Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 7

Tài liệu Văn

 

 CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO

DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

 

Rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn

 

MỤC LỤC

  1. MỞ ĐẦU.. 3
  2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
  3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA CHUYÊN ĐỀ. 5

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.. 5

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.. 5

1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 5

  1. Phương pháp phân tích, tổng hợp. 6
  2. Phương pháp thực nghiệm. 6
  3. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI 6
  4. NỘI DUNG.. 7

CHƯƠNG 1:ĐỌC HIỂU VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỌC HIỂU.. 7

TRONG DẠY HỌC  NGỮ VĂN.. 7

1.1. Giới thuyết về khái niệm Đọc – hiểu. 7

1.2. Các cấp độ của Đọc – hiểu. 9

1.3. Đọc – hiểu trong dạy – học Ngữ Văn. 13

CHƯƠNG 2:ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC

NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH TRONG DẠYHỌC NGỮ VĂN.. 17

2.1 Ý nghĩa của dạy học đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình sách giáo khoa  17

2.2 Định hướng đọc hiểu một số tác phẩm ngoài chương trình. 18

2.3 Phương pháp đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình. 35

CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG RÈN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN.. 40

3.1.Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Mùa xuân chín–Hàn Mặc Tử. 40

3.2.Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Thu ca 1 – C.Baudelaire. 46

3.3. Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Đôi mắt – Nam Cao. 57

  1. KẾT LUẬN.. 68
  2. TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 70
  3. MỞ ĐẦU
  4. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.Đã từ lâu, đọc trở thành một văn hóa. Đọc không chỉ mở mang kiến thức mà còn giúp con người hoàn thiện bản thân. Bên cạnh những kiến thức sâu rộng và bổ ích, đọc sách giúp ta bổ sung những kiến thức mà ta chưa biết, chưa khám phá, giúp ta lấp đầy những lỗ hổng kiến thức, làm giàu thêm những gì ta đã biết. Giữa xã hội hiện đại với sự phát triển không ngừng của nhiều ngành giải trí, đọc cũng là cách để giải trí, thư giãn và làm giàu cho mảnh đất tâm hồn. Những cuốn sách hay, những mẩu chuyện thú vị về con người, cuộc đời và những vùng đất… đưa chúng ta bước vào một thế giới khác, tạm quên đi những vướng bận lo toan đời thường. Nếu cuộc sống xô bồ cuốn con người vào những thú vui vô ích, những trò chơi mới lạ nguy hiểm thì đọc sách là một thú vui lành mạnh; đặc biệt với học sinh Văn, đọc có vai trò quan trọng hàng đầu giúp cải thiện kĩ năng viết và hình thành ý tưởng, làm cho bài văn phong phú và đa dạng về dung lượng kiến thức.

  1. Bộ môn ngữ văn không chỉ có đọc hiểu văn bản mà còn kỹ năng làm văn, kiến thức lý luận, kiến thức văn học sử cũng như kiến thức bổ trợ khác, nhưng đọc văn vẫn là khâu quan trọng nhất, gắn liền với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, thẩm văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm. Đôi khi, cách dạy “giảng văn” mà chúng ta áp dụng từ xưa đến nay vốn đã đi ngược lại bản chất của văn chương, đi ngược lại nguyên tắc dạy học, cách ly học sinh – người đọc khỏi tác phẩm, làm cho học sinh không có dịp trực tiếp đối diện với văn bản, do đó không có thói quen tự mình khám phá văn bản và đánh mất luôn năng lực tự học. Đọc hiểu là cách trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Việc đề cao hoạt động đọc hiểu trong dạy học văn vừa trả văn học về đúng giá trị của nó, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn – nâng cao năng lực, phát triển năng lực của chủ thể của học sinh.Điều này càng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong thời đại ngày nay, khi sự giao lưu văn hóa quốc tế được gia tăng, khi điều kiện tiếp xúc các nguồn văn bản được mở rộng hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, trình độ văn hóa được đánh giá bằng năng lực nắm bắt, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. Hơn nữa, ngày nay các phương tiện nghe nhìn đã cạnh tranh quyết liệt với thời gian đọc, thu hẹp với thời gian đọc của mọi người nên việc định hướng đọc hiểu văn bản cho học sinh lại càng đóng một vai trò quan trọng trong việc dạy và học môn Ngữ Văn.
  2. Đọc hiểu văn bản không phải là vấn đề xa lạ đối với giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học môn Ngữ Văn từ xưa đến nay, nhưng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình phổ thông đối với học sinh trường chuyên thực sự chưa được phổ biến. Là học sinh chuyên Văn, các em sở hữu một tư duy sắc sảo, tâm hồn nhiều xúc cảm và trực quan nhạy bén, đặc biệt là sức đọc dồi dào, các tác phẩm mới lạ ngoài chương trình sẽ phát huy tối đa năng lực ấy của các em. Tuy chương trình Ngữ Văn nâng cao, số lượng tác phẩm nhiều hơn so với chương trình đại trà, nhưng vẫn chưa đủ phong phú và đa dạng so với sự vận động và phát triển nhanh chóng của đời sống văn học Việt Nam và thế giới. Mỗi học sinh là một đại diện cho thế hệ độc giả hôm nay, các em đến với đứa con tinh thần của nhà văn bằng thế giới quan, nhân sinh quan và trải nghiệm đầy mới mẻ mà lớp độc giả trước đó không có. Các em sẽ đọc và hiểu các tác phẩm ngoài chương trình (dù là tác phẩm cũ hay mới, trung đại, hiện đại hay đương đại,trong nước hay nước ngoài) đều sẽ bằng một cái nhìn và sự khám phá riêng. Vậy thì tại sao chúng ta lại quy định cái nhìn của các em bằng việc định hướng một chiều về cách hiểu với các tác phẩm văn học trong sách giáo khoa? Đời sống văn học là vô hạn, những tác phẩm được trích vào giảng dạy trong chương trình phổ thông chỉ là một số ít tiêu biểu, không phải là hiện thân cho tất cả những gì thú vị, độc đáo và sâu sắc nhất. Vì lẽ đó, đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình đối với học sinh chuyên Văn sẽ một phương pháp dạy học tích cực, hiệu quả, phát huy tối đa tính chủ động của học sinh trong quá trình đọc và tìm hiểu về tác phẩm. Chỉ như vậy mới đúng với lý thuyết về tiếp nhận văn học, mọi người đọc đều bình đẳng và đều có thể trở thành chủ thể đồng sáng tạo với nhà văn- kể cả học sinh!
  3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA CHUYÊN ĐỀ
  4. Mục đích của chuyên đề:Rèn cho học sinh chuyên Văn những kỹ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình, từ đó nâng cao khả năng tiếp nhận văn học, khả năng cảm thụ văn học và hình thành tư duy đọc hiểu thuần thục.
  5. Nhiệm vụ của chuyên đề: Định hướng khái niệm đọc hiểu, các phương pháp giúp học sinh đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình, và cách vận dụng những kiến thức văn học đó vào bài văn nghị luận văn học.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Trong bộ môn ngữ văn, có rất nhiều các thao tác, các kỹ năng giúp học sinh có thể làm bài tốt bài văn của mình, đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT QG cũng như trong kỳ thi học sinh giỏi. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu cùa chuyên đề, người viết chỉ tập trung nghiên cứu kỹ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình đối với học sinh chuyên Văn. Giúp các em không chỉ hình thành thói quen đọc hiểu tác phẩm mà còn có khả năng cảm thụ tác phẩm, định hướng lĩnh hội các tầng bậc cấu trúc nghệ thuật tư tưởng thẫm mỹ của tác phẩm một cách sâu sắc và có hệ thống. Từ đó, các em có thể tự tích lũy cho mình một kho tàng tri thức văn học phong phú bổ ích và cần thiết.

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện chuyên đề, người viết đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:

1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Người viết đã tham khảo các tài liệu, bài viết về đọc hiểu để có thể có một cái nhìn tổng quát hơn về lý thuyết đọc hiểu.

  1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở các tác phẩm văn học được chọn để dùng làm dẫn liệu cho hoạt động đọc hiểu, người viết đã định hướng phân tích tác phẩm cũng như tổng hợp khái quát các vấn đề cơ bản về đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình.
  2. Phương pháp thực nghiệm: Để hoàn thành chuyên đề này, người viết đã dựa trên cơ sở thực tế giảng dạy các lớp chuyên Văn, quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia. Từ những kết quả ban đầu đạt được, người viết đã hình thành các giải pháp, các phương pháp được đề cập trong chuyên đề.
  3. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo; phần nội dung chính của chuyên đề gồm có 3 chương:

Chương 1. Đọc hiểu và vai trò của đọc hiểu trong dạy học Ngữ văn

Chương 2. Định hướng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình trong dạy học Ngữ văn

Chương 3. Vài thiết kế bài giảng rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  1. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

ĐỌC HIỂU VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỌC HIỂU

TRONG DẠY HỌC  NGỮ VĂN

  • Giới thuyết về khái niệm Đọc hiểu

Đọc hiểu là một khái niệm rộng bao gồm cả Đọc và Hiểu. Chính mối quan hệ giữa hai hoạt động này đã tạo nên quá trình lĩnh hội những giá trị tri thức trong đời sống. Thông thường, người ta hay ghép hai khái niệm lại thành một hoạt động khép, và vô tình chấp nhận sự tồn tại tất yếu của chúng, như thể: đã Đọc tất phải Hiểu, muốn Hiểu ắt phải Đọc, mà quên rằng trên thực tế chúng là hai hoạt động độc lập.

Trước hết, Đọc là một hoạt động của con người, trong đó người đọc dùng mắt để lưu giữ những ký hiệu, chữ viết; dùng trí óc để lưu lại những nội dung mà mình đã đọc; đồng thời dùng bộ máy âm thanh để phát ra âm thanh va truyền đến người nghe. Đọc bằng mắt được xem giai đoạn đầu tiên sơ khai nhất khi con người tiếp xúc với văn bản, còn được gọi giai đoạn đọc thầm, đọc câm, chủ yếu nhận ra các ký hiệu văn tự trên văn bản. Từ giai đoạn đọc bằng mắt đến lưu giữ tri thức là một quá trình ở đó diễn ra sự nhận thức ở mức độ cơ bản nhất của người đọc. Ở hoạt động đọc diễn cảm, có sử dụng yếu tố âm thanh, ngữ điệu, giọng điệu sẽ góp phần giúp cho sự tiếp nhận tri thức diễn ra nhanh hơn, có hiệu quả hơn đối với người đọc ở diện rộng. Khi đọc thành lời, sẽ có sự tác động của cảm xúc, tâm lý.

Đối với khái niệm Hiểu, đây là mức độ cao hơn của Đọc, là sự nhận biết, nắm bắt những vấn đề cuộc sống gợi lên trong văn bản, từ đó có thể vận dụng liên hệ vào thực tiễn. Trước một văn bản văn học, hiểu không chỉ là sự lĩnh hội những nội dung mà nhà văn dày công xây dựng, mối quan hệ giữa các chi tiết nghệ thuật được đan cài như một ẩn số mà còn là sự chạm đến mạch cảm xúc nhà văn đã nung nấu, trăn trở để bật ra những luồng tư tưởng sâu kín, để từ đó tạo được mối liên hệ ngầm giữa mình và tác giả.

Từ đó, Đọc hiểu là một khái niệm kết hợp giữa đọc và sự hình thành các năng lực nhận biết, phân tích, tổng hợp để có thể chuyển hóa những ký hiệu, vùng kiến thức vốn thô cứng trên văn bản thành sự thức nhận trong tâm hồn người đọc. Đọc  hiểu là một khâu quan trọng của việc dạy học môn ngữ văn. Theo giáo sư Trần Đình Sử, “Đọc hiểu gắn với tư tưởng nhà trường phải bồi dưỡng năng lực ngữ văn cho học sinh, gắn với năng lực làm văn, thẩm văn cho người đọc” [18].Hoạt động Đọc – hiểu nếu không được tiến hành bày bản, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp nhận văn học. Có nhiều quạn niệm khác nhau về Đọc hiểu, Mác (K.Marx) từng cho rằng: “Đọc tác phẩm văn học là nguồn vô giá để nhận thức cuộc sống và quy luật đấu tranh trong cuộc sống”[1, tr19].Với Lep Tonxtoi “Muốn hiểu bất kỳ cuốn sách nào, một tác phẩm văn học nào, người đọc cần phải phân biệt rõ trong ấy những điều đã hiểu hoàn toàn, với những điều mình chưa hiểu cùng với những điều còn phức tạp, khó hiểu. Từ những điều đã hiểu, ta sẽ xây dựng cho mình những ý tưởng và linh hồn hoặc tinh thần chung của tác phẩm. Trên cơ sở những điều đã hiểu hoàn toàn, người đọc tìm cách giải thích những điều chưa hiểu hết và những chỗ còn lúng túng. Đọc bất cứ tác phẩm nào cũng đều phải làm như thế cả” [16, tr37]. Như vậy, đọc hiểu là quá trình đọc, khám phá những tầng ý nghĩa từ văn bản ngôn từ, quan trọng hơn là tạo mối quan hệ tương tác với chủ thể sáng tạo để có thể thông hiểu, vận dụng. Đó là khát khao muôn thuở của loài người, ước muốn chiếm lĩnh tri thức, giá trị. Đọc hiểu là đích hướng đến trong việc chiếm lĩnh giá trị thẫm mỹ của một tác phẩm văn chương, quá trình người đọc xâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm theo các ý nghĩa nông sâu khác nhau. Nói như Nguyễn Thanh Hùng, “đọc hiểu vừa là hành động, vừa là kết quả của việc đọc. Đọc hiểu bao hàm sự kết nối những biểu hiện khác nhau về ý nghĩa của tác phẩm và là kết quả cụ thể của sự lý giải mới nhờ tính mở của tác phẩm” [16, tr39]. Hiểu một tác phẩm văn chương là cái đích của quá trình tiếp nhận nhưng lại là một hành trình không có đoạn kết. Đọc hiểu vì thế cũng là một khái niệm đa nghĩa, theo cách nói của giáo sư Đỗ Kim Hồi, đó không chỉ là đọc hiểu mà còn là đọc sáng tạo, đọc thẩm mỹ, đọc nghệ thuật. Bởi, sự đòi hỏi của một tác phẩm văn chương đối với người đọc là vô cùng, đọc hiểu là một phương diện.

