy chính là phần “rắn rết”, “ác quỷ” bên trong mỗi con người mà không phải ai cũng có thể nhận ra và chấp nhận nó.

Câu 7. Câu văn của Nguyễn Minh Châu làm ta liên tưởng tới câu thơ trong truyện Kiều: “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”.

Các nhà văn đã thể hiện được tâm trạng hổ thẹn, sượng sùng của hai nhân vật người họa sĩ và nàng Kiều. Tâm trạng đó được diễn tả sinh động qua hình ảnh “da mặt dày lên”. Sự gặp gỡ thật kì diệu của hai tác giả đã chọn hình ảnh tiêu biểu để khắc họa tâm trạng nhân vật. Bởi cả hai nhân vật trong hai tác phẩm được miêu tả cụ thể đều ý thức rất rõ việc mình đang làm. Nàng Kiều ý thức được nhân phẩm nên cảm thấy vô cùng nhục nhã khi tài sắc của mình trở thành hàng hóa. Vì thế nên nàng nhìn hoa mà thẹn với hoa, mỗi bước đi của nàng thấm đầy nước mắt. Tâm trạng “mặt dày” mà Nguyễn Du miêu tả trong câu thơ giúp người đọc hiểu được nỗi niềm tâm sự của nàng Kiều. Vì sự bình yên của gia đình, nàng Kiều chấp nhận sự tủi nhục ê chề. Còn nhân vật người họa sĩ của Nguyễn Minh Châu cảm thấy “mặt mình dày lên” khi nghĩ tới việc không giữ lời hứa với người chiến sĩ mà mang bức hình của người chiến sĩ đi triển lãm để tạo tiếng tăm cho mình. Người họa sĩ tự thú mình là kẻ ích kỉ, thấp hèn, tự nhìn vào bộ mặt thật bên trong của mình, xấu hổ với chính mình. Dằn vặt, trăn trở với lỗi lầm chính mình khiến cho ông họa sĩ trở thành một nhân cách đáng trọng. Gía trị nhân văn của tác phẩm chính là ở chỗ đó.

Câu 8. Gợi ý:

Lưu ý: Người chiến sĩ năm xưa nay là người thợ căt tóc chỉ làm nền thấp thoáng xuất hiện trong tác phẩm nhưng lại là biểu tượng cao đẹp của con người. Đó là sự độ lượng và lòng nhân ái.

-Đọc tác phẩm người đọc đều cảm nhận rõ: người chiến sĩ tha thiết yêu kính mẹ. Trong khói bom lửa đạn nơi chiến trường niềm mong ước duy nhất của anh là có một tấm hình gửi về cho mẹ. Anh chỉ mong sao nơi quê nhà người mẹ già có tấm hình anh sẽ yên tâm anh còn sống và thỏa được điều ao ước của mẹ bấy lâu. Vì thế mặc dù rất ngại ngần nhưng người chiến sĩ vẫn tha thiết thỉnh cầu ông họa sĩ vẽ cho anh một bức chân dung. Qua niềm mong ước ấy người đọc cảm nhận được tấm lòng thơm thảo của người con đối với mẹ. Đó chính là nét đẹp trong tình cảm người chiến sĩ.

-Nhưng điều cơ bản nhất ở người chiến sĩ là sự độ lượng và tấm lòng nhân ái:

+Sự độ lượng của anh được thể hiện bằng việc giúp đỡ ông họa sĩ tận tình khi ông gặp khó khăn.

+Trong anh không hề mảy may có sự ích kỉ, thù hằn, đó là nét đẹp trong trái tim người chiến sĩ: một tấm lòng bao dung, hào hiệp.

+Chính sự độ lượng đó của anh khiến cho người họa sĩ nhìn lại quan niệm sống của mình. Ông bỗng nhận ra rằng cái triết lý: cho như thế nào thì sẽ nhận như thế ấy không hẳn đã đúng trong mọi trường hợp.

+Và ông cũng nhận ra một điều lòng độ lượng không phải độc quyền của kẻ bề trên bởi chính lúc này người chiến sĩ ít tuổi hơn ông chẳng có danh tiếng gì đang tỏ ra độ lượng với ông. Điều đó đã làm người họa sĩ bừng tỉnh ra lỗi lầm của mình.

-Sự độ lượng của anh chiến sĩ còn được biểu hiện bằng việc tha thứ cho lỗi lầm của người họa sĩ. Mặc dù, đọc tác phẩm ta thấy anh chiến sĩ không hề lên tiếng.

–> Với hình ảnh người chiến sĩ nhà văn đã ca ngợi vẻ đẹp của anh lính cụ Hồ, đó là sự độ lượng, lòng nhân ái biết tha thứ cho lỗi lầm của người khác. Đồng thời, với nhân vật này Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được vấn đề lớn của cuộc sống: lòng độ lượng, đức tính vị tha của mỗi con người có sức cảm hóa kì diệu, sẽ giúp người khác nhìn lại mình để vươn tới cái cao đẹp để hoàn thiện bản thân.

Câu 9. Gợi ý

-Với tác phẩm “Bức tranh” Nguyễn Minh Châu đã nêu ra một vấn đề của đời sống: mỗi con người phải tự suy nghĩ về chính mình để vượt lên thói xấu, sống độ lượng và cao thượng hơn, có như vậy mới xây dựng được xã hội tốt đẹp. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện ý nghĩa đó qua việc xây dựng thành công nhân vật người họa sĩ. Điểm đáng quý nhất ở người họa sĩ là tâm hồn hướng thiện dám nhìn thẳng vào thói xấu của mình để hoàn thiện nhân cách. Trong ông đã diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt khi nhìn lại những việc mình làm trong quá khứ đối với người chiến sĩ mà nay được gặp lại.

+Câu chuyện xảy ra 8 năm về trước nhưng khi gặp lại người chiến sĩ năm xưa bây giờ là anh thợ cắt tóc, ông họa sĩ vẫn nhớ như in những việc mình đã làm, đó là không mang bức chân dung của người chiến sĩ đã nhờ gửi cho mẹ anh ở hậu phương mà lại mang đi triển lãm để nhận giải thưởng. Vinh quang của người họa sĩ trở nên quan trọng và hấp dẫn hơn cái nguyện vọng thiết tha và cảm động của người chiến sĩ nơi chiến trường. Một điều thật trớ trêu không phải là những bức tranh nghệ thuật khác mà chính là bức chân dung người chiến sĩ ấy đã đem lại vinh quang cho ông họa sĩ. Ông đã mắc nợ và chịu ơn người chiến sĩ. Ông chỉ nhận vinh quang mà quên hết món nợ.

+Lúc này đây trước mặt ông là người thợ cắt tóc bình thường chính là người chiến sĩ năm xưa bình dị và độ lượng khiến cho trong ông đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt. Ông nửa như muốn nhận lỗi, cảm thấy như “da mặt mình dày lên”, hổ thẹn với chính mình, thấy mình thấp hèn và ích kỉ đã làm những việc đáng lẽ không nên làm. Ông tự lên án mình là kẻ dối trá đã gây đau khổ cho người khác. Nhưng có lúc ông lại không muốn nhận lỗi. Một con người khác bên trong người họa sĩ đã tìm cách biện bạch cho hành động tội lỗi đó. Như vậy, trong con người ông họa sĩ có sự day dứt, giằng co giữa phần tốt – xấu, giữa rồng phượng – rắn rết, giữa thiên thần – ác quỷ.

-Song càng tìm hiểu về người chiến sĩ, ông họa sĩ càng hiểu rõ vì sao mẹ già của anh bị mù lòa, lương tâm ông càng cắn rứt. Ông quyết định “chường” cái mặt của mình để kiên quyết nhận thói xấu về mình. Như vậy thừa nhận cái xấu, lỗi lầm của mình, ông họa sĩ đã trở thành nhân cách đáng trọng. Ông day dứt, giằng co trong tâm hồn để vươn tới cái cao đẹp. Tâm hồn hướng thiện của người họa sĩ chính là ở chỗ đó. Ông đã tự phác họa bên trong mình “đó là khuôn mặt người rất lớn, nghìn ánh sáng từ phía trước, một nửa mái tóc tốt rợp, một nửa mái tóc đã cắt, phần bên dưới của khuôn mặt có cái mặt nạ. Đôi mắt mở to nhìn vào nội tâm…” Luồng ánh sáng nghìn nến chính là ánh sáng của lí trí, của lương tâm khi đã thức tỉnh, đã nhìn rõ con người mình… Nói đúng cái mặt bên trong của mình là một điểm đáng quý của người họa sĩ – một tâm hồn luôn khao khát vươn đến cái cao đẹp.

-Xây dựng nhân vật người họa sĩ trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã nêu một kiểu nhân vật tư tưởng không đại diện cho một tầng lớp người mà tập trung thể hiện vấn đề tư tưởng, một ý thức tồn tại trong xã hội. Đó là vấn đề ý thức tự phê phán, tự thức tỉnh, tự thú của lương tâm mỗi người để nhìn về mình.

–> Qua nhân vật người họa sĩ Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi tới bạn đọc hãy tự suy nghĩ về chính mình để nhìn ra cái xấu mà vươn tới cái cao đẹp. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện niềm tin của mình vào con người, vào sự phấn đấu của mỗi người để vươn tới cái thiện, cái đẹp. Cuộc đấu tranh với cái xấu, cái ác phải là cuộc đấu tranh nội tâm trong mỗi con người, chiến thắng cái xấu ngay trong bản thân mỗi con người. Đó chính là giá trị nhân văn của tác phẩm khi nhà văn xây dựng thành công nhân vật người họa sĩ.

Câu 10. Chiếc gương soi mặt và bức tranh của ông thợ cắt tóc ( người chiến sĩ năm xưa) chính là biểu tượng độc đáo của tác phẩm. Tên tác phẩm là “Bức tranh” và xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hình ảnh bức tranh cứ lặp đi lặp lại với nhiều biến thể khác nhau. Chiếc gương soi mặt của người thợ cắt tóc đã phản chiếu “khuôn mặt bên trong được lột ra khỏi cái mặt nạ hằng ngày”. Đó là bức tranh được soi rọi bởi muôn nghìn nến, thấy rõ một đôi mắt mở to, khắc khoải, một nửa khuôn mặt bị che lấp đi bởi lớp bọt xà phòng. Lần đầu tiên, nhân vật họa sĩ thấy bức chân dung của mình xấu xí lạ lùng, trái ngược với bức tranh “chân dung chiến sĩ giải phóng” treo trên tường hiệu cắt tóc. Dường như đấy là sự dối trá, bịp bợm. Hình ảnh người họa sĩ trong gương là hình ảnh con người bên trong, tấm gương là công cụ phản chiếu ánh sáng soi rọi từ lương tâm để con người nhìn thấy rõ bộ mặt thật của mình.