  • Các cấp độ của Đọc hiểu

Chủ thể của hoạt động đọc hiểu là người đọc. Người đọc sẽ quyết định từng cấp độ trong quá trình đọc hiểu của mình, điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ, tâm lý, lứa tuổi và cả yếu tố của thời đại… Đọc hiểu có thể chia ra nhiều cấp độ khác nhau. Việc phân chia cấp độ này tùy thuộc vào cách gọi tên và phân loại. Mortimer J.Adler trong cuốn Đọc sách như một nghệ thuật đã chia đọc ra làm bốn cấp độ của đọc. Đọc sơ cấp hay còn gọi đọc căn bản, giai đoạn đầu tiên tiếp xúc với văn bản ngôn từ để nhận biết những ký hiệu ngôn từ, xử lý các mã ký hiệu để đi tìm lớp nghĩa sơ khai nhất. Tiếp đến là đọc kiểm soát hay còn gọi là đọc lướt có hệ thống, tức là đọc trong sự giới hạn về thời gian. Cùng một khoảng thời gian nhất định, người đọc phải nắm được những ý nghĩa bề nổi của văn bản, nắm được nội dung ở mức độ sơ đẳng ví dụ như: Văn bản nói vấn đề gì, Văn bản gồm mấy phần… Nếu đọc kiểm soát đòi hỏi khả năng đọc tốt nhất trong một khoảng thời gian nhất định thì đọc phân tích sẽ yêu cầu tiếp nhận tác phẩm ở mức độ tốt nhất không giới hạn. Đọc phân tích là đọc một cách hệ thống, bày bản. Nói như cách nói của Francis Bacon, đó là kiểu đọc “nhai” để “tiêu hóa” chứ không đơn thuần là “nếm” qua hay “nuốt” vội. Bước cuối cùng là bước đọc so sánh, đọc trong mối tương quan để rút ra những điểm khác biệt, tương đồng, nắm được những vấn đề có tính quy luật để nâng lên ở tầm khái quát. Giáo sư Benjamin Bloom ở đại học Chicago của Mỹ thì lại có cách phân hoạt động Đọc theo từng nấc thang nhận thức với 6 bước khác nhau. Từ mức độ biết, nhớ lại những thông tin trong văn bản như chi tiết, sự kiện thì người đọc phải hiểu, lĩnh hội các mã thông tin đã được mã hóa thông qua con đường giải thích, lý giải. Trên cơ sở đó, cần có sự vận dụng linh hoạt vào từng tình huống cụ thể, kết hợp thao tác phân tích, tổng hợp để có thể đánh giá để có thể có những nhận định chính xác, phù hợp về giá trị của tác phẩm. GS Nguyễn Thanh Hùng chia ra đọc thầm và đọc diễn cảm, trong đó, ông đề cao vai trò của đọc diễn cảm. Theo ông, đọc hiểu là sự chiếm lĩnh các tầng bậc ý nghĩa của văn bản văn học qua sự xuyên thấm, cắt nghĩa và bình giảng. Đọc diễn cảm là một phương pháp đặc thù trong dạy học bộ môn Ngữ văn, là một phương pháp của hoạt động đọc hiểu khi nó khích thích khả năng sáng tạo và liên tưởng của người đọc trong quá trình thâm nhập vào tác phẩm, hay nói cách khác, đây được xem như hình thức phân tích tác phẩm. Như vậy, dù cách gọi tên, tiêu chí phân loại khác nhau, những rõ ràng, mỗi quan điểm đều có điểm chung là hướng từ việc đọc đến hiểu. Hiểu là đích của hoạt động đọc.

Ở đây, người viết tạm phân chia ra làm 3 cấp độ đọc hiểu:

  • Đọc tái hiện
  • Đọc phân tích
  • Đọc sáng tạo

Đọc tái hiện là sự tiếp thu tác phẩm ở mức độ đơn giản, sự nhận biết những dấu hiệu bề nổi để nắm nội dung chính. Với một tác phẩm văn học, ở giai đoạn đọc tái hiện người đọc cần nắm được cốt truyện, nhân vật…chuyển hóa thế giới ngôn từ trên bề mặt ngôn ngữ thành thế giới nghệ thuật của mình. Thực ra, trong thực tiễn dạy học môn Ngữ Văn THPT, với một bộ phận học sinh thì đọc tái hiện cũng là cái đích. Thực tế cho thấy nhiều học sinh còn không nắm được tác phẩm đề cập vấn đề gì, có em nhầm nhân vật của tác phẩm này sang nhân vật của tác phẩm khác, có trường hợp các em còn tự “sáng tạo” thêm những tình tiết vốn dĩ không hề có trong tác phẩm. Những câu chuyện bi hài trong quá trình chấm Văn vốn không bao giờ kết thúc. Nguyên nhân của thực trạng này bắt đầu từ hoạt động đọc không được thực hiện một cách bày bản. Đọc tác phẩm chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự đọc hiểu, nếu không nắm được tác phẩm, mọi kỹ năng phân tích, tổng hơp … phía sau cũng thành vô nghĩa.

Từ khâu đọc tái hiện, người đọc sẽ bắt đầu quá trình đọc phân tích để nắm được những quy luật tồn tại của những ký hiệu ngôn từ trong văn bản văn học cũng như dụng ý của tác giả khi đan cài chúng. Chính sự thấu hiểu ngôn ngữ, sự phân tích sâu sa văn bản, sự tinh tế trong cảm nhận đồng thời một trí tuệ trong nhìn nhận đánh giá sẽ giúp con người thâm nhập vào tác phẩm hình thành một thế giới nghệ thuật khác cho riêng mình. Cùng một văn bản, bao nhiêu người đọc sẽ tạo thành bấy nhiêu tác phẩm nghệ thuật thông qua con đường đọc hiểu. Yêu cầu đối với một học sinh chuyên Văn chính là phải hình thành một kỹ năng đọc phân tích tốt. Muốn cảm nhận thật sâu sắc một tác phẩm văn học, học sinh cần có đầy đủ các năng lực cảm thụ, phân tích, nhận xét theo một cách riêng trên cơ sở những kiến thức chung. Ví dụ khi đọc Thép đã tôi thế đấy, học sinh không chỉ xúc động trước phép ứng xử trong mối quan hệ giới tính rất văn hóa của Paven Coocsaghin, nhận ra vẻ đẹp trong sạch trong tâm hồn của người thanh niên Nga giác ngộ cách mạng mà còn phải nhìn thấy trong đó sự lấp lánh của lý tưởng, sự hi sinh của con người trở thành một thứ bản lĩnh được tôi luyện, chắt lọc qua thời gian như thép trong lửa đỏ. Hay với bài thơ Đợi anh về cùa Ximônôp qua bản dịch của Tố Hữu, học sinh không chỉ nhận ra lời thề chung thủy sắc son, sự thiêng liêng trong tình cảm vợ chồng dù niềm hi vọng trong tuyệt vọng mà còn nhận cấu trúc nghệ thuật độc đáo của bài thơ. Ba khổ thơ là sự đằng đằng của nỗi nhớ, sự lặp lại của cấu trúc Đợi anh, đợi anh về là sự tha thiết lẫn lo âu giữa sự chia cách hiện thời và chia lìa mãi mãi. Học sinh có thể nhận ra dụng ý nghệ thuật của tác giả khi xây dựng biểu tượng thời gian, không gian, thời gian tâm lý kết hợp không gian tâm lý tạo thành hình tượng không – thời – gian nhuốm đầy tâm trạng của chờ đợi, mà ở đó hình tượng người vợ càng bừng sáng lên với một tình yêu sắt son. Qủa thật, bài thơ là “cách nhìn tối cao” về sự chờ đợi (Từ dùng của L.Nôvicôp).

Để cảm nhận một tác phẩm, học sinh chuyên Văn không chỉ dựa vào trình độ nhận thức, khả năng tư duy, kỹ năng sống mà còn cần rất nhiều ở trí năng và cảm xúc, tình yêu văn học và cả những năng khiếu vốn đó. Điều này phân loại được những người đọc – học sinh như người đọc ngây thơ, người đọc lý tưởng, người đọc sáng tạo… Đọc sáng tạo cũng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động đọc – hiểu. Cảm một tác phẩm văn học không chỉ nhìn thấy hiện thực cuộc đời nhà văn dày công tạo dựng như một bức tranh đa chiều mà thông qua trí tưởng tượng của mình, người đọc nhìn thấy cả chiều sâu nhân sinh. Đọc là cả một kỹ thuật không chỉ sự quan sát, tư duy phân tích mà còn trí tưởng tượng phong phú để có thể tái hiện, tạo lập một thế giới nghệ thuật mới cho riêng mình. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là cấu trúc động, từ những đặc trưng về ngôn ngữ lẫn tính hình tượng đã tạo nên nhiều khoảng trống tạo điều kiện cho sự sáng tạo của người đọc được phát huy trong quá trình đọc hiểu. Chính khả năng tư duy, tri thức và kinh nghiệm sống đã giúp người đọc lấp đầy mạch ngầm ý nghĩa còn bỏ ngỏ mà người sáng tác cố tình tạo ra để khêu gợi, khích thích người tiếp nhận. Đọc suy cho cùng là một hoạt động đầy sáng tạo, một hành động nhận thức tích cực đòi hỏi tính chủ động, tự giác đầy đam mê khám phá. Nói như Phan Huy Tưởng, đọc với tất cả tinh thần, thể xác và ký ức; với nỗi đau xé lòng, sự rùng mình, sự trống rỗng; với tất cả hương thơm, màu sắc, mùi vị “chúng xuyên qua cách viết cá biệt đã khai sinh chúng và xuyên qua cách đọc cá biệt để tải tạo chúng” [16, tr84].Việc đọc không chỉ sáng tạo những góc khuất, ý nghĩa hàm ẩn chìm sâu dưới lớp ký hiệu ngôn từ của tác phẩm nghệ thuật mà đó còn là quá trình sáng tạo chính mình, thay đổi cả thế giới nội tâm người đọc về cả cảm xúc, khả năng tư duy, quan điểm thẫm mỹ cũng như cách nhìn về thế giới. Sự rung cảm và thức tỉnh cá nhân của người đọc trước một tác phẩm chính là đích của sự đọc. Mỗi tác phẩm văn học thực sự luôn neo giữ tâm hồn người đọc ở những ranh giới thẫm mỹ, hun đúc những trăn trở, suy ngẫm giá trị về đời sống. Đọc là hành động của mọi hành động, và người đọc chính là con người hành động. Để hoạt động đọc trở thành một hành động sáng tạo thực sự, để mỗi học sinh trở thành một người đọc sáng tạo, phải chăng là niềm mơ ước của mỗi giáo viên dạy Văn?!

1.3. Đọc hiểu trong dạy  học Ngữ Văn

1.3.1 Cơ sở lý luận của việc Đọc hiểu

Đọc hiểu văn bản văn học là sự tiếp nhận chiều sâu, chiều rộng của ý nghĩa văn bản, tác động đến quá trình nhận thức của người đọc. Một tác phẩm như một nụ hoa, mỗi người đọc ngày qua ngày bằng khả năng tư duy, năng lực cảm nhận sẽ bóc dần lớp vỏ ngoài để nó có thể khoe sắc ở độ rực rỡ nhất. Đọc hiểu tác phẩm xét về mặt lý luận là hoạt động tiếp nhận văn học. Qúa trình này diễn ra chịu sự chi phối của những yếu tố khác nhau.

Trước hết, bản thân tác phẩm văn học là một mê cung ẩn chứa những chiều sâu giá trị đằng sau lớp ngôn từ được biến hóa đa nghĩa. Người nghệ sỹ tạo nên tác phẩm văn học không chỉ bằng ý tưởng, mà còn tung tẩy bởi sự tài hoa và khéo léo. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực luôn không ngừng khêu gợi, kích thích trí tưởng tượng, khát khao tìm tòi của người đọc, ẩn giấu đâu đó trong những ngóc ngách ý đồ nghệ thuật mà ta càng cố hiểu lại không thể nào hiểu hết. Tính đa nghĩa của nghệ thuật làm nên ý nghĩa tồn tại của một tác phẩm nhưng đồng thời nó khiến cho quá trình tiếp nhận có thể nối tiếp hành trình không dang dở. Đọc hiểu văn học là bắt đầu cho những kiếm tìm, giải mã và len lỏi vào đằng sau những con chữ tưởng chừng khô cứng bằng niềm khát khao chinh phục để biến chúng trở nên động đậy, có ý nghĩa. Hình tượng văn học bao giờ cũng lớn hơn tư tưởng nên mỗi người đọc có thể chiếm lĩnh văn bản văn học theo cách của riêng mình. Hoạt động đọc hiểu vốn phức tạp bởi không có nhà văn nào đứng ra nâng đỡ người đọc giữa biết bao nhiêu ký hiệu ngôn từ, biện pháp nghệ thuật cũng như tầng tầng ý nghĩa. Người đọc vốn dĩ thành kẻ cô đơn trong hành trình khám phá của mình, đứng trước ngả năm, ngả bảy của cuộc đời mà phải tự mình quyết lấy một lối đi.

Bên cạnh đó, tính phức tạp của hoạt động đọc hiểu còn bị chi phối bởi yếu tố người đọc. Mỗi người đọc sẽ có một trình độ nhận thức, năng lực cảm thụ khác nhau, thậm chỉ mỗi thời điểm, tùy vào hứng thú, tâm lý người đọc cũng khác nhau sẽ dẫn đến sự tiếp nhận tác phẩm cũng khác nhau. Mỗi tác phẩm văn chương là kết quả của quá trình sáng tạo, đòi hỏi người đọc sự chủ động, nổ lực cả về trí tuệ lẫn tâm hồn để đọc hiểu. Hoạt động đọc hiểu của học sinh muốn đạt được hiệu quả cao nhất cần có sự định hướng của giáo viên, nhất là những tác phẩm ngoài chương trình. Sự chọn lựa tác phẩm phải phù hợp với độ tuổi, khả năng và mức độ tiếp nhận, cũng như có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của chúng. Đọc không chỉ là hoạt động mang tính giải trí, mà còn có ý nghĩa nhận thức – giáo dục một cách có thẫm mỹ. Jean P. Sartre có một quan niệm rất hay về sự đọc “Mỗi con người đều được cấu tạo do mọi người khác và anh ta chỉ hiểu mình xuyên qua họ ma thôi. Anh ta cũng hỉ hiểu họ xuyên qua những điều họ bộc lộ ra bên ngoài và xuyên qua chính anh là người được họ rọi sáng” [16, tr57]. Làm thế nào để mỗi người đọc hiểu mình qua từng trang viết chính là cái đích của sự đọc?! Đọc văn chương không chỉ đơn thuần để hiểu cái hay, cái đẹp của văn chương, cũng không chỉ hiểu chiều sâu tiềm tàng của tác phẩm hay hiểu hết những điều nhà văn muốn nói, mà điều cần hơn, ấy là hiểu mình, nhận thức được mình.