Câu 11. Với tác phẩm “Bức tranh” Nguyễn Minh Châu muốn nhắc nhở mọi người: Dù cuộc sống có bận bịu, chen lấn thế nào thì hãy tạn ngừng để suy nghĩ về chính mình, để vượt lên “rắn rết, ác quỷ”, sống cao thượng và độ lượng hơn.

Câu 12. Nét mới trong nhận thức về con người của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 qua tác phẩm “Bức tranh” từ con người sử thi có xu hướng lí tưởng hóa trước năm 1975 đến quan niệm con người đạo đức thế sự, biểu hiện:

-Con người tự ý thức, tự nhận thức: Nhân vật họa sĩ nhận ra trong con người có cả tốt, cả xấu, “cả rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ”, không ai tốt hoàn toàn và cũng không ai xấu hoàn toàn.

-Con người tự nhiên, con người tâm linh:

+Nhân vật họa sĩ với những day dứt lương tâm của mình đã sống chân thật cùng với nỗi ân hận. Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật của mình phân thân để đối chứng, kiểm nghiệm lại quá khứ và hiện tại. Nhà văn không tô hồng nhân vật mà để nhân vật sống với những cảm xúc thực của mình, con người như bản thể tự nhiên sinh ra với tất cả những tốt, xấu, bao dung và giả dối. Người họa sĩ và người chiến sĩ được xây dựng trong tư thế đối lập nhau. Một con người thiết tha, bao dung, độ lượng, một con người núp dưới danh vọng của kẻ dối trá, bịp bợm; một người nay có được hạnh phúc bình dị và một người chịu sự trừng phạt của lương tâm. Tất cả đều hợp với quy luật tự nhiên của cuộc sống.

+Thứ “ánh sáng muôn nghìn nến” mà nhờ đó nhân vật họa sĩ nhận ra con người thật của mình trong gương chính là ánh sáng của lương tâm, đạo đức. Nhà văn đã để cho nhân vật họa sĩ được sống với lương tâm.

-Con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh: tác phẩm đặt ra một câu hỏi: con người hành động do quyết định của hoàn cảnh hay ý chí và có chiến thắng được hoàn cảnh hay không? “Không, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh”, câu nói trong cuộc đối thoại giả tưởng giữa người họa sĩ và anh chiến sĩ năm xưa là câu trả lời xác đáng nhất cho câu hỏi trên.

Như vậy, sau năm 1975, trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện hình tượng con người mang trong mình những xung đột nội tâm sâu sắc. Ông kiên trì theo đuổi các giá trị đạo đức, đi sâu vào các ngõ ngách của cuộc sống thường nhật, phát hiện ra con người nhiều chiều, phức tạp. Ông sử dụng thước đo nhân bản để định giá con người, nhận ra cuộc đấu tranh muôn đời giữa cái thiện và cái ác.

2.2.Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản kí

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi ở phía dưới:

          Người bán nước mắm dùng chiếc gáo nhỏ xíu làm bằng sọ quả dừa xiêm dẹt, chỉ lớn hơn thứ gáo của bạn hàng dầu vốn làm bằng sọ quả mù u, lớn hơn một chút thôi. Người hàng mắm vục gáo vào “thõng”, múc lên lưng gáo, rót một tí vào cái chén con sạch sẽ, đưa mời. Cô tôi đón lấy chén, đưa lên mũi, ngửi qua, mắt nhìn ngưng lại giữa khoảng không, ngẫm nghĩ, thẩm định… Xong, một cách thận trọng, cô mới le lưỡi nhấm tí nước mắm. Rồi lặng lẽ trầm tư, cô trao cái chén về phía thím tôi…

Nhưng bà tôi sốt sắng, nóng nảy, đã vội vàng đưa tay vẫy gọi.  Và thím chuyển ngay chén mắm sang bà. Lại ngửi, lại nếm. Sau đó, đến lượt thím tôi: lại ngửi, lại nếm…

Thím phát biểu:

– Khá hơn thứ năm cắc kỳ trước.

Cô tôi tán đồng dè dặt:

– Nhấm qua thì nó dịu hơn, nhưng chị chiếp cho lâu lâu thử coi.

Bà tôi nhận định:

– Nè, mấy đứa thấy sao? Cái màu kỳ này tao không vừa ý, mà mùi vị của nó cũng chưa đằm đâu.

Trong khi người bán hàng xoắn xuýt quanh bà, thì cô tôi thong thả trao đổi một nhận xét với thím:

– Nước kỳ trước, mới nhấp không thấy ngon lắm nhưng thâm thẩm nó ngọt ngọt hoài trên lưỡi: càng chiếp càng ngọt. Nước kỳ này không có hậu. Chị nhớ không: năm ngoái mình cũng gặp phải…

Cuộc thưởng thức phẩm bình kéo dài. Số người được mời tham dự vào mỗi lúc một đông. Chén nước màu hàng được chuyển mời người này người kia: những người khách đàn bà vừa mới đến nhà, và lắm khi cả những người đàn ông trong gia đình nữa. Ồ, góp lời vào cuộc trưng cầu ý kiến về một chuyện có tính cách nghệ thuật rõ rệt như vậy có gì phương hại đến phong cách của hạng mày râu đâu?

(Tràng Thiên – “Ăn uống sự thường” in trong tập tùy bút “Quê hương tôi” – NXB Thời đại, 2014, tr.28-29)

Câu 1. Cuộc thử nước mắm trong đoạn trích được diễn ra như thế nào? Anh/ chị có nhận xét gì về cách thử nước mắm này?

Câu 2. Các nhân vật tham gia vào cuộc thử nước mắm đã bình phẩm về những phương diện nào của nước mắm? Qua đó, anh/ chị cảm nhận gì về những nhân vật ấy?

Câu 3. Việc thử nước mắm trong đoạn trích được tác giả nhìn nhận/ quan niệm thế nào?

Câu 4. Cách miêu tả trong đoạn trích có gì đặc sắc? Tác dụng của cách miêu tả ấy?

Gợi ý

Câu 1. – Cuộc thử nước mắm diễn ra như sau: Người bán lấy gáo nhỏ làm bằng sọ quả dừa xiêm dẹt múc ở “thõng” ra, sau rót một tí vào cái chén sạch sẽ đưa mời. Từng người nhận cái chén nước mắm đó, ngửi, nếm, nhìn rồi đưa cho người khác. Cứ như vậy chén nước mắm được chuyền mời từ người này sang người kia.

– Nhận xét: cuộc thử nước mắm diễn ra công khai, cẩn trọng, tỷ mỉ, kỹ lưỡng, qua sự thẩm định của nhiều người khác nhau. Nó được xem như một sự kiện quan trọng.

Câu 2. – Các phương diện của nước mắm được bình luận, đánh giá: vị, mùi, màu.

– Các nhân vật thử mắm là những người rất tinh tê, nhạy và hiểu sâu sắc, tường tận về các loại mắm ở những cảm nhận nhỏ, tế vi nhất. Họ hiện lên như những nghệ sĩ tài hoa, tài tử.

Câu 3. Các nhân vật quan niệm việc thử nước mắm là một chuyện có tính cách nghệ thuật rõ nét.

Câu 4. – Cách miêu tả trong đoạn trích đặc sắc: tả tỉ mỉ, chi tiết từng sự vật, từng động tác, cử chỉ; sử dụng nghệ thuật trùng điệp.

– Tác dụng: Tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho đoạn trích, cuộc thử nước mắm hiện lên chân thực, cụ thể mà giàu sức gợi, mang tính chất như một nghệ thuật.

  1. Hệ thống bài tập tạo lập văn bản luyện kĩ năng đọc – hiểu

Bài 1: Phân tích giọng điệu trần thuật trong truyện “Trong rừng trúc” của Akutagawa.

Gợi ý

Thế kỉ XX đánh dấu sự trỗi dậy vượt bậc của ý thức cá nhân. Văn học hiện đại với những cái Tôi đầy cá tính đã tuyên thệ một thi pháp mới xa lạ hoàn toàn với thi pháp truyền thống trước đây. Sự lựa chọn hình thức kể chuyện trở thành một vấn đề quan trọng của người sáng tạo cũng như độc giả đương thời. Quan tâm đến hình thức kể chuyện hay lối trần thuật trong những tác phẩm văn xuôi tự sự hiện đại không tránh khỏi việc phải tiếp cận với những khái niệm: vai kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật… như những yếu tố công cụ đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Việc tiếp cận tác phẩm “Trong rừng trúc” của Akatagawa, một trong những đại diện tiêu biểu của văn học hiện đại Nhật Bản cũng đặt ra yêu cầu đó.

Đứng trước một tác phẩm văn học, câu hỏi lớn nhất của độc giả là tác phẩm ấy nói về cái gì, nhà văn qua vấn đề ấy muốn nói gì với chúng ta?Nhưng muốn có được lời giải đáp cho câu hỏi lớn ấy người đọc lại cần giải quyết được những câu hỏi căn bản: câu chuyện ấy được ai kể ra, từ vị trí như thế nào và với một thái độ ra sao? Giọng điệu trần thuật là thái độ, là tình cảm, lập trường của người trần thuật thể hiện qua lời kể. Thái độ tình cảm đó có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng trong kết cấu lời nói, những thành phần chủ yếu lại là thành phần làm khúc xạ những mục tiêu hàm nghĩa và biểu cảm của tác giả, do đó công việc của độc giả là phải tìm ra giọng điệu của tác giả đằng sau đó. Thái độ, tình cảm đạo đức của nhà văn được thể hiện qua cách xưng hô, dùng từ, sắc điệu thẩm mĩ…

Câu chuyện “trong rừng trúc” kể về một vụ án mạng xảy ra trong rừng trúc tưởng chỉ là sự kiện đơn giản nhưng lại hiện lên đầy bất ngờ và bí ẩn qua cách kể chuyện độc đáo của Akutagawa.

Lựa chọn lối viết đa thanh, tác giả đã xây dựng trong tác phẩm của mình hình tượng người kể chuyện ở cả hai ngôi. Xuyên suốt câu chuyện là bóng dáng của một người kể hcuyeenj hàm ẩn ở ngôi thứ ba qua những lời dẫn chuyện với chức năng dẫn dắt sự kiện, dẫn người đọc đi theo trình tự lời nói của các nhân vật.

Người đốn củi, một người dân thường hiếm khi được tham gia vào một công việc trọng đại như thế này ở chốn công đường nên háo hức kể lại một cách tỉ mỉ “thành tích” của mình với ý nhấn mạnh tầm quan trọng. “Thấy được xác chết đó chính là tui đây chớ ai”, giọng điệu tả lại thờ ơ đối với nạn nhân.

Nhà tu hành lại bộc lộ trong giọng điệu của mình nỗi xót xa, ngậm ngùi cho kiếp người trong lời kể của mình: “Tôi đâu có ngờ anh ta rồi ra thân thể như vậy. Qủa thật đời người như sương như điện chớp. Chao ôi, thảm thương đến thế nầy thì còn lời nào mà nói nữa”.

Giong điệu của người sai nha cũng là cái giọng lạnh lùng của một người chỉ biết thi hành công vụ, lại có cái háo hức, vui sướng của kẻ lập được công trước quan lớn: “Quan hỏi cái thằng mà tôi bắt được là ai ạ? Thưa quan lớn, thằng nầy chính thật là tướng cướp khét tiếng Tajomaru đó”.

Trong giọng điệu của bà già thì có nỗi xót xa của một bà mẹ thương con, ngậm ngùi trước số phận của con nhưng cũng không quên nỗi căm tức với tên sát nhân.

Giong điệu của tên cướp thì không đơn giản. Đây chính là dấu hiệu của sự phức điệu trong văn xuôi hiện đại. Có khi ta thấy căm ghét một tên sát nhân ngang ngược, giết người không ghê tay, chỉ biết thỏa mãn dục vọng của bản thân, có lúc lại là giọng nhân nghĩa, triết lí lẽ đời bởi cũng không muốn giết người, có khi lại bắt gặp một giọng điệu thương xót trước người đàn bà mạnh mẽ, giọng cảm phục tài năng của người chồng, lúc lại mỉa mai giễu đời…

Giong điệu của người thiếu phụ cũng không kém phần  phức tạp. Lúc thì đó là nỗi căm giận tên cướp đã làm nhục mình trước mặt chồng, lúc ta lại thấy trong lời kể của người thiếu phụ giọng chua chát của người vợ bị chồng khinh miệt. Trong lời nói của người phụ nữ ấy, có cái mạnh mẽ đến quyết liệt, có cái chung thủy đáng trân trọng của người Nhật Bản và cái day dứt của người vợ đã phải giết chồng mà không tự sát được.

Người đọc lại sẽ tìm thấy chất Samurai rõ nét trong giọng điệu của người chồng khi phải chứng kiến vợ bị làm nhục, danh dự Nhật Bản của anh ta bị xúc phạm, cộng thêm nỗi đau ghen tuông đầy dằn vặt. Bất ngờ hơn nữa là trong tâm thức của nạn nhân lại có cả sự cảm phục đối với tên cướp khi hắn hỏi có muốn giết người vợ không? Những dằn vặt ấy có lẽ đã dẫn đến việc tự sát của người đàn ông này.

Vậy ai là người gây ra vụ án mạng? Không tìm được câu trả lời. Người đốn củi, nhà sư, bà mẹ và người sai nha thực chất chỉ là người chứng kiến, góp thêm những cái nhìn khách quan cho hiện thực được nói tới. Còn ba nhân vật trực tiếp tham gia vào vụ án mạng trong lời kể của mình lại đưa ra đáp án hoàn toàn trái ngược nhau. Ba lời kể ấy thực chất là sự hiện diện của ba cái tôi, cả ba cái tôi ấy đều có thể gây ra án mạng, vụ án vì cái tôi của mình. Tên cướp giết người vì dục vọng, vì mù quáng trước người phụ nữ. Người vợ giết chồng vì nỗi nhục nhã của chính mình. Người chồng tự sát cũng không nằm ngoài lí do danh dự của cá nhân. Đưa những cái tôi đặt cạnh nhau trong thế đối lập như trên, Akutagawa đã khéo léo dựng lên được cả ba cái chết phải chăng vì cái tôi trong họ có thể sẵn sàng giết họ bất cứ lúc nào. Qua những đoạn nội tại trong tác phẩm , nhà văn đã đưa ra được nhiều hơn vấn đề một vụ án mạng. Đó là cách nhìn nhận một vấn đề, về cuộc sống, về con người, về cái chết.

Như vậy, nhiều giọng điệu đã tạo nên tính phức điệu trong tác phẩm. Cái đọng lại cuối cùng trong độc giả bởi thế mà cũng không đơn âm, cũng đa diện như chính cách mà tác giả xây dựng trong tác phẩm. Tác phẩm nhờ thế mà có lẽ còn day dứt nhiều trong đời sống văn học bởi nhà văn giấu mình sâu trong tác phẩm, không chọn cho mình một giọng điệu cố định nào, và cũng hòa vào dòng đối thoại nội tâm trong tác phẩm.

Bài 2: Cảm nhận về hình tượng người nông dân qua nhân vật lão Khúng qua hai tác phẩm “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu.

Gợi ý

Trong không khí dân chủ cởi mở của những ngày đổi mới, Nguyễn Minh Châu chủ trương nói thật và viết thật về những gì xung quanh mình. Ông đề cập nhiều hơn tới con người nội tâm với những xung đột tâm lí giằng xé trong tâm hồn. Nhân vật lão Khúng trong hai tác phẩm “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát” đã thể hiện cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Minh Châu về người nông dân trong thời đại mới sau khi kết thúc chiến tranh. Từ “Khách ở quê ra” đến “Phiên chợ Giát” là sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: từ những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật của đời sống đến những suy ngẫm mang tầm triết lý bao trùm lên vấn đề số phận con người. Người nông dân trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu được “đào xới” tới tầng sâu lịch sử, được miêu tả trong những biến thiên thăng trầm của cuộc sống.

1.Lão Khúng – người nông dân cần cù, vất vả với những phẩm chất tốt đẹp của con người

-Cuộc đời vất vả, nhọc nhằn từm iền biển lên rừng giành nhau từng tấc đất với cỏ lau, đá hộc. “Cả bàn tay lão giống như một tòa rễ cây vừa mới đào từ dưới đất lên”. Đó là bàn tay của một người nông dân, một người lao động thực sự đi khai khẩn đất hoang. Những năm tháng tranh chấp với rừng khiến lão “y như một con bọ hung từ dưới lỗ chui lên, vừa gầy vừa già, vừa đen vừa xấu”. Con người lão là minh chứng cho cả một đời vất vả, lao động. Lão chèo chống gia đình, khai hoang, vỡ đất, bắt mảnh rừng hoang phải làm ra lúa gạo. Trong lời nhận xét của Định – cậu của lão Khúng thì “hắn tranh chấp với rừng từng bước chân, không chỉ trả giá bằng mồ hôi mà cả bằng máu” ( Khách ở quê ra).

-Lão Khúng là một người nông dân nhân hậu

+ “Khách ở quê ra“: Lão giang tay cứu giúp Huệ khi chị bị người yêu bỏ với cái bào thai trong bụng, mặc cho dân làng chê cười. Lão coi thằng Dũng như con đẻ của mình, và có lẽ, trong bằng đấy đứa con, lão yêu nó nhất. Cho dù ban đầu lão cưới Huệ vì niềm hãnh diện có được vợ đẹp, là người thành phố nhưng cái hành động của lão, cùng lời hứa sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện quá khứ với Huệ cũng là đáng trân trọng. Yêu vợ và hết lòng vì những đứa con, kể cả Dũng, Khoan – những đứa không phải con ruột của mình. Lão chăm lo cho chúng từng li, từng tí, ngay cả khi Dũng đã lớn và vào bộ đội. Dũng lên xe rồi mà lão vẫn cố giúi vào tay con mấy đồng bạc làm Dũng vừa giận vừa thương bố. Giận và thương cũng chỉ bởi Dũng thấy bố quá thương mình.

+ “Phiên chợ Giát“: Tình cảm của lão Khúng với Dũng được biểu hiện theo một hướng khác. Tình yêu của lão với con được biểu hiện khi biết tin con mình chết oan khuất trên đất Campuchia. Lão khóc vì thương con và mỗi lần nhớ lại, nỗi đau của lão lại chân thực và chua xót như ngày nào. Không chỉ có tình cảm với những người trong gia đình mà lão Khúng còn rất mực yêu quý bò Khoang – con bò già gắn bó với lão như hình với bóng trong công cuộc khai khẩn đất hoang, làm ra lúa gạo nuôi sống gia đình.

  1. Lão Khúng – khái quát cốt cách, tập quán của người nông dân sản xuất nhỏ được hình thành từ ngàn đời

Lập nghiệp một mình, thích chơi trội, cậy đông con, hám lợi, chịu lép để yên thân, chỉ tin mình, hoài nghi, dè bỉu những cái khác lạ.

Một mình lão Khúng đưa vợ con lên vùng rừng núi để vỡ đất. Với hai bàn tay mình, lão gây dựng cơ nghiệp và rất tự hào về những gì mình đã làm được. Lão biến vợ mình thành cái máy đẻ với quan niệm, đẻ ra nuôi được tất và càng có nhiều con càng nhiều lao động để khai khẩn đất hoang “ở nhà quê mình nhà nào đông con mới có uy thế được”. Trong mối quan hệ với xóm giềng, lão cho rằng “có thêm người là có thên sự ganh ghét nhau”. Lão Khúng là bạn thân của chủ tịch huyện Bời, trước ông chủ tịch, lão là người khôn ngoan và biết che giấu mình. Lão không nỡ làm phật lòng ông chủ tịch đáng kính. Với lão, lão thà nhịn đi một tí còn hơn là làm mất lòng ông chủ tịch. Thế nhưng, là một lão nông lạc hậu, lão rất kiên gan, lì lợm, và lấy làm bất mãn với việc cơ khí hóa nông nghiệp. Lão cho rằng không chỉ lão mà cả gia đình nhà lão đều khó chịu, thế nhưng, vì lợi ích của mình, trước ông chủ tịch Bời, lão vẫn cố tỏ ra lắng nghe như hiểu biết lắm. Bản chất người nông dân tự ngàn đời là thế, họ rất khó chấp nhận những cái khác lạ, nhất là trong thời đại dân chủ hóa mới sử dụng máy móc thay dần cho chân tay con người.