Đọc hiểu tác phẩm về bản chất là hiểu giá trị đích thực của nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn chương thông qua cấu trúc ngôn từ, thế giới hình tượng của tác phẩm . Đây là hành động thiên về năng lực nhận thức, đọc một cách chủ động để thâm nhập vào sự sáng tạo nghệ thuật trong tác phẩm một cách trọn vẹn nhất lay động đến tâm hồn người đọc và để lại những dư vị, nếm trải thông qua tầng cấu trúc thẫm mỹ. Rõ ràng, không phải người đọc nào cũng có thể chạm vào ba tầng cấu trúc của tác phẩm, cũng như không có tác phẩm nào tự mở toảng ba cánh cửa để mời gọi sự khám phá của người đọc. Đọc hiểu là sự lấp đầy những dang dở của tác phẩm trên con đường tìm kiếm chân giá trị…

1.3.2 Cơ sở thực tiễn của dạy – học đọc hiểu Ngữ Văn trong trường Trung học phổ thông Chuyên

Trong quan niệm dạy văn truyền thống, giờ văn được xem là tiết giảng văn, với vai trò chính của người giáo viên khi phải truyền đạt giảng giải những kiến thức văn học cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Sau mỗi tiết học, điều mà mỗi học sinh đọng lại là những lời giảng thầy, những cách phân tích, cảm nhận theo cách của thầy chứ chưa thể phát huy được hết khả năng sáng tạo vốn có của mình. Để khắc phục những bất cập đó, vài năm gần đây, người ta bắt đầu quan tâm đến khái niệm đọc hiểu. Dù vẫn còn nhiều lúng túng, mơ hồ trong cách hiểu về khái niệm cũng như bản chất của đọc hiểu, nhưng về cơ bản, so với quan niệm giảng văn truyền thống, hoạt động đọc hiểu đã phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm. Bản chất của quá trình văn học chính là sự sáng tạo của cả người sáng tác lẫn người tiếp nhận. Để giờ Văn thực sự không còn nhàm chán, một chiều và thụ động, người thầy cần tạo điều kiện để phát huy tối đa sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Dưới sự định hướng có tổ chức của thầy, các em có thể tự mình khám phá, cảm nhận theo một cách riêng. Có như vậy, giờ học Văn mới thực sự thú vị và đủ sức hấp dẫn các em giữa một xu hướng chung khi mà những môn xã hội ngày càng không đủ sức níu giữ học trò. Hiệu quả thực sự của mỗi tiết học Văn là làm thế nào để học sinh vừa tiến hành hoạt động đọc nhưng đồng thời vừa đạt được cái đích của sự đọc là hiểu, và qua đó, học sinh có thể nắm được những phương pháp để có thể hiểu được những nội dung cần hiểu trong một văn bản văn học. Nói như TS Phạm Văn Nam, “đọc hiểu không phải là một phương pháp, mà là mục đích hướng tới của bài học tác phẩm”. [16, tr88].Thật sai lầm nếu trong mỗi giờ dạy Văn, giáo viên và học sinh thay vì đi tìm cái đẹp của tác phẩm văn chương lại đi trả lời những câu hỏi hướng dẫn trong sách giáo khoa, mà quên rằng, đó cũng chỉ là một gợi ý, một hướng đi. Như vậy, đọc hiểu vừa là một hoạt động học, vừa là một phương pháp học, vừa tích lũy cho học sinh những kinh nghiệm tự tiếp nhận cả những tác phẩm ngoài chương trình.

Đối với học sinh chuyên Văn, việc học và tự đọc là một yêu cầu không thể thiếu. Một trong những bài học đầu tiên của học sinh trường chuyên là kỹ năng đọc. Khi văn hóa đọc hiện nay đang trở nên mai mọt một cách đáng báo động thì người học Văn càng hiểu hơn ý nghĩa cả hoạt động đọc hiểu trong nhà trường phổ thông. Đọc gì? Đọc như thế nào? Và ở mức độ cao hơn, khả năng đọc của các em phải nâng lên thành kỹ năng đọc hiểu tác phẩm văn học. Mỗi người đọc tiềm năng va phát triển bao giờ cũng sẽ có phương pháp đọc hiểu của riêng mình. Muốn đạt được một trình độ đọc hiểu chuyên nghiệp, bên cạnh việc khơi gợi niềm đam mê, khát khao tìm hiểu những giá trị sống từ tác phẩm văn chương trong các em, người giáo viên cần tạo cho các em một thói quen làm việc nghiêm túc. Đó không chỉ đơn thuần là đam mê nhất thời, là sở thích mang tính phong trào mà các em phải ý thức đọc hiểu như một công việc quan trọng để có thể trở thành một học sinh giỏi văn.

Việc học Văn đối với học sinh chuyên Văn ngoài niềm đam mê, yêu thích, còn có một ý nghĩa thực tế, giúp các em hoàn thành tốt các kỳ thi học sinh giỏi, kỳ thi THPT QG. Để bài văn có được chiều sâu, chiều rộng về kiến thức, không thể không nhắc đến vai trò của việc tự đọc. Công việc này tiến hành càng bày bản, có hiệu quả thì chất lượng việc dạy – học Văn càng được nâng cao, người dạy Văn mới phần nào giảm đi áp lực trong công tác giảng dạy. Sự thành công của một học sinh giỏi phụ thuộc phần lớn vào sự nổ lực, lòng quyết tâm và khả năng tự học tốt của các em. Người thầy tốt chính là người gieo vào các em một khát vọng chinh phục, chiếm lĩnh giá trị cuộc sống, đồng thời hướng cho các em con đường để chinh phục những ước mơ đó. Đối với giáo viên dạy Văn ở trường THPT Chuyên, việc rèn luyện cho học sinh một thói quen tự đọc, tự học, khả năng tự đọc hiểu các tác phẩm văn học trong và ngoài chương trình là một việc làm quan trọng và cần thiết.

CHƯƠNG 2

ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC

NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH TRONG DẠYHỌC NGỮ VĂN

2.1 Ý nghĩa của dạy học đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình sách giáo khoa

Việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình trước hết sẽ khơi mở và phát huy ở học sinh sở thích đọc, tìm hiểu và khám phá văn học một cách đa dạng, phong phú và không bị giới hạn trong một cuốn sách giáo khoa, từ đó hình thành ở các em thói quen tự đọc, tự nghiền ngẫm, tự phân tích, cảm nhận bằng trực giác, trải nghiệm và thế giới quan của riêng mình. Thông thường, những tác phẩm văn học ngoài chương trình sẽ không có bài phân tích mẫu, các em sẽ không phụ thuộc vào cách đọc và hiểu tác phẩm này như thế nào, phải yêu hay ghét nhân vật ra sao. Ngược lại, học sinh có thể toàn quyền quyết định về cách hiểu của mình đối với một tác phẩm dưới sự định hướng của giáo viên. Như vậy, lợi ích đầu tiên của việc đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình phổ thông đó chính là nâng cao khả năng cảm nhận chủ quan, giúp học sinh ngày càng chủ động hơn trong việc phân tích, bình giảng tác phẩm văn học nghệ thuật.

Từ việc nâng cao khả năng cảm nhận, phân tích, bình giảng tác phẩm văn học, đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình còn giúp học sinh tích lũy cho mình lượng kiến thức văn học phong phú để chứng minh cho các vấn đề lí luận văn học. Đồng thời, các tác phẩm văn học ngoài chương trình có thể dùng để so sánh, đối chiếu, liên tưởng với các tác phẩm chính quy trong nhà trường khi các em phân tích, bình giảng mà chỉ khi đã đọc, đã hiểu một cách sâu sắc thì sự so sánh của các em mới nhuần nhuyễn và không khập khiễng. Ngược lại, nếu chỉ đọc các tác phẩm ngoài chương trình theo cách “cưỡi ngựa xem hoa” thì bài viết của các em có thể sai lệch về kiến thức, không thể mở theo chiều rộng càng không thể mở theo chiều sâu, như thế rất dễ mất điểm đối với người chấm. Đó là lí do vì sao hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình đối với học sinh trường chuyên có một vai trò quan trọng không thể phủ nhận.

Cuối cùng, việc đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình, từ văn học Việt Nam cho đến văn học nước ngoài sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử văn học, tiến trình vận động và phát triển của văn học, về sự hình thành và ra đời của các trào lưu, các trường phái sáng tác. Hơn hết, các em sẽ hiểu hơn về cuộc đời, con người và chính mình. Các tác phẩm văn học không chỉ giúp cho các em sự học hỏi về kĩ thuật viết mà còn về tri thức, vốn sống, để từ đó, bài văn của các em là sự kết hợp hài hòa giữa sự trưởng thành trong cách viết, giọng điệu với sự trưởng thành và chín chắn trong ý tưởng, tình cảm mà các em đã thổi hồn vào bài viết.

2.2 Định hướng đọc hiểu một số tác phẩm ngoài chương trình

2.2.1 Đọc hiểu tác phẩm văn học Việt Nam

Trong chương trình học THPT, mảng văn học Việt Nam chiếm một dung lượng kiến thức lớn xuyên suốt từ văn học dân gian – văn học trung đại đến văn học hiện đại. Đây là trọng tâm kiến thức trong các kỳ thi nên việc đọc hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam ngoài chương trình là rất cần thiết, nhằm giúp học sinh hiểu sâu hơn về văn học Việt Nam qua các thời kỳ.

Đối với việc đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình, giáo viên cần có sự định hướng cho học sinh để sự đọc có trọng tâm và hiệu quả. Trước hết, cần đọc tác phẩm của những tác giả trong chương trình. Ở giai đoạn văn học trung đại, học sinh có thể đọc thêm những tác phẩm của các tác giả chính. Ví dụ như với Nguyễn Du, đọc thêm Long Thành cầm giả ca để phần nào thấy được thân phận và nỗi lòng của tác giả đối với số phận những người phụ nữ hồng nhan bạc phận, với Nguyễn Trãi có thể đọc thêm chùm tác phẩm trong tập Quốc âm thi tập để thấy được quá trình Việt hóa thơ Đường, tình yêu thiên nhiên và tấc lòng “trung lẫn hiếu” sáng ngời như sao Khuê của Ức Trai. Hay với Nguyễn Khuyến, học sinh có thể đọc thêm các bài thơ Nôm để cảm được hai con người tưởng đối lập mà thống nhất trong thơ ông: con người thâm trầm sâu lắng và con người tự trào… Nhìn chung, nên đọc hiểu theo chủ đề, đọc để khắc sâu thêm giá trị tư tưởng nghệ thuật của mỗi tác giả. Khi nhắc đến văn học trung đại, không thể không nhắc đến trường hợp Hồ Xuân Hương – một hiện tượng văn học độc đáo. Chúng ta có thể định hướng cho học sinh tìm hiểu thêm những tác phẩm thơ của bà, trong đó có thể kể đến bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống để nổi bật thái độ, cái nhìn của Xuân Hương trước cuộc đời. Từ cái “ghé mắt”, cái dáng đứng “cheo leo” mà Hồ Xuân Hương tạo dáng cho cái đền thái thú, hay cái cách chỉ trỏ “kìa” đã phá tan cái không khí thiêng liêng cần có giữa chốn thánh thần, và cả sự “ví đây đổi phận” để rồi nàng tự cười…ừ thì “há bấy nhiêu” … Một Xuân Hương đằm thắm là thế, nhưng trước đền Sầm Nghi Đống hay nói đúng hơn trước những xộc xệch của cuộc đời, nàng lại trở nên xấn xược, ngổ ngáo, nổi loạn đầy cá tính.

Khi đọc hiểu tác phẩm này, chúng ta có thể vận dụng để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về tác phẩm trữ tình. Tác phẩm trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, cảm xúc chủ quan trước thế giới và nhân sinh. Tác phẩm trữ tình là sự  biểu hiện tư tưởng, tình cảm của con người đối với thế giới, là sự hiện diện của cái tôi, sự tự ý thức của chủ thể. Trong tác phẩm trữ tình, nhân vật trữ tình (hay còn gọi là cái tôi trữ tình, chủ thể trữ tình) là người trực tiếp bộc lộ tình cảm hoặc bày tỏ niềm rung động khi cảm nhận những gì bên ngoài mình. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng của nhà thơ, để thấy tư tưởng tiến bộ của Hồ Xuân Hương trong một xã hội nền nếp, quy cũ. Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đốnglà một khát vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các “sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh, với xã hội. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến. Mặc khác, học sinh có thể so sánh, đối chiếu với tác phẩm Tự Tìnhtrong chương trình để thấy được các mảnh ghép tâm hồn tương phản nhưng thống nhất bên trong của Hồ Xuân Hương. Phải chăng, một Xuân Hương ban ngày ngổ ngáo, nổi loạn, xấc xược lại cũng là một Xuân Hương đầy cô đơn và trầm mặc về khuya?

Ở văn học hiện đại, thơ Mới là một nội dung khá quan trọng, bên cạnh những tác phẩm trong sách giáo khoa, học sinh cần đọc hiểu những tập thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… Với ba đỉnh cao của thơ Mới, việc tìm hiểu các tác phẩm thơ ngoài chương trình cũng không ngoài việc hiểu hơn về nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ. Chỉnh từ những tác phẩm thơ trong tập Thơ Thơ, Gửi hương cho gió học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về tâm hồn rạo rực, đầy khát khao, giao cảm của Xuân Diệu trước cuộc đời. Đó không chỉ là Vội vàng mà còn là sự Giục giã  cuống quýt trước cảm giác trôi chảy của thời gian, và hơn hết đó là nỗi cô đơn tận cùng của một tâm hồn nhạy cảm, run rẩy trước cái vô biên của cuộc đời “tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”. Cảm thức về không gian của Huy Cận càng được học sinh khắc sâu hơn nếu các em được trải lòng mình giữa không gian mênh mông sông dài trời rộng không chỉ ở Tràng Giang mà còn ở Buồn đêm mưa hay những tác phẩm khác trong tập Lửa thiêng. Chất cổ điển từ nghệ thuật thơ, và nỗi buồn bàng bạc như tràn ngập cả thế giới nghệ thuật Lửa Thiêng, các em sẽ cảm nhiều hơn tâm trạng bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài, hay đồng cảm hơn với nỗi niềm của một cái tôi luôn sợ hãi trước khoảng không rợm ngợp. Rồi có thể từ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, các em sẽ thương cảm hơn trước Thơ Điên, cảm nhận sâu sắc hơn về cái tôi bệnh tật đang bị giày vò trong mặc cảm, khao khát cứu vớt cái tâm hồn và thể xác đầy thương tật để tìm đến Thượng thanh khí… Rõ ràng, khi đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình một cách có hệ thống, học sinh sẽ có một cái nhìn sâu sắc hơn về tác giả mà mình đang học. Thậm chí, giáo viên có thể giới thiệu cho các em biết thêm về thơ Nguyễn Bính, thơ Chế Lan Viên, thơ Thâm Tâm, thơ Vũ Đình Liên…nhằm mở ra không gian thơ toàn diện hơn về Thơ Mới – nơi có sự lên ngôi của những cái tôi, những cá tính sáng tạo trên con đường tịnh tiến dần với thơ lãng mạn phương Tây.