3.Lão Khúng – người nông dân với những trăn trở giằng xé

Là người nông dân cổ sơ, thô mộc, lạc hậu, giản đơn nên lão rất khó chấp nhận những cái mới. Lão có sức mạnh hoang sơ bản năng của người nông dân, nhưng khi sức mạnh của đô thị hóa tràn vào thì lão Khúng thất bại. Lão không chỉ thất bại trên chính mảnh đất lão khai phá được mà còn thất bại ngay trong cả ý thức, trong những mối quan hệ hằng ngày.

-“Khách ở quê ra“: Lão Khúng giật mình, trở nên bơ vơ đến tội nghiệp. Cái điều lão lo sợ nhất đã tới, đó là vùng khai hoang của lão giờ là khu vực thăm dò đất của chính phủ. Bao nhiêu công sức của lão, bao nhiêu cố gắng của lão giờ chẳng còn gì cả. Thằng Dũng – đứa con lão yêu thương như con đẻ rời bỏ lão trở về với người bố đích thực của nó là một con người của công nghiệp – người tổng công trình sư đang sắp về vùng khai hoang của lão để xây dựng một cơ sở khai thác công nghiệp lớn. Lão đã khai khẩn đất hoang, lão đã làm ra lúa gạo để nuôi sống gia đình nhưng giờ đây, dường như vợ con lão cũng không còn cần tới lão nữa, tất cả đều hướng về ánh đèn thành phố với nền văn minh công nghiệp. Lão cảm thấy cô đơn, thấy thất vọng. Cả cuộc đời hi sinh vì người khác nay lại không giữ lại được gì cả, kể cả mảnh đất dưới tay mình khai phá. Liệu rằng lão có hiểu công cuộc đổi mới đất nước? Hay niềm tin của một lão nông cố hữu của lão Khúng, ngay cả khi lão ra thành phố để mua một vài thứ máy móc. Nội tâm của lão cứ miên man, hỗn độn như sự bí ẩn của tâm linh với những giấc mơ, những ảo giác… Biểu tượng chiếc xe cút kít gợi lên sự lạc hậu, trì trệ, một cái gì buồn nản và dai dẳng đến sốt ruột.

– “Phiên chợ Giát” là một chấn thương nhức nhối, một bức tranh với bao cảnh hoang vu, với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu máu, một bức tranh thẩm thấu cả quá khứ và hiện tại, giữa giấc mơ và sự thật. Tất cả nỗi lòng, bi kịch của lão Khúng đều được bộc lộ trong suốt chặng đường đem bò Khoang đi bán, từ nửa đêm cho tới sáng. Truyện ngắn “Phiên chợ Giát” được coi là kiệt tác cuối cùng của Nguyễn Minh Châu, là tác phẩm đạt đến trình độ kết tinh cao nhất quan niệm về con người của nhà văn, đồng thời trình bày những giả thuyết của ông về người nông dân. Lão Khúng là dinh lũy cuối cùng của một sự làm ăn cá thể, một con người đơn giản “ngất ngưởng” với cái “tính khí thẳng ruột ngựa”. Đối với cuộc đại cơ khí hóa nông nghiệp, dù không chống đối ở bên ngoài nhưng thực tâm lão cũng chẳng thích gì, thậm chí còn lấy làm vui vẻ khi bò Khoang húc chủ tịch Bời. Lão muốn làm như thế lắm nhưng lão lại không làm được.

Lão đưa bò Khoang – con bò già gắn bó với lão bấy lâu ra chợ bán mà tâm thức thì sống dậy những chuyện của quá khứ: nhớ lại ngày đầu tiên từ miền biển lên khai khẩn đất hoang, nghĩ về cái chết oan khuất của thằng Dũng trên đất Campuchia, hồi tưởng lại lịch sử ông chủ tịch huyện Bời và cuối cùng là những giấc mơ. Quan hệ lão Khúng – bò Khoang là quan hệ gắn bó tạo nên sức mạnh khai phá, làm nên ruộng vườn và nuôi sống con người. Thế nhưng trong giấc mơ đầu tiên, tiềm thức sức mạnh hoang dã trong con người lão trỗi dậy, lão thấy bò Khoang bị lão đánh đập. Và trong giấc mơ cuối cùng, lão người nông dân cũng có thể trở thành nạn nhân thảm khốc “chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là con bò…”. Giấc mơ dường như là sự nhắc nhớ cho lão về cuộc đời người nông dân nhiều cực nhọc, đắng cay. Ở đây người đọc liên tưởng tới “Biến dạng” của Kafka, “Người nhà hầm” của Đốt. Tuy vậy, cảm giác tội lỗi của lão khi dẫn đàn bò Khoang ra chợ bán lớn hơn bản chất tư hữu trong bản chất nông dân đủ cho lão không tính toán thiệt hơn khi đuổi nó về rừng. Thế nhưng bò Khoang vẫn tìm về với lão. Kết thúc này đặt ra nhiều câu hỏi trong lòng người đọc: sự thất bại của ảo tưởng tự do? cái vòng luẩn quẩn của kiếp người? Sự trì níu của thói quen nô lệ? Hay thân phận con người?

Kết luận: Lão Khúng trong “Khách ở quê ra” và ” Phiên chợ Giát” là một phát hiện mới mẻ đầy thú vị về người nông dân của Nguyễn Minh Châu. Bản chất của người nông dân với tư tưởng tư hữu của họ lần đầu tiên được nhìn nhận một cách công bằng, đầy đủ, tích cực. Với Nguyễn Minh Châu, lão Khúng là một người nông dân quen thuộc, đồng thời lại là một nhân cách xuất sắc với sự tháo vát hiếm có trong lao động và tổ chức gia đình, với tính cách mạnh mẽ giàu tình cảm hết sức thiết thực mà lãng mạn. Lão không chỉ tiêu biểu cho một tầng lớp xã hội mà còn tiêu biểu cho một tụ điểm xã hội, là hiện thân của đất nước, của thiên nhiên còn mang nhiều nét nguyên sơ, hoang dã. Nguyễn Minh Châu bộc lộ niềm tin ở người nông dân “Mặt đất tối thui tối mò, nhưng bằng bản năng và giác quan nông dân, bằng kinh nghiệm và thói quen nhiều đời nông dân, lão Khúng vẫn dò được đường, vẫn lần ra lối để đi trong đêm”.

Bài làm của học sinh

Bài 1: “Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật của Nam Cao là ngòi bút đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao.

Bài làm

Về bút pháp miêu tả tâm lí đặc sắc của Nam Cao cần nhắc đến những tác phẩm viết về người trí thức. Bởi trước hết, nhà văn là người trong cuộc, ông am hiểu sâu sắc đời sống vật chất, tinh thần người trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Với tác phẩm “Đời thừa” nhà văn đã đi vào tìm hiểu những phản ứng tâm lý  của văn sĩ Hộ trước cuộc đời đồng thời phát biểu quan niệm văn chương của mình.

Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao là “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” (Đời thừa) và khi góp mặt vào dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945, bên cạnh những bậc đàn anh (Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…), Nam Cao khai thác hai đề tài chính là : người nông dân và người tri thức tiểu tư sản nghèo. Đặt ra vấn đề “đôi mắt” để nhìn đúng bản chất con người cùng khổ “bị giày xéo, khinh bỉ” (Nguyễn Đăng Mạnh), Nam Cao đã tìm ra trong những nhân vật nhỏ bé bất hạnh lặng thầm dễ bị lãng quên ấy vẻ đẹp tâm hồn và những xung đột nội tâm sâu sắc.

Cốt truyện “Đời thừa” không có gì phức tạp, nó chỉ xoay quanh những xung đột lặng lẽ trong một gia đình tiểu tư sản trí thức nghèo. Hộ – người đam mê văn chương và có hoài bão sự nghiệp vĩ đại đưa tay cứu vớt Từ, hi sinh lẽ sống thứ nhất (sự nghiệp) để nuôi dưỡng lẽ sống thứ hai ( tình thương) nhưng lâm vào bi kịch không lối thoát. Nam Cao nhập thân vào nhân vật của mình ( Hộ) để bộc lộ mơ ước về một tác phẩm giá trị “Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác ra cùng một thời”. Chọn đề tài người trí thức, Nam Cao đã viết về nỗi đau khổ tinh thần. Mơ ước của họ rất đẹp nhưng cũng mòn dần theo những nỗi lo cơm áo cuối cùng nhà văn trở thành “đê tiện” trong chính nghề nghiệp của mình. Nhưng nội dung của “Đời thừa” không phải chỉ có thế.

Hộ trước hết là người say mê văn chương “nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa”, hắn quan tâm nghề văn không phải là thứ “thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào”, với Hộ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có…” hắn mơ ước sẽ sáng tác ra được một tác phẩm được giả Noben, “vượt lên trên mọi bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Ẩn sâu mỗi suy nghĩ, lời nói của Hộ là hình bóng nhà văn say mê bày tỏ, bộc lộ mình. Đó là những quan điểm đúng đắn mới mẻ về một tác phẩm văn chương: phải bộc lộ cá tính sáng tạo người nghệ sĩ, phải tả được chiều sâu của vấn đề, quan trọng hơn là phải có giá trị nhân đạo. Với hoài bão đẹp như thế, Hộ đã làm được những gì?

Ta hãy nghe người trí thức ấy tự dằn vặt, tự khinh bỉ, tự đầy đọa mình” Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn”.

Vây bi kịch của Hộ không phải là không được viết mà ở chỗ Hộ viết ngược lại với lí tưởng sáng tác của mình. Kịch liệt phê phán lối văn tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội nhưng trong thực tế, những tác phẩm mà anh viết – dù có vì lí do gì nữa – cũng chỉ “toàn những cái vô vị, rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”. Một nghệ sĩ chân chính không bao giờ chấp nhận kiểu sáng tác vô trách nhiệm ấy và đặc biệt là Nam Cao. Lời nói của Hộ nhưng tất cả là tư tưởng của tác giả. Truyện ngắn tuy thể hiện rõ nét quan niệm văn chương nhà văn nhưng không hoàn toàn mang tính luận đề, mỗi đau khổ tinh thần của Hộ cứ dần dần tăng cấp bởi giọng văn tâm sự, nhà văn vẫn giữ được khoảng cách nhất định với nhân vật của mình tuy có lúc hai giọng như hòa vào một. Lựa chọn của Hộ khó khăn hơn lựa chọn của Điền ( Trăng sáng). Cái băn khoăn của Hộ không phải là đi theo con đường sáng tác nào: lãng mạn thoát li hay hiện thực nhân đạo. Cái mà Hộ phải chọn là thực hiện bằng được lí tưởng sự nghiệp cao đẹp của mình đồng nghĩa với việc bỏ mặc vợ con hoặc đặt tình thương lên trên hết, sáng tác “vội vàng” để kiếm sống. Và Hộ đã chọn con đường thứ hai. Dẫu sao quyết định đó cũng an ủi anh phần nào vì tuy là “người thừa” trong văn chương, anh vẫn là chỗ dựa vững chắc, là trụ cột trong gia đình vừa mềm vừa yếu ấy. Thế nhưng chính điều này đẩy anh đến với bi kịch thứ hai xót xa hơn nhiều, bi kịch của con người coi tình thương là nguyên tắc, là đạo lý cao nhất nhưng lại vi phạm vào chính nguyên tắc đạo lí thiêng liêng đó của chính mình. Có một điều chắc chắn là Hộ có thể hoàn toàn thoát ra khỏi tình trạng day dứt, vật vã và đi ngược lại quan điểm văn chương nếu anh rũ bỏ gia đình; nhưng anh đã lựa chọn thái độ ứng xử khác hẳn vì tình thương mà buông xuôi. Con người phê phán triết lý “phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ” đã mở rộng vòng tay và tấm lòng đón nhận mẹ con Từ, cuối cùng vì bất đắc chí  tìm đến men rượu rồi hành hạ, làm khổ vợ con.

Với những sai lầm ấy, Hộ tưởng như ngã gục trước hoàn cảnh nhưng anh vẫn cố vươn lên sống nhân đạo. Chủ nghĩa hiện thực, Nam Cao không cho phép nhân vật của mình vứt bỏ lương tâm và tình thương, không cho họ lạc bước. Những giọt nước mắt hối hận chân thành đưa anh trở về với tình người đẹp đẽ. Lời tự vấn “thế hắn đã làm gì để cho Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ”. Những giọt nước mắt thanh lọc tâm hồn, “những giọt châu của loài người” rơi xuống đánh dấu phút thức tỉnh của lương tâm đưa Hộ trở lại với lẽ sống tình thương của chính mình. Như vậy, con người tình thương trong Hộ đã thắng con người ích kỉ. Đối thoại từ đầu tác phẩm giữa Hộ với một “hắn” vô danh nào đó về lẽ sống mà Hộ luôn khẳng định phải đặt tình thương lên trên hết cho đến lúc này và có lẽ sau này nữa anh vẫn kiên định. ( Học sinh Phan Thị Thùy Dương)

Bài 2. Cảm nhận về nhân vật Qùy trong tác phẩm “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”  của Nguyễn Minh Châu.

Bài làm

Nếu như ở Nguyệt trong tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” Nguyễn Minh Châu viết vào những năm tháng chiến tranh ta thấy được vẻ đẹp lãng mạn, lí tưởng, quen thuộc một thời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thì ở Qùy ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), ta lại bắt gặp một tính cách “dị biệt”, gây ấn tượng mạnh, thậm chí ban đầu xuất hiện đã gây ra sự nghi ngờ, khó tin, cho rằng đó không phải là nhân vật có thật ngoài đời.

-Đây là người đàn bà có số phận không bình thường, một hình tượng chính mới lạ, đầy bất ngờ, độc đáo. “Với tính cách riêng của mình, người đàn bà ấy đã đi qua chiến tranh và đi qua cả cuộc đời thường không tiếng súng sau chiến tranh một cách đặc biệt”( Nguyễn Thị Minh Thái).

-Qùy là người có tính cách khó đoán định, khó hiểu, người có cá tính mạnh, có nghị lực, bản lĩnh, ý thức rõ rệt về mình cũng như giá trị của mình, tiết tấu sống nồng nhiệt, mạnh mẽ, được nhà văn so sánh với chuyến tàu  tốc hành nhanh, mạnh, gấp gáp, mãnh liệt.

-Nhà văn dựa trên sự suy ngẫm chín chắn, bút pháp miêu tả tinh tế diễn biến tâm lý nhân vật. Nhà văn đã sử dụng một khối lượng đậm đặc chi tiết để miêu tả.

+Qùy xuất hiện thoạt tiên có gì xa xôi, huyền nhiệm trong một đêm trăng “chỉ thấy một vài mảnh vàng và ánh trăng rót xuống một mái tóc đàn bà buông xõa không thể nào xác định được già hay trẻ nhưng uyển chuyển. Khuôn mặt hơi gầy, không đẹp lắm nhưng theo tôi rất thông minh và đặc biệt, ngoài trẻ con ra, tôi chưa hề gặp một khuôn mặt người lớn nào mà lại cứ luôn luôn thay đổi sắc thái như vậy”, dáng “uyển chuyển đầy quyến rũ của một thân hình phụ nữ có chiều cao thanh mảnh và đặc biệt bao giờ cũng đi đứng rất thẳng”.

+Tình yêu của Qùy cũng rất đặc biệt: tâm trạng cô khi thầm yêu “sinh ra cái tính cầm trên tay cái gì cũng làm đổ, cũng đánh vỡ”, khi chạm mặt người mình yêu thì “mặt lúc nóng bừng như vừa lôi từ trong lửa ra, lúc tái nhợt như vừa vớt dưới nước lên”. Cách tỏ tình của Qùy cũng rất đặc biệt “vừa van lạy như một con nô lệ vừa rút súng K54 ra dọa”. Nhưng cuối cùng, khi được ở bên cạnh người yêu thì chán, thất vọng vì thấy anh cũng như bao người khác “mừng rỡ, hí hửng khi được thăng cấp”, cũng ăn ngủ đi lại chăm một đàn gà rừng, “đánh một quần xà lỏn đi phát rẫy”, cũng “yêu người này, nói xấu người kia”… Sự phức tạp trong suy nghĩ, tính cách của Qùy còn bộc lộ ở điểm cô không chịu nổi người yêu mình lại có mồ hôi tay”. Cô kể ” mỗi lần tôi phải cầm lấy bàn tay anh ấy là lại thấy trên bàn tay mình một cảm giác dấp dính và lạnh. Mỗi lần anh ấy đặt tay lên mái tóc tôi, tôi phải tự nhủ thầm trong lòng rằng đó là bàn tay của anh ấy, người mà mình đang dốc lòng yêu, bàn tay của người mà mình đã thấy không thể thiếu được trong cuộc đời, tuy vậy vẫn không thể xua đuổi hết cảm giác dấp dính trên bờ vai và mái đầu. Rồi dần dần dường như tôi phải chịu đựng cái tật ra mồ hôi tay của anh ấy, biết là anh ấy chả có tội vạ gì”. Người phụ nữ ấy rất nhiều khả năng và cũng nhiều ham hố, luôn khát khao đi tìm cái tuyệt đối, luôn hành động một cách khác thường, để rồi phải dành cả đời mình để sửa chữa những lầm lạc, cực đoan của chính mình.

Hình tượng này – nhiều người đã cho rằng không có thật nhưng cùng với thời gian, người đọc càng khẳng định đây là hình tượng chân thực, đầy sức ám ảnh, và là phát hiện quan trọng của nhà văn về con người. ( Học sinh Nguyễn Thị Minh Thư)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

Có câu chuyện đã kể rằng: Gần 1500 năm trước Lưu Hiệp trong thiên “Tri âm” của “Văn tâm điêu long” nói “con lân, con phượng, con hoẵng, con gà rừng khác hẳn nhau, châu ngọc và đá sỏi hoàn toàn khác nhau, dưới thanh thiên bạch nhật có đôi mắt sáng mà quan sát thì phải nói là khó bề nhầm lẫn; thế nhưng người nước Lỗ nhìn lân ra hoẵng, người nước Sở lại xem gà rừng là phượng hoàng, người nước Ngụy lại coi ngọc dạ quang là hòn đá kì lạ, còn người nước Tống lại xem hòn đá núi Yến là châu báu! Những vật có hình dáng cụ thể dễ nhận đến thế mà còn nhầm lẫn lung tung thì văn chương khó thẩm định rõ ràng, ai dám bảo là dễ cảm nhận đúng thông điệp mà tác giả gửi gắm? Bởi văn bản văn học có nội dung vô tận, đa nghĩa. Vậy làm thế nào để có thể hướng dẫn học sinh tự đọc – hiểu đúng, có căn cứ đầy đủ để mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm? Làm thế nào để học sinh bắt đúng tần số như nhà lí luận văn học người Nga Khorapchenco đã ví tác phẩm như máy thu thanh có nhiều dải tần, người đọc có thể điều chỉnh để tìm tiếng nói, chương trình thích hợp, và chỉ khi điều chỉnh đúng thì mới nghe được, nếu không chỉ có tạp âm.

Đối với học sinh chuyên Văn kĩ năng đọc – hiểu văn bản càng cần thiết và quan trọng. Muốn rèn luyện kĩ năng này đòi hỏi mỗi học sinh trước hết là sự tự học, tự bồi dưỡng kiến thức nền về thể loại, bổ sung thường xuyên những tri thức hiểu biết về các tác phẩm mới của tác giả nổi bật. Sau đó, tỉ mỉ, từng bước, mỗi học sinh trước một tác phẩm mới ngoài chương trình hãy đặt ra hệ thống câu hỏi, các câu có mối liên hệ với nhau trên cơ sở bám sát đặc trưng thể loại, tập trung phát hiện, phân tích các yếu tố chung về thể loại tác phẩm, đặc biệt cần chú ý đến nét riêng, độc đáo của từng tác phẩm. Với cách làm này bước đầu các em đã thực hiện được kĩ năng, năng lực đọc văn đáng trân trọng, mở ra triển vọng cho hướng đi của chuyên đề này.