Ở đây, người viết đơn cử trường hợp nhà thơ của một bài thơ – Vũ Đình Liên với bài thơ Ông đồ. TS Chu Văn Sơn đã từng so sánh rất hay, nếu chọn ra mười nhà thơ Đường tiêu biểu nhất thì không có tên Thôi Hiệu, nhưng nếu chọn ra năm bài thơ Đường tiêu biểu nhất, thì không thể không có Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. (Bất giác nhớ đến một giai thoại, tương truyền Lí Bạch một lần đứng trước Hoàng Hạc Lâu định chắp bút làm thơ nhưng nghĩ đến bài thơ tuyệt bích của Thôi Hiệu thì tự thấy hổ thẹn, quyết ném bút và không làm thơ nữa.) Cũng như vậy, nếu chọn ra mười tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, sẽ không có Vũ Đình Liên, nhưng nếu chọn ra năm bài thơ đỉnh cao của thơ Mới, nhất định phải có Ông đồ.

Ông đồ trong bài thơ hiểu theo nghĩa hẹp trước hết là những người viết thư pháp, cho chữ mỗi khi Tết đến xuân về. Cứ thế, như một quy luật tất yếu, ông đồ luôn đồng hiện cùng hoa đào, cùng bánh chưng xanh trong không gian của ngày tết, của mỗi độ xuân về. Nhưng sâu xa hơn, ông đồ còn là người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp, là chủ thể sáng tạo các giá trị văn hoá tinh thần cho đời sống của con người. Vũ Đình Liên tô đậm tài năng của ông đồ:

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Mượn thái độ của những người xin chữ, của đám đông, nhà thơ đã bộc lộ niềm ngưỡng mộ, ngưỡng vọng với tài năng của ông đồ. Nếu Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô có khả năng tranh tinh xảo với hoá công, nếu con chữ của Huấn Cao trong Chữ người tử tù nói lên được “cái hoài bão tung hoành của một đời con người” thì nét chữ của ông đồ “như phượng múa rồng bay”. Đấy là cái quá khứ vàng son, vinh quang của ông đồ. Tiếc là quá khứ vàng son không kéo dài được bao lâu:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Chữ “nhưng” trong câu thơ đầu tạo nên tứ thơ đối lập, tương phản giữa quá khứ và hiện tại. “Giấy đỏ” không thắm, mực đọng lại trong nghiên, những phương tiện sáng tạo cái đẹp, sáng tạo văn hoá giờ đây đã trở thành vô nghĩa. Ông đồ bị lãng quên, lạc lõng, bị bỏ lại bên lề của cuộc đời đông đúc, nhộn nhịp, chỉ còn là cái “di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn” như chính nhà thơ đã nói. Dường như nỗi lòng của ông đồ cũng đọng lại thành những khối sầu có khác gì mực đọng lại trong nghiên đâu?

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Khổ thơ này vẫn còn là hướng ngoại nhưng đã đậm đặc nỗi buồn, bàng bạc nỗi đau đớn xót xa trước sự thay đổi, sự mất đi của một lớp người, một giá trị văn hoá.Để rồi, đến khổ thơ cuối, ông đồ đã hoàn toàn mất đi giữa cuộc đời gió bụi, kết cấu vòng tròn càng tô đậm thêm sự đối lập nghiệt ngã giữa quá khứ và hiện tại, giữa xưa và nay. Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?Hai câu thơ cuối là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp, là lời gọi hồn dân tộc đầy bàng hoàng, đau đớn, xót xa. Nhà phê bình văn học Vũ Quần Phương đã thật có lí khi cho rằng: “Viết bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã thắp lên một nén tâm hương để tưởng nhớ những hình bóng đã mất”. Người cho chữ, kẻ xin chữ, một lối chơi tao nhã ngày Tết nay còn đâu? Chao ôi đều là “những hình bóng đã mất”! Cũng viết về thú vui một thời nay chỉ còn vang bóng, cùng viết về những tài năng giờ chỉ như bông hoa lạc lõng cuối mùa còn vương sót lại, nếu cảm hứng của Nguyễn Tuân là cảm hứng ngợi ca, khẳng định sức sống bất tử của cái đẹp thì Vũ Đình Liên than ôi chỉ là một nỗi niềm buồn đau và tiếc xót.

Như vậy, việc đọc hiểu tác phẩm Ông đồ có thể giúp học sinh có sự liên tưởng, so sánh với các tác phẩm trong chương trình. Chẳng hạn so sánh với truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân để thấy được sự gặp gỡ trong tâm trạng nuối tiếc, hoài niệm những vẻ đẹp một thời nay chỉ còn vang bóng của nhà văn Nguyễn Tuân và nhà thơ Vũ Đình Liên. Tuy nhiên, cùng dựng lên một không khí cổ xưa, nếu cảm hứng của Vũ Đình Liên nhuốm màu ảm đạm, thê lương, bàng bạc nỗi buồn thì Nguyễn Tuân lại khẳng định sức sống, giá trị và sự bất tử của cái đẹp, được thể hiện tập trung trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm.Cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm là sự khẳng định cái đẹp chiến thắng quyền uy, cái đẹp có khả năng cảm hóa và cái đẹp là bất tử. Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, cái đẹp còn là bất tử, có sức sống bền vững. Viên quản ngục nguyện thờ phượng cái đẹp của Huấn Cao ở thánh đường, Huấn Cao bị tử hình, nhưng chữ của ông vẫn còn mãi, khí phách và tài năng của ông vẫn còn tỏa sáng nơi ngục tù tăm tối và trong lòng viên quản ngục. Nguyễn Tuân là “con người sinh ra để mà thờ nghệ thuật với hai chữ viết hoa” (Đôi tri kỉ gượng), nhưng có lẽ đúng hơn là Nguyễn Tuân phấn đấu nghệ thuật vì mục đích “viết hoa” con người, ca ngợi con người, ca ngợi những giá trị tốt đẹp của đời sống.

Hơn nữa, xét về mặt thể loại, thơ là loại tác phẩm dùng lời lẽ thổ lộ những nỗi niềm tâm trạng. Thổ lộ nỗi niềm tâm trạng vừa là bản chất, vừa là phương thức trữ tình của thơ ca. Bản chất của tác phẩm trữ tình là hướng nội, cho nên phương thức của tác phẩm trữ tình là độc thoại nội tâm. Nhà thơ rung động, xúc cảm trước cái đẹp, trước khổ đau và bộc lộ trực tiếp thái độ chủ quan của mình. Cảm xúc ở đây là cảm xúc hướng ngoại nhưng vẫn là tiếng nói chủ quan của tâm hồn con người. Điều này tạo nên sự khác biệt lớn nhất của tác phẩm trữ tình so với tác phẩm tự sự, nếu tác phẩm trữ tình đề cao yếu tố chủ quan thì tác phẩm tự sự lại tôn trọng nghiêm ngặt tính khách quan của hiện thực. Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên dù hướng đến đối tượng khách quan nhưng kì thực vẫn là tái hiện thế giới chủ quan và tâm trạng của nhà thơ trước một vẻ đẹp văn học đang lụi tàn và trôi vào quên lãng. Học sinh có thể dùng những kiến thức từ bài thơ để sáng tỏ những vấn đề lý luận về tác phẩm trữ tình.

Trong giai đoạn văn học 1930 – 1945, ở mảng văn xuôi học sinh nên đọc hiểu những truyện ngắn của Nam Cao ở hai mảng đề tài về người nông dân và người trí thức như Giăng sáng, Một bữa no, Lang rận, Mua nhà… bên cạnh tập truyện Gió đầu mùa của Thạch Lam và Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Đối với văn xuôi lãng mạn, giáo viên có thể giới thiệu thêm tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh.

Đôi bạn được nhà xuất bản Đời nay in vào năm 1939, nhưng trước đó (1938) đã được đăng trên tờ Ngày nay, là một tác phẩm ghi dấu đỉnh cao đổi mới của văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945, cùng với hàng loạt tác phẩm như Giọt lệ thu (Tương phố), Linh phượng lệ ký (Đông Hồ), Bể thẳm (Đoàn Như Khuê) và Giấc mộng con (Tản Đà)…Tính chất lãng mạn trong Đôi bạn còn ở kết thúc câu chuyện: kẻ ra đi thông cảm với người ở lại. Kẻ ở lại thông cảm với kẻ ra đi. Cả hai lấy chữ hy sinh làm đầu, lấy lý tưởng làm trọng và chuyển đau thương trong lòng ra nỗi nhớ nhung làm bất tử cuộc tình đầu. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm ở chỗ, tác phẩm không trông cậy vào cốt truyện ly kỳ, tình tiết lâm ly để lôi cuốn người đọc như loại tiểu thuyết tình trước đó kiểu Tuyết hồng lệ sử, Vân lan nhật ký (Từ Trẩm Á), Lan và Hữu (Nhượng Tống). Nhất Linh cũng không triết lý về ái tình như Lê Văn Trương, mà tốn nhiều bút mực tả cảm xúc tinh tế, những diễn biến tâm lý của đôi lứa trong một cuộc tình đơn sơ, câm nín nhưng chân thật. Có thể nói Đôi bạn là một thiên tâm lý ái tình xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.

Thứ nhất, học sinh có thể biết thêm một tác giả trong nhóm Tự lực văn đoàn, biết thêm một phong cách nghệ thuật khác khi so sánh với Thạch Lam. Đồng thời, học sinh sẽ hiểu hơn về trào lưu văn học lãng mạn.Nghệ sĩ lãng mạn đề cao sức mạnh của trí tưởng tượng bay bổng, đề cao thiên tài, đề cao cá tính sáng tạo, đề cao tự do (không chịu và không chấp nhận bị gò bó), đề cao cảm giác và trực giác như quan niệm của A. D. MuyxêHãy đập vào tim anh, thiên tài là nơi đó”. Việc đề cao trí tưởng tượng bay bổng, chủ nghĩa lãng mạn tạo nên những nhân vật kì vĩ, phi phàm. Tâm hồn nhà văn bay bổng trên bầu trời rộng lớn, không bao giờ chịu ép mình vào khuôn khổ. Họ tự do trong việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện cảm nhận của mình về thế giới, về đời sống xã hội. Do đó, tác phẩm văn học lãng mạn mang khuynh hướng tư tưởng chủ quan của người nghệ sĩ, sự cắt nghĩa lí giải không tuân theo những quy luật khách quan của đời sống mà theo tình cảm của tác giả. Đặc biệt, người nghệ sĩ lãng mạn không định hướng sự sáng tạo theo lí tính mà theo cảm giác, trực giác. Về nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn chuộng lối miêu tả tuyệt đối hóa, sử dụng triệt để thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu tính ước lệ và tính cách điệu hóa. Có thể thấy những điều này qua tiểu thuyết Đôi bạncủa Nhất Linh.

Thứ hai, từ tác phẩm văn học lãng mạn, học sinh có thể liên tưởng điến những tác phẩm văn học hiện thực. Khi viết truyện ngắn Chí phèo, Nam Cao là nhà văn thuộc trào lưu hiện thực phê phán đã có ý “đối thoại” lại với tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh và những tác phẩm văn xuôi lãng mạn đương thời. Điều này có liên quan đến “nguyên lí đối thoại” của tác phẩm văn học mà nhà lí luận văn học Nga Bakhtin từng nhắc đến. Nếu Nhất Linh xây dựng cuộc tình lãng mạn của những chàng, những nàng, những trai thanh gái lịch chốn thị thành như Dũng và Loan thì Nam Cao, bằng ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt, đã xây dựng cuộc tình Chí Phèo – Thị Nở, sự gặp gỡ giữa hai con người dưới đáy xã hội, giữa một người đàn bà dở hơi, xấu đến ma chê quỷ hờn và một thằng lưu manh, chuyên đi rạch mặt ăn vạ, họ không được sống sao cho ra một con người và sống xứng đáng với danh hiệu một con người. Phải chăng Nam Cao muốn khẳng định, những người nông dân dưới đáy xã hội mà Nhất Linh từng so sánh “như những cục đất sinh ra và mất đi trong bóng tối” qua lời của Dũng trong “Đôi bạn”, đằng sau hình hài xấu xí đến dị dạng đó bên trong họ vẫn còn nguyên vẹn những rung động của tình người? Chỉ có điều, Nam Cao không để cho câu chuyện của mình đi đến một hồi kết đầy lãng mạn như Nhất Linh: “đôi bạn” kia lấy chữ hy sinh làm đầu, lấy lý tưởng làm trọng và chuyển đau thương trong lòng ra nỗi nhớ nhung làm bất tử cuộc tình đầu. Nam Cao thì khác, hiện thực hơn rất nhiều. Ông đã để cho nhân vật Chí Phèo của mình đâm chết Bá Kiến và tự sát, chết đau đớn và vật vã trên vũng máu của chính mình trên con đường hành hương về cõi thiện, một “cái lò gạch bỏ hoang và vắng người lại qua” lại hiện ra trong tâm trí Thị Nở khi thị thoáng nhìn xuống bụng. Câu chuyện đi vào lẩn quẩn, bế tắc và không lối thoát như cuộc đời của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Như vậy, Nam Cao vẫn đứng vững trên lằn ranh của chủ nghĩa hiện thực chứ không hề lạc bước sang chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa tự nhiên như nhiều người vẫn nói. Tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh và truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là hai tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu văn học lãng mạn và trào lưu văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng.

Mảng văn học thời hậu chiến cũng là vùng kiến thức hay và bổ ích đối với học sinh chuyên Văn. Đó là những tác phẩm thể hiện sự trở mình của văn học với góc nhìn mới, cách thể nghiệm mới. Nếu văn học cách mạng hướng độc giả đến cái nhìn một chiều, tô hồng hiện thực theo khuynh hướng ngợi ca thì văn học thời hậu chiến lại mở ra một bức tranh hiện thực đa diện nhiều chiều lắm oái ăm và nghiệt ngã. Nếu nhà văn cách mạng tắm nhân vật trong bầu không khí vô trùng, thì nhà văn thời hậu chiến lại đẩy con người về với cuộc sống mà họ cần đối diện giữa những đớn đau, nhức nhối. Độc giả tìm đến văn học cách mạng mang tâm trạng ngùn ngụt khí thế chiến trường theo kiểu “đường ra trận mùa này đẹp lắm” thì khi đến với văn học hậu chiến, họ sững sờ giữa bề bộn cuộc sống. Thì ra…chiến tranh mịt mù bom đạn nhưng vẫn có cái giản đơn giữa hai chiều đối lập: sống và chết, địch và ta, xấu và tốt… trong khi muôn mặt hiện thực trong thời bình lại ngổn ngang, lẫn lộn, ngỡ bình yên mà ẩn đằng sâu bao nhiêu mạch sóng ngầm dữ dội, ồn ào. Về mặt tư tưởng và nghệ thuật, có thể khẳng định những tác phẩm văn học sau năm 1975 đều đạt đến giá trị cao. Học sinh sẽ có một chiều sâu trong nhìn nhận hiện thực đời sống, cũng như đọc được những mới mẻ trong tư tưởng, sáng tạo trong nghệ thuật. Văn học đau đáu nhìn thẳng vào cuộc đời, vào phận người. Đọc và lắng lòng trong những tác phẩm văn học thời kỳ này sẽ mang đến cho các em thêm một cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về văn học Việt Nam.