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Diệp Quang Ban ( 2015), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXBĐHQGHN.
  2. TS. Nguyễn Viết Chữ (2017), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể, NXBĐHSPHN.
  3. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long ( 1998), Lý luận văn học, NXBGD.
  4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, NXBGD.
  5. Nguyễn Thanh Hùng (2017), Kĩ năng đọc – hiểu Văn, NXBĐHSP.
  6. Đỗ Lai Thúy (2014), Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB Thông tin.
  7. Trần Đình Sử (2012), Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, Giáo trình Cao học, môn Đặc trưng văn học, tài liệu cá nhân.
  8. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1997), Lý luận văn học, NXBGD.
  9. Trần Đình Sử, Đọc – hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay, trandinhsu.wordpress.com.

10.Trần Đình Sử, Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn, trandinhsu.wordpress.com

  1. SGK Ngữ văn 10 ( nâng cao), tập 1, 2, NXBGD.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

Trong rừng trúc – Akutagawa Ryunosuke

Người dịch: Phạm Vũ Thịnh

Lời khai của người đốn củi với quan kiểm sát

Đúng đó, thưa quan lớn. Thấy được xác chết đó chính là tui đây chớ ai. Sáng nay tui lên rừng sâu đốn củi như mọi ngày, thì thấy có xác chết trong bụi cây khuất sau núi đó. Quan hỏi ở đâu hả? Thì cách chừng 4, 5 thôi đường[1] từ con đường lớn qua trạm thơ ở Yamashina đó mà. Chỗ đó vắng người, có nhiều cây tuyết tùng[2] nhỏ lẫn trong bụi tre.

Xác chết nằm ngửa, mặc áo bào màu xanh lơ, đầu vẫn còn đội mũ xếp kiểu nhà quan trên kinh đô. Nói là chỉ bị đâm một dao thôi, chớ thiệt ra, vết thương nhằm ngay ngực, cho nên lá tre rụng chung quanh xác chết thấm đầy máu thâm tím. Không, máu đã hết chảy rồi, mà vết thương ngó bộ cũng đã khô rồi, thưa quan lớn. Lại có một con ruồi trâu bám riết trên vết thương, như thể không nghe cả tiếng chân tui bước tới nữa.

Quan hỏi có thấy đao kiếm chi không hả? Không, tui chẳng thấy có đao kiếm chi hết. Chỉ thấy có một đoạn dây rớt ở gốc cây tuyết tùng gần đó. À, ngoài đoạn dây, còn có cái lược nữa. Chung quanh xác chết chỉ có hai vật đó thôi, thưa quan lớn. Nhưng mà, một vùng cỏ và lá tre rụng quanh đó thì bị giẫm đạp tan hoang, nên chắc chắn là anh ta trước khi bị giết chết, cũng đã chống chọi dữ lắm. Còn ngựa hả? Chỗ đó thì ngựa không vô lọt được. Lối cho ngựa chạy thì phải cách đó một cánh rừng mới có.

Lời khai của nhà sư lữ hành với quan kiểm sát

Người chết đó thì quả thật tôi đã gặp hôm qua. À, có lẽ vào khoảng trưa, thưa quan lớn. Chỗ gặp là khoảng đường tôi đang đi từ Sekiyama tới Yamashina đó. Anh ta đi bộ, cùng với người đàn bà cưỡi ngựa, hướng về phía Sekiyama. Người đàn bà đội mũ có phủ khăn che mặt nên tôi không biết mặt mũi ra sao, chỉ thấy cái áo màu tím. Con ngựa màu hung đỏ… À, hình như đã cắt sạch bờm. Quan hỏi ngựa bao lớn à? Con ngựa nầy có lẽ cao hơn ngựa thường đến 4 tấc[3]. Người tu hành nên tôi không rành chuyện đó, thưa quan lớn. Anh ta mang gươm, và có cả cung tên nữa. Đặc biệt, bao đựng tên sơn đen, cắm hơn hai chục mũi tên đánh trận, thì tới bây giờ tôi cũng còn nhớ rõ.

Tôi đâu có ngờ anh ta rồi ra thân thể như vậy. Quả thật là đời người như sương như điện chớp. Chao ôi, thảm thương đến thế nầy thì còn lời nào mà nói nữa.

Lời khai của sai nha[4] với quan kiểm sát

Quan hỏi cái thằng mà tôi bắt được là ai ạ? Thưa quan lớn, thằng nầy chính thật là tướng cướp khét tiếng Tajomaru đó. Quả thật là tôi đã tóm được lúc hắn đã ngã ngựa, đang rên hừ hừ trên cầu đá ở Awadaguchi. Quan hỏi vào giờ nào ạ? Khoảng canh đầu đêm hôm qua đó, thưa quan lớn.

Lần tôi bắt hụt hắn trước đây, hắn cũng mặc áo bào màu xanh đậm, mang gươm dài như vậy. Lần nầy, như quan lớn thấy đó, lại mang thêm cung tên nữa. Dạ, quan dạy là người chết đã mang cung tên đó? Vậy thì giết chết người đàn ông đó chính là tên Tajomaru nầy rồi, chẳng sai chạy vào đâu được nữa. Cây cung bọc da, bao đựng tên sơn đen, tên đánh trận đuôi lông ó 17 cây, tất cả các thứ nầy hẳn là của người bị hắn giết rồi. Ngựa thì đúng như quan phán, là ngựa màu hung đỏ, cắt hết bờm.

Tên cướp nầy mà bị con vật đó hất ngã xuống thì hẳn là tiền duyên nghiệp báo chi đây. Con ngựa lúc đó vẫn còn kéo theo dây cương dài, đứng gặm cỏ bên đường, một đoạn phía trước cầu đá.

Trong đám mấy tên cướp hay lai vãng chốn kinh kỳ, thằng Tajomaru nầy nổi tiếng là háo sắc. Năm ngoái đây, trên núi phía sau chùa Toribedera thờ La Hán Binzuru, có một bà đi lễ chùa đã bị giết chết cùng với đứa con gái nhỏ, nghe đâu là thủ đoạn của thằng nầy.

Nếu đúng thật là tên nầy đã giết người đàn ông đó, thì người đàn bà cỡi con ngựa hung đỏ đã đi đâu, ra sao rồi, thật không còn biết nói sao nữa. Sợ quan mắng cho là dám nói leo, nhưng xin quan lớn xét cả việc ấy cho.

Lời khai của bà già với quan kiểm sát

Dạ phải, người chết đó là người đã cưới con gái của già nầy. Nhưng cậu ta không phải là người chốn kinh kỳ, mà là võ sĩ nhà Kokufu ở xứ Wakasa. Tên cậu ta là Takehiro dòng Kanazawa, 26 tuổi. Dạ không, cậu ta tính tình hiền lành, đâu có gây thù oán chi với ai.

Còn con gái tôi à? Con gái của già tên là Masago, 19 tuổi. Tuy tính tình có cứng cỏi không thua đàn ông con trai, nhưng mà ngoài cậu Takehiro ra, nó chưa hề biết tới đàn ông nào khác. Khuôn mặt nhỏ trái xoan, nước da bánh mật, đuôi mắt bên trái có một nốt ruồi đen.

Hôm qua, cậu Takehiro đã cùng con gái tôi lên đường đi Wakasa. Nhân quả chi mà ác đức đến ra nông nỗi nầy. Rể tôi phần số như vậy đã đành, nhưng con gái tôi ra sao thì già nầy lo lắng không sao ở yên được. Lạy quan lớn xét cho lời van xin cuối đời của người già cả nầy, mà cho dù phải vạch từng lá cỏ, kiểm từng gốc cây, cũng xin tìm cho ra con gái của già.

Dù gì đi nữa, già cũng căm hận tên cướp mà quan nói là Tajomaru gì đó. Đã giết chết con rể tôi, mà cả con gái của tôi cũng … (sau đó khóc ròng, không nói gì được nữa).

Lời thú của Tajomaru

Giết chết người đàn ông đó chính là tui đây. Nhưng tui không giết người đàn bà. Vậy thì cô ta đi đâu? Cái đó thì tui cũng không biết. Mà khoan đã, có tra tấn bao nhiêu đi nữa, chuyện tui không biết thì làm sao mà nói gì được chớ. Hơn nữa, đã tới nước nầy thì tui cũng quyết không giấu giếm hèn nhát đâu.

Hôm qua, khoảng sau trưa một chút, tui đã gặp hai vợ chồng đó. Đúng lúc gió thổi lật cái khăn che mặt trước mũ của cô đó lên, tui thoáng thấy được khuôn mặt cô ta. Mà chỉ một thoáng thôi. Tui vừa tưởng là thấy được mặt cô ta, thì đã không còn thấy nữa. Một phần có lẽ cũng vì chỉ thấy lướt qua nên tui thấy khuôn mặt cô đó giống như khuôn mặt nữ-bồ-tát. Chỉ trong chớp nhoáng đó, tui đã quyết sẽ chiếm đoạt cô ta, dù có phải giết người chồng đi nữa.

Ôi, có gì đâu. Giết người có phải là chuyện gì ghê gớm như các người nghĩ đâu. Thế nào cũng phải chiếm đoạt đàn bà, thì phải giết đàn ông đi thôi. Chỉ khác là tui giết người thì dùng đao kiếm, còn các người thì thay vì đao kiếm, lại dùng quyền lực, tiền bạc, hay có khi chỉ cần lời nói xảo quyệt là đủ để giết người ta rồi. Giết kiểu đó thì máu chẳng đổ, mà đàn ông đó vẫn thấy như còn sống đàng hoàng. Nhưng chung quy cũng là giết người đó thôi. Giết người kiểu nào đáng kết tội nặng, các người đáng tội nặng, hay tui đáng tội nặng, thật khó mà phán quyết được (mỉm cười mai mỉa).

Nhưng mà, tất nhiên nếu không cần giết đàn ông mà vẫn chiếm đoạt được đàn bà thì tốt hơn. Quả thật, lúc đó lòng tui đã nghĩ là nếu được thì chiếm đoạt người đàn bà mà tránh giết người đàn ông. Nhưng khổ là ngay trên đường lớn qua trạm thơ ở Yamashina thì không cách nào làm được việc đó. Cho nên tui đã phải dàn xếp để dụ hai vợ chồng đó vô sâu trong núi.

Chuyện nầy cũng chẳng khó khăn chi. Tui giả bộ đi cùng đường với họ, rồi đặt chuyện rằng trong núi phía trước có phần mộ cổ, tui đào lên thấy có vô số gương và kiếm, nên đã dời đi, chôn ở một bụi rậm khuất sau núi để không ai tìm thấy được, nếu có ai muốn mua thì tui sẽ để lại với giá rẻ. Người đàn ông nghe tui nói, dần dần cũng động lòng ham. Thấy chưa, lòng ham muốn là thứ đáng sợ như thế nào. Vậy là, không đầy nửa khắc sau, vợ chồng họ đã theo tui, rẽ ngựa vào rừng.

Tới chỗ ngay trước bụi rậm, tui nói là kho tàng chôn ở trong đó, gọi họ tới xem. Anh chồng trong lòng đã ham muốn quá rồi, chẳng có gì phải phản đối. Nhưng cô vợ thì không chịu xuống ngựa, nói là muốn ngồi đợi ở đó. Mà nhìn thấy bụi rậm cây cối um tùm kiểu đó thì cô ta nói như vậy cũng là chuyện đúng thôi. Tui thì thật tình lúc đó đã chắc mẫm là thú săn lọt bẫy rồi, chạy đâu cho thoát, nên cứ để mặc cô ta ở đó, chỉ đưa anh chồng vô sâu trong bụi rậm.

Lúc đầu thì chỉ toàn là bụi tre dày. Nhưng đi chừng nửa thôi đường thì tới chỗ thấy phía trước có đám cây tuyết tùng, có phần thưa hơn. Không còn chỗ nào tốt hơn chỗ đó, cho tui ra tay. Tui vừa rẽ bụi rậm bước tới, vừa kiếm lời lọt tai mà nói gạt rằng kho tàng chôn ở dưới đám cây tuyết-tùng đó. Anh chồng nghe tui nói, hăm hở rẽ bụi rậm tiến về phía đám cây đó. Một hồi thì tới chỗ chỉ có ít tre, có vài cây tuyết tùng mọc thành hàng.

Vừa tới chỗ đó, tui thình lình nhào tới vật anh ta xuống. Là một tay dùng đao kiếm, anh ta quả là có sức mạnh lắm chớ, nhưng bị đánh thình lình nên không làm gì được, tức thì bị trói chặt vô một gốc cây tuyết tùng. Quan hỏi dây trói à? Dây đó là thứ đồ tiện lợi cho kẻ cướp, phòng khi cần có để vượt qua rào tường, nên lúc nào tui cũng cột sẵn ở thắt lưng. Tất nhiên là để anh ta khỏi la lên, chỉ cần tọng đám lá tre khô vô miệng là khỏi phải lo lắng chi nữa.

Lo xong phần anh chồng, tui quay trở lại chỗ cô vợ, nói là anh ta có vẻ phát bệnh thình lình, biểu vợ tới coi sóc cho.

Chắc khỏi cần nói là chuyện này cũng song suốt như ý tui. Cô ta vất mũ, mặc cho tui nắm tay, tất tả bước sâu vô bụi rậm. Nhưng, tới nơi lại thấy chồng mình bị trói vô gốc cây tuyết tùng. Vừa thấy vậy, không biết đã lấy từ trong túi ra từ lúc nào mà cô ta đã tức thì rút lưỡi dao ngắn ra, sáng loáng trên tay. Cho tới bây giờ, tui chưa hề thấy một người đàn bà nào cường ngạnh như cô này.

Lúc đó, tui mà dễ ngươi một chút là đã bị đâm một nhát lủng hông rồi. Tui tràng người né tránh được, nhưng cô ta cứ đâm chém túi bụi nên tui mà có bị thương tích cũng chẳng có chi lạ. Nhưng mà, tui đây, đường đường là Tajomaru, cho nên không đến nỗi phải dùng tới đao kiếm, cuối cùng rồi cũng đánh rớt được con dao. Tính khí cương cường đến đâu đi nữa mà trong tay không có vũ khí thì cũng phải chịu phép thôi. Vậy là đúng như ý định, cuối cùng tui đã chiếm đoạt được người đàn bà mà không cần phải giết người đàn ông.

Khỏi phải giết người đàn ông. Đúng đó. Tui đâu có ý định giết anh ta làm chi nữa. Nhưng, lúc tui định rời thoát khỏi bụi rậm đó, bỏ lại cô ta đang nằm khóc lóc, thì thình lình, cô ta nắm cánh tay tui, rồi như điên cuồng, cứ ôm chặt lấy tui. Mà nghe những lời thổn thức đứt quãng đó thì ra là cô ta nói : hoặc là chồng cô ta phải chết, hoặc là tui phải chết, một trong hai người phải chết đi, chớ cô ta đã làm chuyện nhục nhã đó trước mắt cả hai người đàn ông, thì đau khổ còn hơn chết nữa.

Ai cũng được, người nào sống sót thì cô ta sẽ đi theo mà cung phụng người đó. Cô ta năn nỉ thảm thiết vậy đó. Riết rồi tui cũng phát khởi ý muốn giết chết anh chồng đi. (có vẻ xúc động buồn rầu).

Chuyện này nói ra như vậy, chắc là người ta thấy tui tàn nhẫn hơn các người. Nhưng các người đâu có nhìn thấy vẻ mặt cô ta. Nhất là trong thoáng chớp đó, đôi mắt cô ta bốc lửa như thế nào. Lúc đó, nhìn đôi mắt cô ta, tui đã nghĩ là cho dù có bị sấm sét đánh chết đi nữa, cũng phải lấy cô ta làm vợ mới thoả lòng. Phải, lấy cô ta làm vợ, trong lòng tui lúc đó chỉ có một ý nguyện đó mà thôi. Điều đó không phải như các người nghĩ là chuyện sắc dục bỉ ổi đâu. Lúc đó, nếu thật chỉ chuyên niệm chuyện sắc dục mà thôi, thì dù có phải đạp ngã cô ta, tui cũng đã bỏ đi rồi. Mà như vậy thì người chồng cũng khỏi phải đổ máu dưới lưỡi gươm của tui. Nhưng mà, trong bụi rậm mờ tối, trong thoáng chớp khi tui nhìn đăm đăm khuôn mặt cô ta, tui hiểu rằng nếu không giết chết anh chồng thì không thể rời chỗ đó mà đi được.

Nhưng có giết anh ta đi nữa, tui cũng không muốn giết bằng thủ đoạn đê hèn. Tui cởi trói cho anh ta, rồi biểu anh ta tuốt gươm ra. (Dây trói cởi bỏ lúc đó, sau này còn sót lại bên gốc cây tuyết tùng). Sắc mặt giận dữ, anh ta mới tuốt cây gươm to bản ra, không nói một lời, tức thì hầm hầm bay tới chém tui.

Trận đấu gươm đó cuối cùng ra sao thì khỏi nói các người cũng đã rõ. Tới thế thứ 23 thì lưỡi gươm của tui đã xuyên thấu ngực kẻ địch. Thế thứ 23 đó, xin các người nhớ cho. Điều này, cho tới bây giờ tui vẫn còn nể phục. Đấu gươm với tui mà đỡ được hơn 20 thế thì khắp thiên hạ chỉ có một mình anh ta mà thôi. (mỉm cười khoái trá).

Anh ta vừa ngã xuống, thì tui hạ mũi gươm nhuộm máu, quay lại nhìn cô vợ. Thì, các người nghĩ coi, cô ta chẳng còn ở đó nữa. Tui cố tìm kiếm trong mấy đám cây tuyết-tùng coi cô ta trốn đi đâu. Nhưng trên đám lá tre khô chẳng còn gì là dấu vết của cô ta cả. Có lắng tai nghe cũng chỉ nghe tiếng hấp hối trong cổ họng người chồng mà thôi.

Theo chuyện mà đoán thì ngay khi tui chém nhát gươm đầu, có lẽ cô ta đã luồn qua bụi rậm, trốn đi để kêu người tới cứu rồi. Nghĩ vậy nên đến phiên tính mạng mình bị nguy, tui bèn đoạt lấy gươm dài và cung tên, lập tức chạy trốn về phía đường rừng đã vô lúc trước. Ở đó vẫn còn con ngựa của cô ta đang yên lặng gặm cỏ.

Chuyện từ đó về sau thì chẳng cần phải nói ra làm chi nữa. Có điều, trước khi vô kinh đô, chỉ có thanh gươm thì tui đã vất đi rồi. Lời cung khai của tui chỉ có chừng đó. Đàng nào thì cũng một lần, côn trượng hay bêu đầu treo cổ, thôi thì xin chịu nhục hình cho rồi. (tỏ thái độ ngạo mạn).

Lời sám hối của người đàn bà đến chùa Shimizu

Tên đàn ông mặc áo bào màu xanh đậm đó, sau khi đã dày vò tôi xong, hắn nhìn chồng tôi mà cười chế diễu. Chồng tôi khổ tâm biết là dường nào. Nhưng dù cho chồng tôi có vặn vẹo bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ làm cho các vòng dây trói khắp trên thân người càng siết chặt vào thêm mà thôi. Tội nghiệp quá, bất giác tôi lăn về phía chồng tôi.

Không, tôi mới định lăn lại thì ngay lúc đó tên cướp đã đạp tôi ngã chúi tới chỗ chồng tôi. Rồi trong thoáng chốc nhìn thấy tia sáng không sao diễn tả được loé lên trong mắt chồng tôi, tôi hiểu ra được điều gì chứa đựng trong ánh mắt ấy. Ánh mắt không lời nào diễn tả được. Cho đến bây giờ, nhớ lại ánh mắt ấy, tôi còn không khỏi rùng mình.

Dù miệng không nói ra được lời nào, nhưng trong khoảnh khắc ấy, chồng tôi đã truyền đạt được tất cả tâm tình anh ấy. Nhưng chiếu toả ra từ ánh mắt ấy không phải là cơn giận dữ, mà cũng không phải là nỗi buồn rầu. Mà chỉ là tia sáng lạnh lẽo của lòng khinh miệt đối với tôi. Hơn cả nỗi đau đã bị tên cướp kia đạp đá, tôi đã bị ánh mắt ấy tống mạnh vào tâm thần, bất giác thét lên lời gì không rõ, rồi ngã xuống bất tỉnh.