Ở đây, người viết muốn đề cập đến tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh – một tiểu thuyết khá hay về chiến tranh thời hậu chiến. Tác phẩm không chỉ tô thêm bức tranh cuộc sống đa sắc màu trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, mà còn gợi ra cái nhìn trái chiều, toàn diện cho những tác phẩm văn học giai đoạn cách mạng.Chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc, mất mát, đau thương. Chiến tranh thật sự khốc liệt, nghiệt ngã và ê chề. Những cảnh giết người một cách man rợ. Có thể hèn. Nhục. Để được sống. Bức tranh hiện thực của cuộc chiến tranh hiện lên thật ngột ngạt và căng thẳng. Chiến tranh không những không cho phép con người được sống thật với chính mình, được thỏa mãn những khát vọng thầm kín đầy nhân bản, mà kinh khủng hơn là việc nó không ngừng ám ảnh tâm hồn của những người còn sống sót. Năm tháng khốc liệt đã đi qua cuộc đời Kiên và Phương không chỉ tạo ra những bước ngoặt, những đổ vỡ trong đường đời của họ, mà còn gây nên những biến đổi trong thế giới tinh thần của cả hai.

Có điều trong sự nghiệt ngã của chiến tranh, Bảo Ninh đã thể hiện một cái nhìn ấm áp về phận người, nhất là đối với những nhân vật nữ. Dường như với Bảo Ninh, phụ nữ là hiện thân của tình yêu – đối âm của chiến tranh. Tình yêu gắn liền với cái đẹp, với nhân tính, là cái đối lập với bạo lực hủy diệt nhân tính. Nếu như chiến tranh đánh thức trong Kiên phần tàn tạo, biến anh thành một cỗ máy, “âm thầm và mệt mỏi” – nghĩa là vô cảm – của sự giết chóc thì những người phụ nữ ấy lại đánh thức trong anh tình yêu, một tình yêu mà cho đến tận cuối cuộc đời anh, vĩnh viễn không trọn vẹn. Những người phụ nữ níu Kiên về với cuộc sống, với cái thiện, nhân tính và tình người. Có thể nói trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, người phụ nữ là biểu tượng cho cái Đẹp và nhân tính như một sự cứu rỗi trong một thế giới khủng khiếp của chiến tranh.

Nhận thức số phận con người gắn liền với hạnh phúc và đau khổlà tất cả những gì thực sự ý nghĩa trong cuộc đời này. Văn học quan tâm đến hạnh phúc cũng như nỗi buồn của cá nhân con người là góp phần nâng cao giá trị của con người, bồi dưỡng nhân cách và hoàn thiện con người hơn. Bảo Ninh viết về “nỗi buồn chiến tranh”, “nỗi buồn tình yêu”, về một thời đã qua không bao giờ trở lại. Đọc tác phẩm này chúng ta hiểu con người đau khổ, trăn trở, nhận thức như thế nào về quá khứ, về chiến tranh, về những gì được mất trong cuộc đời. Đó là một bước tiến trên con đường hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam – con đường đi tới diễn tả số phận tinh thần của con người, tăng thêm chiều sâu tư tưởng, nâng cao vai trò của chủ quan nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật. Trong ý nghĩa đó, cùng với cách viết văn tỉnh táo, giàu chất suy nghĩ, say đắm chất trữ tình, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh xứng đáng là “thành tựu rực rỡ nhất của văn học thời đổi mới” (Nguyên Ngọc).

Học sinh có thể so sánh, đối chiếu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xacủa Nguyễn Minh Châu và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh để thấy được sự gặp gỡ trong cái nhìn hiện thực của hai nhà văn. Viết Chiếc thuyền ngoài xa, với quá trình nhận thức của nhân vật Phùng, với một hiện thực ngổn ngang và bề bộn bày ra trước mắt người nghệ sĩ nhiếp ảnh, cảnh người đàn ông đánh đập người đàn bà hàng chài, cảnh đứa con sẵn sàng cầm dao và lao tới đâm người bố, Nguyễn Minh Châu đã cho thấy đằng sau tấm huân chương chiến thắng mà dân tộc ta đã giành được là một hiện thực bề bộn và nghiệt ngã, là những dối trá ngọt ngào, một điều thất tín đã khoét sâu thêm những mất mất tưởng như không còn nữa. Cuộc chiến tranh giải phóng đất nước đã hoàn tất, nhưng cuộc chiến tranh giải phóng con người khỏi nghèo nàn, lạc hậu, bạo lực gia đình thì vẫn còn đó. Dai dẳng, quyết liệt và lâu dài. Không hoàn toàn giống nhau về chủ đề, nhưng tác phẩm của Nguyễn Minh Châu và Bảo Ninh đều bắt nguồn từ cảm hứng xót xa, nhức nhối trước những nỗi đau cả về vật chất và tinh thần mà con người phải trải qua thời hậu chiến, đều bắt nguồn từ thông điệp muốn thức tỉnh, thức nhận người đọc về ý nghĩa thực sự của chiến tranh, hình hài thực sự của chiến thắng, nhìn lại để mà vượt lên, để mà vươn đến một cuộc sống ý nghĩa hơn và hạnh phúc hơn. Kiên là nhà văn, Phùng là nhiếp ảnh, cả hai đều là hiện thân cho người nghệ sĩ. Nhưng nếu Kiên là người trong cuộc, như bao nhiêu người khác, Kiên đã ra đi, đã tiêu tán cuộc đời cho chiến tranh, cho lý tưởng, để rồi trong một phút định thần ngoảnh lại, Kiên “đứng lặng ngắm toàn cảnh đời mình đang mất đi, đang trôi xa, đang vĩnh biệt chính mình”, Kiên thấu hiểu đến tận cùng nỗi đau và mất mát mà chiến tranh mang lại cho chính mình, cho Phương, cho đồng đội và cho bao người phụ nữ đi qua cuộc đời Kiên. Phùng thì khác, thuộc Những người đi từ trong rừng ra (tên một tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu), nhưng Phùng vẫn nhìn cuộc đời và con người thời hậu chiến bằng cái nhìn định kiến và đơn chiều, Phùng không hiểu nếu cuộc đời thời bình là một “khối vuông rubich” thì con người là “tháp Bayon bốn mặt”. Thông qua hành trình nhận thức từ chưa đầy đủ đến đầy đủ, từ sai lệch đến đúng đắn của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn đối thoại với người đọc bao vấn đề nhân sinh, đối thoại với lớp nhà văn đương thời về hành trình sáng tạo nghệ thuật, vì lẽ đó mà Chiếc thuyền ngoài xa mang một giá trị lớn lao không thể phủ nhận.

Có thể thấy, việc đọc hiểu tác phẩm văn học Việt Nam ngoài chương trình sách giáo khoa là điều cần thiết đối với học sinh chuyên Văn. Sự tích lũy kiến thức văn học theo từng giai đoạn, từng tác giả sẽ làm giàu thêm vốn hiểu biết của các em về văn học. Một bài văn sẽ được đánh giá cao khi bên cạnh những yêu cầu về kỹ năng làm bài, bài viết đảm bảo sự phong phú về kiến thức. Càng mở rộng kiến thức ngoài sách giáo khoa, học sinh càng có điều kiện hiểu sâu hơn những tác phẩm quy định trong chương trình. Bởi, ta có thể xem tác phẩm sách giáo khoa như một trục tọa độ để từ đó, học sinh có thể tìm hiểu các tác phẩm khác theo trục tung hay trục hoành tùy thích, miễn sao cái đích cuối cùng của sự đọc là vun đắp thêm cho vùng kiến thức văn học Việt Nam của các em ngày một dày thêm.

2.2.2 Đọc hiểu tác phẩm văn học nước ngoài

Mặc dù những tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào chương trình sách giáo khoa không nhiều nhưng vẫn mở ra bức tranh toàn cục về văn học thế giới từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Những tác giả văn học nước ngoài được chọn giảng dạy đều có tầm vóc, tiêu biểu cho phong cách thời đại và điều quan trọng hơn, họ là đại diện cho nền văn hóa nhân loại. Lâu nay, có một thực tế đáng buồn, hầu như học sinh chúng ta ngay cả học sinh chuyên đôi khi cũng ít quan tâm đến mảng văn học nước ngoài, vì đó là những tác phẩm không nằm trong trọng tâm kiến thức của các kỳ thi. Chính việc “cưỡi ngựa xem hoa” trước những tài năng văn học thế giới đã khiến học sinh đánh rơi những điểm sáng văn học, mà nếu như cố công tìm hiểu và nhận thức một cách đầy đủ, các em sẽ nắm vững hơn về các trào lưu văn học trên thế giới, hiểu sâu hơn các vấn đề về lý luận… Từ đó, chúng ta hiểu hơn vai trò của việc đọc hiểu các tác phẩm văn học nước ngoài ngoài chương trình đối với học sinh chuyên Văn.

Trong trào lưu văn học hiện thực chúng ta không thể không nhắc đến những tên tuổi của những nhà văn nổi tiếng trên thế giới như Honore’de Banlzac, Lev Tolstoy, A Chekhov…Việc tìm hiểu những tác phẩm của những nhà văn hiện thực nước ngoài sẽ giúp cho học sinh hiểu hơn về những trang viết của những nhà văn hiện thực Việt Nam, cũng như nắm vững hơn về chủ nghĩa hiện thực. Với cảm hứng chủ đạo là cảm hứng phê phán, chủ nghĩa hiện thực phê phán có mặt ở Anh, ở Nga vả cả ở phương Đông sau này. Chủ nghĩa hiện thực cảm nhận thế giới một cách khách quan với những chi tiết cụ thể, xác thực. Nhà văn hiện thực chủ nghĩa coi trọng quan sát, khảo sát, phân tích lí giải một cách chặt chẽ, lạnh lùng. Nếu chủ nghĩa lãng mạn khẳng định vẻ đẹp bất khả chiến bại của tâm hồn con người, con người không bị chi phối bởi hoàn cảnh sống thì chủ nghĩa hiện thực khẳng định tính qui định của môi trường xã hội với bản chất và đặc điểm con người. Các nhà văn hiện thực luôn đặt con người trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể rồi hình thành tích cách nhân vật trên cơ sở hoàn cảnh điển hình đó, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Để rồi từ đó, nhân vật nổi loạn ra đời, họ hành động như những gì họ muốn, vượt ra ngoài suy nghĩ va sự sắp đặt của chính nhà văn. Những nhà văn hiện thực bao giờ cũng tôn trọng quy luật khách quan, logic nội tai của tính cách cũng như sự phát triển nội thân của tính cách. Bằng quan niệm này, chủ nghĩa hiện thực miêu tả tính cách là sản phẩm của hoàn cảnh, tạo nên tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình (Anna Karenina, Vronsky, Karenin… đều là sản phẩm của hoàn cảnh sống, họ bị tác động, bị thay đổi, bị tha hóa bởi hoàn cảnh). Đời sống nội tâm của con người được các nhà văn hiện thực miêu tả theo một quá trình có quy luật khách quan. Đó là lí do vì sao, viết về chủ đề tình yêu, thứ tình yêu tưởng như tồn tại vĩnh viễn sau biết bao nhiêu khổ sở để đến được bên nhau, nhưng rồi Tolstoy cho thấy tình yêu lại cũng nhanh chóng bị giết chết bởi những mệt mỏi, ghen tuông, tầm thường, ông đã để cho Anna Karenina- hiện thân cho vẻ đẹp vĩnh hằng của sự sa ngã- lao vào đầu tàu hỏa và kết liễu cuộc đời mình. Đó là sự nghiệt ngã của số phận hay theo logic phát triển của xã hội buộc Anna phải làm thế, bởi trong thời đại lúc bấy giờ những tình yêu đích thực, những khao khát mãnh liệt và nồng cháy của con người lại không được xã hội chấp nhận? Ta có thể thấy những đặc điểm của trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa in đậm trong tiểu thuyết này của Tolstoy.

Giáo viên có thể định hướng cho học sinh đọc hiểu tiểu thuyết Anna Kareninacủa Lev Tolstoy. Trong tiểu thuyết Anna Karenina, Tolstoy đã thông qua tác phẩm của mình phơi bày hai hiện thực: hiện thực xã hội và hiện thực tình yêu. Cuộc sống hiện lên trong trang viết của ông sống động, tươi mới như những gì chúng đang có. Không phải ngẫu nhiên mà Matthew Arnold đã cho rằng, đó không chỉ là nghệ thuật, mà đó là một phần cuộc sống. Tolstoy đã bày ra trước mắt người đọc một nước Nga ngổn ngang sau cải cách với những tầng lớp, các lực lượng xã hội tiêu biểu như quý tộc quan lại, con buôn thực dụng, tầng lớp trí thức… Trong tác phẩm, nhà văn đã bày ra biết bao nhiêu thói tật của xã hội thượng lưu Nga lúc bấy giờ với những trò tiêu khiển xa hoa, man rợ, những buổi tiệc hào nhoáng, lối sống đạo đức giả, những cuộc ngoại tình ngang nhiên. Những người như Karenin là điển hình cho những người cứng nhắc trong suy tính, trong công việc và đối xử. Hắn là con đẻ của xã hội chuyên chế. Hắn hòa mình trong xã hội thượng lưu nhưng lại lạc lõng, sống nghi ngờ, co mình trong chính xã hội ấy. Hắn sẵn sàng làm ngơ cho sự ngoại tình của Anna chỉ với một điều kiện phải giữ kín đáo, phải che giấu bên trong sự danh giá nề nếp… Ở hiện thực tâm hồn, nhà văn càng khoét sâu hơn bi kịch tình yêu. Nhân vật nổi loạn Anna sống với tất cả khát khao mãnh liệt trong tình yêu, nàng muốn bứt phá quẫy đạp để thoát ra cuộc sống giả dối phô trương của giới thượng lưu, thoát ra khỏi sự háo danh, lòng mong ước thành đạt đến độ bất chấp giả dối của Karenin. Nàng muốn sống hết mình trong tình yêu với Vronsky. Có điều, cái tình yêu ấy cũng đã tan vỡ theo tất yếu của nó, và tác phẩm kết thúc, cuộc đời nàng kết thúc trong bi kịch.

Tìm hiểu nhân vật Anna Karenin, học sinh có thể liên tưởng đến nhân vật nữ trong văn học hiện thực Việt Nam từ góc nhìn thiên tính nữ. Anna Karenin là một sự bùng nổ về tính cách và tâm hồn. Đó không phải là mẫu nhân vật lý tưởng mà Tolstoy đề cao nhưng đó lại là nhân vật được ông yêu thương, bên vực. Nàng sống với tất cả sự chân thực, cuồng nhiệt, không toan tính, mặc kệ dư luận, tôn giáo… Tình yêu của nàng bất chấp mọi định kiến như sự bù đắp những đè nén, yêu thương giả dối mà nàng phải chịu đựng bấy lâu. Khác vơi Anna, Thị Nở của Nam Cao lại vừa là nạn nhân vừa là hiện thân của định kiến xã hội. Thị đã mang cái nhìn định kiến của xã hội không thuộc về Thị để phủ đạp lên Chí Phèo, cắt đứt tia hi vọng mới nhen nhóm trong tâm hồn Chí. Thị Nở không thể vượt ra ngoài định kiến. Bao nhiêu khao khát yêu đương trong tâm hồn người đàn bà xấu xí ấy không đủ mạnh mẽ để vượt qua ranh giới xã hội. Đây chính là bi kịch của Thị Nở, là dẫn đến bi kịch của Chí Phèo, biến Chí trở thành con người đáng thương nhất- đến tình yêu của một người đàn bà vốn bị gạt ra rìa xã hội hắn cũng không thể có được. Có điều, khám phá hiện thực ở bề sâu, người đọc vẫn có thể nhận ra nét nữ tính, sự khát khao tình yêu, sự thất bại trong tình yêu của cả Anna Karenin và Thị Nở. Họ đều là hiện thân của những người phụ nữ bất hạnh, là nạn nhân của xã hội… Nhìn chung, ta có thể bắt gặp sự tương đồng của Anna Karenin với nhiều nhân vật nữ khác ở sự khát khao yêu đương và bi kịch tình yêu.

Tìm hiểu văn học Việt Nam trong sự đối sánh, liên hệ với văn học nước người là điều không thể thiếu đối với một bài học sinh giỏi. Chẳng hạn như khi học thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… học sinh không thể không biết đến những tác giả thơ tượng trưng Pháp như C.Baudelaire, P. Verlaine, A.Rimbaud… Nhắc trường phái thơ tượng trưng, người ta nghĩa ngay đến Baudelaire – người khơi nguồn đã để lại cho nhân loại một tuyệt phẩm in đậm phong cách tượng trưng Những bông hoa Ác. Đứa con tinh thần đã đưa nhà thơ lên đỉnh cao “có chỗ ngồi rộng nhất và cao nhất trong lịch sử thơ ca” [17, tr36]cũng đã từng khiến ông không ít phiền toái và lận đận bởi sự ngỗ nghịch “xúc phạm thuần phong mỹ tục” của nó. Trong bức thư gửi Baudelaire, V.Hugo đã ca ngợi “Những bông hoa Ác của bạn đã tỏa sáng và chói lòa như những vì tinh tú”[17, tr36]. Vậy, điều gì đã làm nên sự chói lòa đến vậy? Có lẽ, điều này xuất phát từ bản lĩnh của người nghệ sĩ khi ông đã vượt qua những định kiến thẫm mỹ để có thể mỹ hóa cái Ác, cái Xấu, mang đến cho người đọc những khoái cảm thẫm mỹ khác lạ, mới mẻ với lối tư duy tương hợp, cùng lớp ngôn ngữ biểu tượng, đầy gợi cảm. Tác phẩm đã vượt qua quan niêm thẫm mỹ thông thường, biến cái Ghê tởm thành cái Đẹp. Chúng ta có thể tìm kiếm được sự liên hệ giữa Thơ Baudelaire và thơ Hàn Mặc Tử. Nói như Lê Huy Oanh, Baudelaire chỉ lưu ý tìm kiếm cái Đẹp mà bất cần quan tâm cái Đẹp đó phát nguyên từ Thượng đế hay quỷ sa tăng. Còn Hàn Mặc Tử là một người sùng đạo Thiên Chúa nên cho rằng, điều gì trái với quy luật của Thượng đế đều không phải là cái Đẹp. Có điều, đọc Thơ Điên, người ta bắt gặp những hình ảnh thơ ma quái, ghê gớm…tuy nó cất lên từ thân phận đau thương của Hàn Mặc Tử nhưng ở góc độ mỹ học, nó vẫn tượng trưng cho nỗi đau, sự giằng xé trong tâm hồn và thể xác thi nhân. Nó bật ra từ cảm xúc thẩm mỹ của Hàn Mặc Tử và tìm được sự rung cảm nơi người đọc. Hay khi nhắc đến tính nhạc trong thơ Mới, học sinh cần biết về P. Verlaine – người đã đi vào con đường tượng trưng với một thể nghiệm riêng – mang nhạc vào thơ. Với hai tập thơ Lễ hội yêu đươngTình ca không lời, Verlaine đã tạo nên cuộc hôn phối tuyệt vời giữa thơ và nhạc… Thơ Xuân Diệu có không ít bài thơ thể hiện sự huyền diệu của âm thanh. Đó là sự luyến láy của vần điệu, tiết tấu, thanh điệu trong thơ. Âm nhạc trong thơ tượng trưng không chỉ đơn giản là thanh âm hay điệu luật thuần túy mà còn là cứu cánh trong thơ, giúp thơ năm đc điều huyền bí, tinh vi của thế giới, lòng người. Học sinh có thế vận dụng quan niệm này để đọc hiểu Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ, Xây mơ của Nguyễn Xuân Xanh, Ước ao của Hàn Mặc Tử, Nguyệt Cầm, Nhị hồ của Xuân Diệu, Nhạc sầu của Huy Cận… Có thể nói, với quan niệm thơ tân kỳ, thơ tượng trưng Pháp đã tạo nên một lực hấp dẫn thu hút nhiều thế hệ thi sĩ mà trong đó phải kể đển các nhà thơ Mới ở Việt Nam. Đó là nơi hội ngộ giữa thơ ca truyền thống và tư duy hiện đại phương Tây, là nơi thơ có thể thoát li xa lánh những phiền hà của cuộc đời, là nơi cái Đẹp được mở rộng đến biên độ của cái kỳ dị, lạ lùng, siêu thoát, là nơi thi sĩ hóa người Say, người Mơ, người Điên. Hiểu được Những bông hoa Ác của Baudelaire, hay Tình ca không lời của Verlaine… học sinh sẽ hiểu thêm về thơ Đàn ghita của Lorca của Thanh Thảo…hay những lý luận hiện đại về Thơ.

Nhìn chung, việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình đôi với học sinh chuyên Văn là cần thiết. Sau ba năm học chuyên Văn, hành trang của các em không chỉ là kết quả thi THPT QG, không chỉ là những giải tỉnh, giải Quốc Gia mà có thể là một hệ thống kiến thức văn học đầy đủ, phong phú. Những năm học ở trường Phổ thông đối với học sinh rất có ý nghĩa, có những kiến thức còn theo em suốt cả cuộc đời. Bồi bổ cho các em một nền tảng kiến thức giáo khoa là cần thiết, nhưng bên cạnh đó định hướng các em đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cũng là điều không thể thiếu. Đó cũng là cách đưa các em gần hơn với Văn học, yêu hơn những giá trị văn hóa quý báu của nhân loại. Giữa nhịp sống hối hả của thời đại, tình yêu văn chương sẽ là sợi dây níu con người gần hơn với nhân tính, giữ chặt con người giữa lằn ranh xấu – tốt , cao thượng – thấp hèn…

2.3 Phương pháp đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình

Ai cũng thấy tầm quan trọng của việc đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình, có điều, đọc như thế nào…phải chăng là một vấn đề khiến không ít người trăn trở?! Làm thế nào để có một phương pháp đọc hiểu thực sự có hiệu quả, hợp lý, không tràn lan là điều chúng ta cần bàn bạc.

Trước hết, việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cần có sự định hướng của giáo viên. Tuy rằng, việc tự học ở nhà của học sinh rất quan trọng nhưng công việc tự đọc hiểu sẽ phát huy được hiểu quả khi nó được thực hiện một cách bày bản và có định hướng. Giáo viên có thể giao công việc ở nhà cho các em theo khoảng thời gian như trong một tuần, học sinh nên đọc tác giả nào với những tác phẩm nào nhất định. Đọc hiểu không chỉ đơn giản là đọc giải trí, đọc cho biết, qua loa lấy lệ mà phải là hoạt động đọc sáng tạo. Việc đọc hiểu cần ghi chép vào vở tự học theo tác giả, tác phẩm theo một mô hình chung mà giáo viên có thể định hướng sẵn. Chẳng hạn như mô hình sau đây là một gợi ý sơ lược nhất cho học sinh khi tự học:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trên cơ sở mô hình đó, học sinh lần lượt tìm ra những mạch ngầm thẫm mỹ, lần lượt tìm ra sợ dây liên hệ với những vấn đề học trong chương trình. Mô hình đọc hiểu tác phẩm trên là định hướng chung, cơ bản nhất dành cho tất cả học sinh khi tiếp cận với một tác phẩm mới. Giáo viên cần có lịch kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ và theo dõi sự quá trình đọc hiểu của các em thông qua vở tự học. Riêng mức độ đọc hiểu ở cấp nâng cao thì phụ thuộc phần lớn vào năng lực cảm nhận của mỗi học sinh. Đối với việc dạy học sinh giỏi, điều quan trọng là giúp các em tự khám phá được những nét riêng, mới mẻ, không giống với các bạn mình. Bản thân người giáo viên cũng phải chấp nhận sự không đồng đều của học sinh trong quá trình tự đọc hiểu. Bởi, trong một bài làm văn, những kiến thức tự đọc hiểu của các em sẽ tạo nên điểm khác lạ so với những bài văn khác, sẽ là điểm nhấn để có thể làm nên sự đột phá bất ngờ.

PGS.TS Đỗ Ngọc Thống quan niệm “Mục đích của dạy Văn thực chất là dạy cách đọc hiểu, cách giải mã văn bản” [16, tr92]. Trên cơ sở đọc hiểu tác phẩm trong chương trình, giáo viên cần có định hướng phù hợp cho học sinh trong việc tiếp cận những tác phẩm ngoài chương trình. Trước hết, cần chọn lọc tác phẩm trên cơ sở những tác giả trong chương trình, sau đó có thể mở rộng ra đối với những tác giả cùng giai đoạn văn học, đến những tác giả cùng một phương pháp sáng tác …Việc đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị cho mình nhiều kiến thức về văn học sử, về thể loại văn học và về tác giả văn học… Đó là chiếc chìa khóa vạn năng giúp người đọc dễ dàng tiếp cận tác phẩm. Học sinh nếu nắm vững những kiến thức nền sẽ có sự định hướng trong cách đọc và cách hiểu. Bên cạnh đó, cần dạy học sinh cách tiếp cận, giải mã văn bản văn học phải đi từ việc giải mã cấu trúc ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, thể loại văn học thông qua một hệ thống câu hỏi đọc hiểu. Câu hỏi đọc hiểu sẽ khác với những câu hỏi thông thường khi nhiệm vụ của chúng là lần lượt khơi gợi, giúp học sinh dần nhận biết dấu hiệu nghệ thuật, và xâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Câu hỏi đọc hiểu thường theo cách cấp độ: câu hỏi nhận biết, câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi khái quát, so sánh, liên tưởng, câu hỏi mở rộng nâng cao vấn đề… Mục đích của hệ thống câu hỏi này nhằm phát huy tính sáng tạo, quan điểm cá nhân, tính mới mẻ của các em khi tiếp nhận tác phẩm. Việc tự đặt câu hỏi cũng là một kỹ năng quan trọng đối với việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình. Giáo viên có thể cho học sinh một hệ thống các câu hỏi theo mô hình chung từ dễ đến khó để học sinh tự hỏi, tự trả lời trong quá trình tiếp cận tác phẩm ngôn từ mới mẻ. Ở một khía cạnh nào đó, những phương pháp trên góp phần giúp định hướng học sinh tự đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình một cách bày bản và có hiệu quả.

Khi đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình, cần giúp các em đọc xuyên suốt theo một hệ thống xuyên suốt từ văn học dân gian, văn học trung đại, văn học giai đoạn 1930 – 1945, văn học 1945 – 1975 và văn học sau năm 1975. Mỗi giai đoạn văn học giáo viên có thể nhấn mạnh cho học sinh những tác giả tiêu biểu trong chương trình, từ đó giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của những tác giả đó. Trong mỗi giai đoạn văn học, ngoài tác giả quan trọng trong chương trình, giáo viên có thể giới thiệu thêm những tác giả khác cùng trường phái sáng tác…. Đọc hiểu có hệ thống là một yêu cầu không thể thiếu trong công việc đọc hiểu. Chính phương pháp đọc này giúp học sinh có một hệ thống kiến thức khá phong phú, vững chắc. Cái đích của hoạt động đọc hiểu là vận dụng trong quá trình viết văn nên với cách đọc này, học sinh sẽ dễ dàng so sánh, đối chiếu, liên tưởng khiến bài viết mình sâu sắc hơn, chặt chẽ hơn.

Đối với học sinh chuyên Văn, một vấn đề không thể không nhắc đến chính là kiến thức lý luận văn học. Bên cạnh đọc hiểu theo mô hình giáo khoa như trên, giáo viên nên định hướng học sinh đọc hiểu theo thể loại. Mỗi thể loại văn học sẽ có một cấu trúc nghệ thuật riêng, những vấn đề lý luận riêng. Học sinh cần phải hiểu được mỗi tác phẩm văn chương là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh với những tầng cấu trúc khác nhau từ ngôn ngữ, hình tượng, cấu trúc tư tưởng thẫm mỹ. Đọc hiểu theo loại thể là sự soi chiếu các các vấn đề lý luận văn học vào trong mỗi tác phẩm trong quá trình đọc hiểu. Đây là cách đọc hiểu nâng cao, không chỉ đọc để nắm kiến thức văn học mà biết vận dụng trong các vấn đề lý luận. Đọc tác phẩm truyện, học sinh cần quan tâm đến các yếu tố như ngôi kể, người kể, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu trần thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật… từ đó rút ra chủ đề, giá trị thẫm mỹ của tác phẩm. Đối với tác phẩm trữ tình, hoc sinh cần soi chiếu dưới các vấn đề lý luận về thơ như nhân vật trữ tình, ngôn ngữ trữ tình, giọng thơ, tính nhạc, hình ảnh thơ… Trong chương trình phổ thông, học sinh còn được học các tác phẩm Kịch nhưng Kịch vốn có những đặc điểm riêng và tương đối khó đối với năng lực cảm nhận học sinh trung học, từ thực tế tiếp thu của học sinh trong quá trình giảng dạy, người viết thường chỉ định hướng học sinh đọc hiểu tác phẩm thuộc hai thể loại: tự sự và trữ tình. Đối với tác phẩm Kịch, học sinh chỉ cần nằm vững lý luận thể loại và tác phẩm trong chương trình.

Trên đây là những phương pháp chung về đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình được rút ra từ thực tiễn giảng dạy học sinh chuyên Văn. Những phương pháp này còn rất sơ lược, và chắc chắn sẽ được bổ sung hơn nhiều trong quá trình giảng dạy.

 

 

 

 

CHƯƠNG 3

VÀI THIẾT KẾ BÀI GIẢNG RÈN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHYÊN VĂN

3.1Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử

1.Chuẩn bị bài dạy

Chân dung nhà thơ Hàn Mặc Tử và một số nhà thơ Mới tiêu biểu khác, một số bài thơ tiêu biểu khác của Hàn Mặc Tử.

Máy chiếu.

Chuẩn bị những bài nghiên cứu liên quan đến Hàn Mặc Tử.

  1. Thiết kế bài dạy cụ thể

2.1. Kết quả cần đạt

Kiến thức: giúp HS cảm nhân được vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân và hiểu được tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đồng thời, HS nắm sâu sắc hơn về phong cách thơ Hàn Mặc Tử.

Kĩ năng: Đọc- hiểu một bài thơ thuộc phong trào Thơ Mới

Thái độ: HS biết chia sẻ, đồng cảm và trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của tâm hồn yêu đời, yêu người thiết tha, vẻ đẹp của nghị lực sống mãnh liệt của một nhà thơ có cuộc đời bất hạnh.

  • Khởi động giờ học

Cho HS xem chân dung HMT và một số nhà thơ mới khác.

GV đánh giá về sự nghiệp thơ, tài năng HMT.

Đặt một số câu hỏi liên quan đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nhằm kiểm tra hiệu quả của quá trình đọc hiểu tác phẩm HMT trong nhà trường.

Giới thiệu bài thơ Mùa xuân chín

Gợi ý:

HMT được đặc trưng bởi phong cách “thơ điên”. Cùng với Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín được xem là một trong những bài thơ trong sáng nhất của nhà thơ. Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh có nhận xét về thơ HMT: “Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói”.

Hoạt động dạy học

HS cả lớp đọc thầm bài thơ trên màn chiếu

GV hỏi:  Hãy cho biết đề tài của bài thơ này? Nêu ấn tượng về nhan đề bài thơ?

  • Đề tài mùa xuân. Cảm hứng thiên nhiên là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo của phong trào Thơ Mới. Nhan đề bài thơ là một sự sáng tạo ngôn ngữ: Mùa xuân chín. Không phải là mùa xuân nho nhỏ hay mùa xuân xanh, ở đây, chúng ta ấn tượng với từ “chín” khi kết hợp với “ mùa xuân”. Mùa xuân đã biến thành một thứ quả ngon chín trong thiên nhiên trời đất. Ngay cái tên bài thơ đã tạo sự hấp dẫn bởi hình ảnh mới lạ. Vậy, đó là cái chín của tình hay cái chín của cảnh, hay cả hai? (câu hỏi mang tính gợi mở định hướng cách đọc của học sinh để tìm ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ)

GV hỏi: nhận xét về thể thơ (kết hợp kĩ năng phát hiện của HS)

  • Bài thơ có cấu trúc cổ điển gồm 16 câu thất ngôn, chia làm bốn khổ tứ tuyệt. Đây là một thể thơ cổ nhưng lại được sử dụng bởi một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Vì vậy, nhịp điệu, hình ảnh, hơi thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ trung đại và thơ hiện đại. Sự kết hợp này có thể được tìm thấy ở các nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… đó cũng là diện mạo của Thơ mới.

GV hoặc HS đọc diễn cảm bài thơ

Câu hỏi định hướng tìm hiểu chung

+ Hoàn cảnh, xuất xứ của bài thơ ? ( nhằm ôn tập lại kiến thức về tập thơ Điên)

  • Mùa xuân chín được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm), cùng tập thơ với Đây thôn Vĩ Dạ. Thơ Điên đã nêu lên phong cách đặc trưng của thơ Hàn. Đó không phải là cái điên của bệnh lý mà là trạng thái xuất thần trong sáng tạo, một trạng thái thăng hoa, tuôn trào mãnh liệt của cảm hứng thi ca. Điều này đã làm cho thơ Hàn vừa thực lại vừa mộng, mang màu sắc siêu thực.

+ Nhận định về bài thơ, có ý kiến cho rằng, bài thơ là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Em có đồng tình với nhận định ấy không? Vì sao?

  • Đồng tình. Nếu Xuân Diệu là giọng thơ của niềm ám ảnh thời gian, thơ Huy Cận là giọng thơ của niềm ám ảnh không gian thì HMT đến với thơ mới bởi niềm mặc cảm bởi sự chia lìa, mặc cảm bởi số phận bất hạnh. Thơ Hàn luôn là sự kết hợp giữa tình yêu và sự mặc cảm. à Định hướng giọng đọc: vừa say sưa, tha thiết vừa thổn thức, bâng khuâng.
  1. Đọc- hiểu theo cấu trúc hình tượng nghệ thuật – bức tranh mùa xuân

Câu hỏi phát hiện: Mùa xuân đã hiện lên qua những yếu tố nào? Đọc nhanh qua cả 4 khổ thơ, ta có thể thấy mùa xuân hiện lên qua những yếu tố như cảnh vật, âm thanh, màu sắc. Mùa xuân cũng chính là yếu tố liên kết những hình ảnh ở toàn bài.

+ Nhà thơ tập trung ở hình ảnh của nắng, gió, cỏ, mái nhà tranh, cô thôn nữ… Đây là những hình ảnh thơ dân dã, trữ tình.

+ Mùa xuân còn được cảm nhận qua âm thanh: gió, tiếng hát. Đó là những thanh âm nhẹ nhàng, tinh tế, tươi vui.

+ Màu sắc: những gam màu hiền hoà, nhẹ nhàng: màu vàng của nắng, màu biếc của áo và màu xanh của cỏ.màu chủ đạo là màu xanh, màu của sức sống, sự xuân sắc.

Từ đó, HS cảm nhận chung nhất về bức tranh mùa xuân: Mùa xuân hiện lên qua sự nhẹ nhàng, gần gũi, tươi vui với sự chắt lọc của hình ảnh thơ.

Câu hỏi khám phá: Điều gì đã làm nên một mùa xuân rất riêng của HMT (vận dụng từ đọc ở tầng cấu trúc ngôn từ cho đến đọc hiểu tầng cấu trúc hình tượng)

  • Câu hỏi này đòi hỏi HS đọc kĩ, đọc phân tích từng khổ, dừng lại ở những chi tiết cảnh vật ấn tượng để tìm ra cái hay, cái đẹp bức tranh mùa xuân của HMT. Định hướng: chú ý đến những hình ảnh thơ mang tính “ lạ thường”,đặc biệt chú ý đến cách dùng từ độc đáo, các biện pháp tu từ được sử dụng. GV gợi dẫn, đặt câu hỏi để HS phát hiện.

Liên hệ: trong Đây thôn Vĩ Dạ, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ rất riêng bằng cụm từ “mướt quá” ( gợi nhắc lại cho HS hiệu quả thẩm mỹ của từ này).

Gợi ý:

  • Nắng: không phải là cái nắng thông thường mà là “làn nắng ửng” khiến “khói mơ tan”. Từ “ ửng” khiến nắng vừa đủ dịu dàng, vừa đủ tinh khôi lại vừa đủ sự ấm áp để xua tan đi sương lạnh.
  • Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng: “ đôi” gợi nên sự ấm cúng, thân thuộc. Màu vàng “ lấm tấm” rất đỗi nhẹ nhàng và hài hòa với khung cảnh.
  • Gió trêu tà áo biếc: độc đáo ở cách dùng từ “trêu”. “Gió” được nhân cách hoá thành để trở nên có cá tính hóm hỉnh, biết trêu đùa. “sột soạt”đặt ở đầu câu thơ bằng biện pháp đảo ngữ có tác dụng nhấn mạnh thanh âm vui tươi. Gió và tà áo biếc như quấn quýt lẫn nhau.
  • Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang: hình ảnh gợi nên một sự ngưng đọng của khoảnh khắc thời gian: bóng xuân sang. Như vậy, gió, nắng đã báo hiệu cho bước đi của bóng xuân. Câu thơ độc đáo ở chỗ nó chính là cái ngập ngừng của những câu thơ hài hòa trước đó. Mùa xuân trở thành nàng xuân, vừa có cái nhẹ nhàng, thỏ thẻ; vừa đến bất ngờ đầy mê hoặc.
  • Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời: và mùa xuân cứ thế mở ra cùng sóng cỏ. sóng cỏ gợn tới trời gợi nên sức sống của cảnh vật, không gian xanh trải dài mênh mang như một tấm màn vô tận, chiếm lĩnh không gian

Liên hệ: “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… để tìm thấy sự khác biệt trong cách diễn đạt của HMT.

GV hỏi: Em hãy nêu cảm nhận về sự miêu tả tiếng ca trong bài thơ này?

Gợi ý:

  • Bao cô thôn nữ hát trên đồi: như được nâng đỡ bởi sóng cỏ xanh tươi, sự xuất hiện của “ tiếng hát” trở nên trong trẻo, tự do, khoáng đạt lạ thường. Đó là thanh âm của sự hồn nhiên, yêu đời, một nét đẹp dân dã như những câu dân ca, tiếng hát của người lao động hồn hậu và nữ tính. Cần phải thấy rằng cùng với trăng, thôn nữ – gái quê là những nhân vật thuộc mỹ cảm của Hàn Mặc Tử, xuất hiện với tần số nhiều trong thơ ông. Và càng đẹp hơn khi những cô thôn nữ đến với mùa xuân chín qua tiếng hát.
  • Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi: ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Độc đáo ở “ vắt vẻo”, cực tả sự mềm mại, trong trẻo của tiếng ca.
  • Hổn hển như lời của nước mây: vừa mềm mại, vừa thổn thức
  • Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc: lại vừa kín đáo, thì thầm

Như vậy, tiếng ca ấy hiện lên độc đáo với nhiều cung bậc cảm xúc: vắt vẻo, hổn hển và thầm thĩ. Nhà thơ đã cảm nhận chung nhất về tiếng ca ấy: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”: quá đỗi dân dã, tình tứ và đáng yêu. Tiếng hát của bao cô thôn nữ cũng chính là tiếng hát của sự trẻ trung, niềm hi vọng, nhiều ẩn ý nhưng vẫn rất đỗi ngây thơ, vô tư, yêu đời. Tiếng ca dường như đã mang giai điệu đặc trưng của mùa xuân chín.

Đọc tích hợp: so sánh với bức tranh mùa xuân trong những thi phẩm của những nhà thơ mới khác để tìm thấy nét đặc trưng trong mùa xuân chín của HMT: một mùa xuân hài hòa, quá đỗi trong trẻo, tinh khôi. Như vậy mùa xuân đã “ chín” bằng sự tinh khôi ấy, cái chín của sự đong đầy, viên mãn.

  1. Đọc – hiểu theo tầng tư tưởng thẩm mỹ: “ tình chín trong xuân”

GV Định hướng: thơ Hàn luôn là sự kết hợp giữa cảnh và tình. Cảnh xuân đã phô diễn, vậy đâu là tình xuân? Bên cạnh hình tượng mùa xuân còn có một hình tượng khác: hình tượng của nhân vật trữ tình. Đó chính là cánh cửa để chúng ta thâm nhập vào cái tôi trữ tình và cũng là tâm hồn, tâm sự của thi nhân.

GV yêu cầu HS đọc kĩ lại tác phẩm một lần nữa để phát hiện ra mạch cảm xúc thơ

Gợi ý

+ khai thác qua sự liên kết các hình ảnh thơ: dòng tâm tư bất định: nếu đọc theo cấu trúc hình tượng mùa xuân, có thể thấy Mùa xuân chín là một mạch liên tưởng. Nhưng nếu đọc theo dòng tâm tư, có thể thấy bài thơ vẫn có những hình ảnh thơ rời rạc. Đến đây, GV có thể định hướng cho HS tìm ra một tính chất nữa của hình ảnh thơ HMT. Đó là chất mộng, hay nói các khác là sự kết hợp giữa thực và ảo trong thơ Hàn.

Từ hiện tại trở về quá khứ, từ say xuân cho đến tiếc xuân. Chú ý vào những câu thơ mang sắc thái bâng khuâng trong bài thơ:

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

Như vậy, mùa xuân chín còn tượng trưng cho tuổi xuân của con người. Tuổi xuân sắp qua, thời thiếu nữ ngây thơ vì vậy cũng sắp tàn. HMT đã không thể giấu được sự bâng khuâng, tiếc nuối về tuổi xuân, sự ám ảnh về thời gian trong những câu thơ này.

Liên hệ:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già  ( Xuân Diệu)

GV hỏi: em hãy phát hiện dòng tâm tư bất định ấy trong bài thơ Mùa xuân chín?

Gợi ý:

Bất định về thời gian: hiện tại – tương lai, hiện tại – quá khứ

Bất định về cảnh sắc: từ ngoại cảnh chuyển dần sang tâm cảnh

Bất định về mạch cảm xúc: say sưa trước mùa xuân bỗng tiếc nuối, hẫng hụt

+ khai thác qua hình ảnh con người:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Câu hỏi: hình ảnh con người hiện lên qua những chi tiết nào. Thảo luận: theo em, hình ảnh “chị ấy” trong bài thơ là ai? Là mẹ, là chị hay là một người thương?

  • Cái bí ẩn trong thơ Hàn. Chị ấy chính là điều ràng buộc, là nỗi nhớ, sự dan díu của nhà thơ với quê hương và với cả mùa xuân.

Liên hệ: câu thơ Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Mặt chữ điền là mặt của ai?

GV bình: cái tôi trong thơ HMT là cái tôi của những ám ảnh bệnh tật, cái tôi khát khao được giao hòa với cuộc đời nhưng lại sống cô đơn tron sự cách biệt.

Câu hỏi tự bộc lộ: GV định hướng HS thể hiện những cảm nhận về tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Đồng thời, khơi dậy ở HS sự đồng cảm, sẻ chia cùng với cuộc đời bất hạnh của HMT.

Hoạt động tổng kết

+ hướng tổng kết: cái tôi trữ tình của nhà thơ được hình thành từ những nguồn nào? ( từ cuộc đời, từ ngoại cảnh, từ tâm hồn,…)

+ mạch cảm xúc trữ tình chạy xuyên suốt bài thơ là gì?

+ qua bài thơ Mùa xuân chín, GV cho HS một lần nữa hiểu hơn về phong cách thơ HMT, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn bài thơ Đây thôn  Vĩ Dạ.

Bài tập ở nhà:Học sinh tiến hành hoạt động đọc hiểu các tác phẩm thơ Mới ngoài chương trình như Nguyệt Cầm ( Xuân Diệu), Nắng Mới ( Lưu Trọng Lư), Buồn đêm mưa ( Huy Cận) như mô hình đã hướng dẫn và soạn vào vở tự học.

3.2Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Thu ca 1– C.Baudelaire

THU CA

Sắp chìm ngập trong bóng đen lạnh lẽo

Vĩnh biệt hè ngắn ngủi nắng chang chang !

Tôi nghe thấy ngàn tiếng vang ảo não

Củi đổ ầm trên đá lát ngoài sân

 

Đông xâm nhập vào hồn tôi: khủng khiếp,

Giận dữ, căm hờn, lao động khổ sai

Như mặt nhật ở cõi âm thê thiết

Trái tim tôi, khối đỏ, giá băng rồi.

 

Máy chém dựng chỉ ôm sầu day dứt

Lạnh run người gỗ nặng bộn bề rơi

Trí óc tựa chòi, tháp xưa đổ sập

Cầm cự sao sức công phá liên hồi !

 

Đung đưa theo tiếng rền vang đơn điệu,

Tưởng đâu đây ai đóng gỗ quan tài

Bữa qua hè còn, hôm nay thu tới

Khúc lên đường như thúc hối bên tai.

Trần Mai Châu dịch –

  1. Thiết kế bài giảng đọc hiểu bài thơ Thu ca 1 trong trường nhìn đối sánh với các bài thơ trong phong trào Thơ Mới (Trường hợp Vội Vàng– Xuân Diệu).

1.1. Chuẩn bị bài dạy

Chân dung nhà thơ Charles Pierre Baudelaire

Máy chiếu, máy vi tính, projector để chiếu lên bài thơ Thu cacủa Baudelaire (bản gốc và bản dịch).

1.2. Thiết kế bài dạy cụ thể

1.2.1. Kết quả cần đạt

– Kiến thức: Giúp HS hiểu được cảm thức cô đơn, sự luyến tiếc, xót xa và nỗi bất lực đối với dòng thời gian tuyến tính của cuộc đời.

– Kĩ năng: Hướng dẫn HS cách đọc hiểu một tác phẩm văn học nước ngoài, từ đó đối sánh với các tác giả nổi tiếng trong văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào Thơ mới 1930-1945.

– Thái độ: Giúp HS cảm thụ trọn vẹn nỗi lòng của nhà thơ, trân trọng những thổn thức trong cái nhìn đời, nhìn người của thi sĩ Baudelaire.

1.2.2. Khởi động giờ học

– Cho HS xem ảnh và đoán tên các thi sĩ nổi tiếng trên thế giới (Tagore, Puskin, Lý Bạch, Baudelaire)

– GV đánh giá ngắn gọn về sự nghiệp sáng tác, tài năng của nhà thơ Charles Pierre Baudelaire và sự ảnh hưởng của ông đến các vần thơ của Xuân Diệu.

Giới thiệu bài thơ Thu ca I

1.2.3. Hoạt động dạy học

– GV gọi HS đọc diễn cảm bài thơ

– GV đọc lại bài thơ cho HS lắng nghe.

Câu hỏi định hướng: Dựa vào phần chuẩn bị ở nhà, em hãy cho biết bài thơ Thu ca nằm trong tập thơ nào của tác giả ? được tác giả gửi gắm cho ai ?

– HS trả lời. GV nhận xét, đánh giá: bài thơ Thu ca I nằm trong tập thơ nổi tiếng Ác hoa (1857) của nhà thơ Baudelaire, bao gồm 2 phần: Thu ca I và Thu ca II. Đây là bài thơ mà tác giả gửi tặng người tình Marie Daubrun của mình.

Câu hỏi định hướng: Theo em, một bài thơ tình gửi tặng người yêu thường sẽ có những cảm xúc như thế nào ?

GV gợi ý: thông thường, những bài thơ tình thường được các nhà thơ gửi gắm tình yêu trong sâu thẳm trái tim mình, nên những câu thơ thường rất lãng mạn, trau chuốt, mềm mại. Thế nhưng, những câu thơ trong Thu ca I lại không hề như thế.

– Cả lớp đọc thầm bài thơ 1 lần nữa.

Câu hỏi đọc hiểu: Cả lớp đọc nhanh khổ thơ đầu tiên, tìm ra và gạch chân những hình ảnh thơ có giá trị mà em thấy.

GV gợi ý: các hình ảnh “bóng đen”, “nắng”, “ngàn tiếng vang”, “củi- đổ ầm”

Câu hỏi khám phá: Hai hình ảnh “bóng đen lạnh lẽo” và “nắng chang chang” có mối quan hệ như thế nào ? Em cảm nhận được điều gì từ hai hình ảnh này?

Hoạt động bình của GV: Bóng đen (câu 1) >< nắng (câu 2) => Hai hình ảnh đối lập thể hiện hai sắc thái khác nhau của mùa đông và mùa hè. Tác giả đang đứng giữa ranh giới nối hai bờ đông- hạ, đó là mùa thu. Dù quỹ thời gian của các mùa trong hiện thực khách quan có sự tương ứng (đều kéo dài khoảng 3 tháng), nhưng trong tâm thức của nhà thơ, mùa hè thật “ngắn ngủi”. Phải chăng, mùa hè với những đặc thù của mình: ánh sáng, sức nóng- chính là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của tác giả. Từ đó, có thể suy ra điều ngược lại, mùa đông- chính là khoảng thời gian tăm tối đối với thi nhân.

– Bóng đen lạnh lẽo => chuyển đổi cảm giác: “bóng đen”: được nhìn thấy bằng thị giác, “lạnh lẽo”: được cảm nhận bằng xúc giác. Ý nói mùa đông.

– Ngàn tiếng vang ảo não: âm thanh gãy đổ của những bó củi được xếp chồng ngoài sân, báo hiệu những cơn gió đầu mùa đã về. Sự khắc nghiệt của mùa đông đã đến.

Hoạt động thảo luận nhóm: Từ nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ đầu tiên của Baudelaire, theo em, thi nhân nào trong phong trào Thơ Mới ở nước ta đã vận dụng thành công nghệ thuật này ? Hãy chứng minh bằng cách đọc các câu thơ có sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác của nhà thơ mà em chọn.

– Các nhóm đưa ra ý kiến qua người đại diện.

GV nhận xét và đánh giá câu trả lời: Liên hệ đến nhà thơ Xuân Diệu, cụ thể là bài thơ Vội vàng. Đáng chú ý là hình ảnh thơ: “Tháng giêng ngon như một gặp môi gần” vô cùng táo bạo, trẻ trung mang phong cách riêng của Xuân Diệu. Nhà thơ dùng hình ảnh cụ thể của con người – “cặp môi gần” để so sánh với đơn vị thời gian trừu tượng là “tháng giêng”, gợi sự liên tưởng đầy trẻ trung, sống động, đầy sức quyến rũ của mùa xuân. Hỗ trợ vào đó là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân không chỉ đẹp mà nhà thơ còn cảm nhận được hương vị của nó qua từ “ngon” (vị giác). Hay trong câu thơ “Mùi tháng năm đã rớm vị chia phôi”. Từ “rớm” được sử dụng rất đắt, lột tả một cách ngoạn mục nỗi niềm tiếc nuối, day dứt đầy thống khổ của thi nhân. Cuộc gặp gỡ trong thi pháp nghệ thuật của Baudelaire và Xuân Diệu dù mang nét riêng không trộn lẫn nhưng cũng đầy thi vị như thế !

Câu hỏi kích thích tư duy: Em hãy đúc kết nội dung của khổ thơ đầu tiên ?

Hoạt động gợi ý: Khổ thơ đầu tiên là màn dạo đầu của ngoại cảnh. Tác giả tập trung vào sự thay đổi của không gian thiên nhiên với “bóng đen lạnh lẽo”, “tiếng vang ảo não”, “củi đổ ầm”. Tất cả gợi lên một không khí khắc nghiệt, dự báo những ủ rũ não nề trong tâm tưởng nhà thơ đối với sự xuất hiện của mùa đông. Nhà thơ tỏ ra chán chường với sự chảy trôi của thời gian- một tâm thức đồng điệu với nhà thơ Xuân Diệu.

Câu hỏi đọc hiểu: Em hãy tìm những hình ảnh thơ có giá trị gợi hình gợi cảm ở khổ thơ thứ hai ? Nhận xét các hình ảnh thơ đó và hệ thống từ ngữ được sử dụng trong khổ thơ này.

– HS trả lời. GV gợi ý: Các hình ảnh giàu giá trị gợi hình gợi cảm: “Đông xâm nhập”, “mặt nhật ở cõi âm”, “trái tim”- “khối đỏ”. Các hình ảnh mới lạ, có sức ám ảnh lớn, được sử dụng song song với hệ thống từ ngữ có sắc thái mạnh mẽ, mãnh liệt: “khủng khiếp”, “giận dữ”, “căm hờn”, “lao động khổ sai”, “thê thiết”. Tất cả tạo nên một tổng thể kỳ dị, toát lên sự đau khổ đến cùng cực. Mùa đông như một thế lực đối chọi với chủ thể “tôi”, tâm hồn của chủ thể trữ tình hiện diện đầy thống khổ. Sự sống và cái chết hòa quyện, chỉ còn có “trái tim” đơn độc nơi “cõi âm”. Phải chăng, trong ý niệm của tác giả, hành trình mùa đông là một hành trình khắc nghiệt, nơi mà con tim- dòng máu nóng của một người thi sĩ cũng bị hóa băng đá bởi cái lạnh lẽo. Baudelaire sinh thời đã phải trải qua những năm tháng khốn khổ, ông say mê cái đẹp trong một nền văn minh chỉ biết lợi ích vật chất. “Khối đỏ giá băng” dường như là sự bất lực của người thi sĩ trước ngoại cảnh lạnh lẽo, điêu tàn. Phải chăng, sống trong thời khắc mà mọi thứ chìm ngập trong khô khan, lãnh đạm, trái tim người nghệ sĩ khó có thể đập theo những âm hưởng rạo rực của chính mình?

Hình ảnh “trái tim” trong Thu ca I dường như đồng điệu với hình ảnh “cánh chim” trong bài thơ Chim hải âu mà ông từng viết:

“Người thi sĩ như (chim hải âu,) đế vương trên chín tầng mây

Chim bay trong bão táp và nhạo cười kẻ dương cung bắn ;

Bị đày xuống mặt đất giữa những tiếng la ó,

Hai cánh khổng lồ ngăn trở bước chân chim.”

Sứ mệnh của người thi sĩ dưới ánh nhìn bi quan với kết cục đau đớn chính là tâm thức luôn ám ảnh nhà thơ. Đối với Baudelaire, sự phản ứng dữ dội với “mùa đông” trong tác phẩm Thu ca không phải chỉ là một sự buồn chán đơn giản, chóng qua hay một nỗi buồn nhẹ nhàng mà là nỗi đau đớn trong tâm hồn, là trăn trở về vấn đề hiện hữu trên cuộc đời này, là một nỗi lo sợ siêu hình khó lý giải.

Và Xuân Diệu cũng đồng cảm với Baudelaire ở nỗi buồn thế hệ này. Ta từng nghe:

Nỗi đời cơ cực giơ nanh vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ

Câu hỏi kích thích tư duy: Em nhận thấy sự khác biệt nào ở khổ 1 và khổ2?

GV gợi ý: Nếu khổ 1 miêu tả những chuyển biến về ngoại cảnh thì khổ 2 tập trung xoáy sâu những biến động trong tâm hồn thi nhân.

Câu hỏi khám phá: Em hãy tìm các yếu tố nghệ thuật và nêu giá trị của chúng ?

– HS trả lời. GV nhận xét, bổ sung: Cách ngắt nhịp ở khổ thơ thứ 2 dồn dập, đứt gãy hơn khổ 1 (câu 1: 3-3-2, câu 2: 2-2-4, câu 3: 3-3-2, câu 4: 3-2-3) giúp âm điệu của toàn bài thơ mãnh liệt, mạnh bạo. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các biện pháp: nhân hóa (“đông xâm nhập”), đảo cấu trúc (“như mặt nhật…giá băng rồi”) làm lạ hóa tứ thơ. Những dòng thơ trở nên ngông cuồng, tràn ngập sự thảng thốt.

Câu hỏi đọc hiểu: Từ những hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật đã nêu, em hãy đúc kết nội dung của khổ thơ thứ 2 ?

– Từ những thanh âm của ngoại cảnh, nhà thơ chìm ngập trong “bóng đen” mùa đông. Dường như, khi ánh hạ chớm tắt, nhà thơ đã thấy ngay sự “xâm nhập” nhanh như cắt của “nữ hoàng băng giá”. Tiết trời mùa thu trong đôi mắt của Baudelaire sao mà ủ rũ, mà não nề, mùa thu đối với nhà thơ chính là sứ giả của mùa đông khắc nghiệt. Từ những cảm nhận của thính giác, tác giả đã chuyển hóa thành những xúc cảm tinh vi trong tâm khảm hồn mình.

– Nếu quan niệm về thời gian trong thơ cổ được tính theo chiều vĩ mô: nghìn thu, thiên thu, ngàn đời, vạn năm thì thời gian trong thơ của Baudelaire (theo trường phái chủ nghĩa tượng trưng) được tính bằng thời gian của đời tư, tâm trạng, cảm tính. Và điều này cũng trùng khít với đặc điểm thời gian của Thơ mới. Đặc biệt, trong “Vội vàng”, độc giả sẽ nhìn thấy dòng chảy thời gian sao mà gấp gáp, mà nhanh chóng đến thế:

Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân chết nghĩa là tôi cũng mất”

Bởi lẽ, thời gian trong tứ thơ chính là thời gian của cảm xúc muốn tận hưởng, muốn hòa quyện, muốn say đắm với thiên nhiên, cuộc sống. Cũng như Baudelaire, Xuân Diệu luôn trăn trở, thổn thức về dòng sông thời gian. Ám ảnh về sự tuần hoàn của đất trời luôn dày vò tâm tưởng của mỗi nhà thơ, tạo nên những tứ thơ lạ lẫm, kỳ dị. Nếu đối với Baudelaire, thời gian làm băng giá con tim, thì với Xuân Diệu, thời gian làm phai phôi tất cả. Tuy nhiên, giữa hai nhà thơ vẫn có sự đối lập, điều này được thể hiện ở khổ thơ thứ 3.

Câu hỏi đọc hiểu: Đọc thầm khổ thơ tiếp theo, em có cảm nhận như thế nào về khổ thơ này ?

Hoạt động gợi ý:

+ Khổ thơ là sự lột tả trạng thái suy sụp cả về thể xác lẫn tinh thần của chủ thể “tôi”

+ Khổ thơ là sự ám gợi những day dứt, đau khổ trong tâm tưởng

+ Khổ thơ thể nghiệm cái nhìn của nhà thơ về mùa