Đến lúc tỉnh lại được thì tên đàn ông mặc áo bào màu xanh đậm đó đã đi đâu mất. Chỉ còn lại chồng tôi bị trói ở gốc cây tuyết tùng. Tôi gượng ngồi dậy được trên đám lá tre khô, nhìn chăm chú vẻ mặt của chồng tôi. Nhưng ánh mắt của chồng tôi vẫn không thay đổi chút nào. Cũng vẫn biểu lộ một màu thù ghét từ dưới đáy lạnh băng của lòng khinh miệt. Hổ thẹn, đau buồn, tức giận, … tôi không còn biết lòng tôi lúc ấy là như thế nào nữa. Tôi lảo đảo đứng lên, lết lại gần chồng tôi :

– “Thưa anh. Đã đến nông nỗi này thì em không còn có thể cùng sống với anh được nữa. Em chỉ muốn chết ngay cho rồi. Nhưng mà, xin anh cũng chết đi. Bởi anh đã chứng kiến nỗi ô nhục của em. Em không thể nào để mặc anh sống như thế này được”.

Tôi gượng hết sức mình để tỏ bày điều ấy. Thế mà chồng tôi vẫn chỉ nhìn tôi trừng trừng kinh tởm. Tôi gắng dằn lòng mình đang muốn xé toang ra, vừa tìm kiếm thanh gươm của chồng tôi. Nhưng có lẽ tên cướp kia đã đoạt lấy mất rồi. Thanh gươm đã đành, mà cung tên nữa, cũng không còn thấy đâu trong bụi rậm ấy. Nhưng may thay, lưỡi dao ngắn thì còn rớt lại dưới chân tôi. Tôi giương con dao ấy lên, nói với chồng tôi một lần nữa :

– “Thôi thì xin anh giao mạng cho em. Rồi em cũng xin chết theo anh”.

Nghe thế, chồng tôi mới mấp máy môi. Tất nhiên là vì miệng ngậm đầy lá tre khô, nên tiếng nói không sao nghe được. Nhưng nhìn đôi môi mấp máy, tôi cũng hiểu ngay lời anh nói. Chồng tôi cũng vẫn khinh miệt tôi, chỉ nói một lời : -“Giết ta đi”. Tôi, như hoàn toàn trong mộng dữ, đã đâm phập một nhát dao xuyên thấu ngực chồng tôi, qua lớp áo bào màu xanh lơ ấy.

Và rồi, có lẽ tôi đã bất tỉnh một lần nữa. Hồi lâu sau, khi tỉnh lại nhìn quanh, thì chồng tôi, vẫn còn bị trói như cũ, đã tắt thở từ lâu rồi. Ánh nắng chiều xuyên qua kẽ lá tuyết tùng lẫn trong đám lá tre, rọi lên khuôn mặt người chết tái xanh. Tôi cố nén tiếng khóc, lần mở dây trói tử thi mà vất đi. Rồi, còn thân tôi thì ra thế nào? Tôi chẳng còn sức nào mà nói nữa. Chỉ biết là, tôi không có đủ nghị lực để chết đi.

Tôi đã kề dao lên cổ, đã gieo mình xuống hồ nước bên triền núi, đã thử chết nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng không chết được, mà còn sống sót như thế này, thì có gì để tự hào đâu. (mỉm cười buồn bã). Một kẻ hèn nhát như tôi, có lẽ đến Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chẳng muốn đoái hoài cho nữa. Nhưng là kẻ đành phải giết chồng, là kẻ đã bị tên cướp kia dày vò nhục nhã, tôi biết làm thế nào được chứ? Trời ơi, tôi phải làm thế nào bây giờ? (thình lình nức nở thảm thiết).

Lời kể lể của người chết qua miệng người ngồi đồng

Tên cướp dày vò vợ ta xong còn ngồi đó mà an ủi vợ ta đủ điều. Tất nhiên, ta không thể thốt ra được lời nào. Thân thể lại bị trói vào gốc cây tuyết tùng. Nhưng ta đã đưa mắt ra hiệu cho vợ nhiều lần. Đừng tin những gì tên cướp nói, cứ nghĩ tất cả những điều hắn nói đều là láo toét cả. Ta muốn truyền đạt như thế.

Thế nhưng, vợ ta cứ ngồi trên đám lá tre khô, buồn rầu nhìn xuống đầu gối. Ta thấy có vẻ cô ấy đang lắng tai nghe tên cướp nói. Ta rung động cả người vì ghen. Nhưng tên cướp đã khéo léo kiếm lời nói này nói nọ. Những là, đã thất tiết với người khác một lần rồi thì không thể nào còn sống chung êm đẹp với chồng nữa. Đi theo người chồng như thế, chi bằng theo làm vợ hắn còn hơn. Chính vì hắn đem lòng yêu thương cô, nên mới làm chuyện táo tợn như thế. Tên cướp ấy thật là lớn mật, dám đặt điều đến cả chuyện như thế.

Vậy mà nghe tên cướp nói, vợ ta lại ngước khuôn mặt đờ đẫn lên. Ta chưa bao giờ thấy vợ mình đẹp đến như lúc ấy. Nhưng, người vợ tuyệt đẹp ấy, ngay trước mặt chồng là ta đây đang bị trói chặt, đã nói gì với tên cướp? Ta, dù lúc này đang thất thểu chờ dịp đầu thai, mà mỗi lần nhớ đến lời nói của cô ta, lại không thể không bốc lên lửa hận. Vợ ta quả thật đã nói như thế này : – “Vậy thì, xin ông cứ cho tôi theo, bất cứ nơi đâu”. (im lặng một hồi lâu).

Tội của vợ ta không phải chỉ có thế. Nếu chỉ có thế thì trong cõi tối tăm này, ta đâu đến nỗi đau khổ như thế này. Vợ ta, như trong cơn mộng mị, đã để cho tên cướp nắm tay dắt đi, dợm bước ra khỏi bụi rậm ấy, đột nhiên, mặt mày tái nhợt, chỉ tay vào ta đang bị trói vào gốc cây tuyết tùng mà nói :

– “Giết chết người đó đi. Người đó mà còn sống thì tôi không thể nào đi theo ông được”.

Vợ ta như điên cuồng, đã thét lên nhiều lần : – “Giết chết người đó đi”. Lời thét ấy như trận cuồng phong, cho đến bây giờ vẫn còn chực cuốn ngược đầu ta xuống đáy vực sâu tăm tối. Lời nói đốn mạt đến như thế mà có thể lọt ra từ miệng con người được sao, dù chỉ một lần đi nữa? Lời nói quỷ ám đến như thế mà có thể chạm tai con người được sao, dù chỉ một lần đi nữa? (thình lình phì cười như chế diễu).

Nghe lời nói ấy, chính tên cướp kia, mặt mày cũng tái mét. – “Giết chết người đó đi”.

Vợ ta vừa thét lên vừa nắm kéo cánh tay tên cướp. Hắn nhìn vợ ta đăm đăm, chẳng trả lời được là giết hay không giết. Rồi đột nhiên, vợ ta ngã xuống đám lá tre khô; chỉ một đạp, tên cướp đã đạp ngã cô ta xuống đấy. (lại phì cười như chế diễu một lần nữa). Tên cướp khoan thai khoanh tay, nhìn về phiá ta mà nói :

– “Ngươi định làm gì con đàn bà này? Chỉ cần gật đầu trả lời. Nào, giết nhé?”

Chỉ cần một câu nói này thôi, ta đã muốn tha tội cho tên cướp ấy rồi. (lại im lặng hồi lâu).

Vợ ta, trong lúc ta đang do dự, đã thét lên một tiếng rồi lập tức vùng chạy vào sâu trong bụi rậm. Tên cướp cũng nhanh nhẹn phóng tới chụp lại, nhưng không kịp nắm được dù là một chéo áo. Ta chỉ nhìn khung cảnh ấy như trong cơn mơ.

Sau khi vợ ta đã chạy trốn mất, tên cướp thu nhặt thanh gươm và cung tên, xong cắt một chỗ dây trói trên mình ta. – “Đến phiên tao phải lo lấy thân đây”.

Ta nhớ tên cướp đã lẩm bẩm như thế trước khi chạy ra khỏi bụi rậm, mất dạng. Sau đó, bốn bề chung quanh đều im vắng. À không, còn có tiếng ai khóc. Ta vừa tự cởi trói, vừa lắng tai nghe ngóng. Nhưng mà, tiếng khóc đó, nghĩ lại, chẳng qua là tiếng khóc của chính mình đó thôi. (lại im lặng hồi lâu, lần thứ ba).

Cuối cùng, ta đã nhấc thân mình mệt đến kiệt sức lên từ gốc cây tuyết tùng. Trước mặt ta là con dao ngắn vợ ta đã làm rớt lại, loé sáng. Ta nhặt con dao đó lên, đâm một nhát vào ngực mình. Có gì như một khối tanh tưởi cuộn dâng lên trong miệng. Nhưng, chẳng nghe đau đớn gì. Chỉ khi ngực ta lạnh băng đi rồi thì chung quanh như càng lặng im thêm một bậc nữa.

Ôi, sao mà tĩnh mịch đến như thế. Khoảng trời trong bụi rậm khuất sau núi này, đến một cánh chim nhỏ cũng không thấy. Chỉ thấy ánh nắng chiều phiêu lãng buồn rầu trên những thân tre và tuyết tùng. Mà ánh nắng chiều cũng dần dần nhợt nhạt đi, rồi tuyết tùng và tre cũng không còn thấy nữa. Rồi ta ngã xuống đó, bao phủ trong tĩnh mịch sâu thẳm.

Lúc ấy, có tiếng chân ai rón rén đến bên ta. Ta cố nhìn về phía ấy. Nhưng chung quanh ta, bóng tối mịt mùng bao phủ. Ai đó … bàn tay không thấy được của ai đó đã nhè nhẹ rút lưỡi dao ra khỏi ngực ta. Cùng lúc ấy, trong miệng ta, dòng máu lại trào lên, dâng đầy tràn một lần nữa. Từ đó, ta vĩnh viễn chìm mất vào tăm tối hư vô.

Phạm Vũ Thịnh dịch từ nguyên tác tiếng Nhật Yabu No Naka

(1) Chô : khoảng 119 yards, chừng 100 m, xin dịch là “thôi đường”. 5 chô khoảng 500 m.

(2) Sugi : cedar, cây tuyết tùng. Tự điển Hán Việt Thiều Chửu ghi là “cây sam”.

(3) Ki : (thốn) khoảng 3 cm, xin dịch là “tấc”. Ngựa thường chừng 4 shaku (1 shaku – thước : 30.3 cm), tính ra thân con ngựa này cao chừng 1m3 – 1m4.

(4) Hômen (Trong bản dịch là “sai nha”) : người phạm tội nhẹ, được tha, cho theo quan kiểm sát để đi bắt tội phạm.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *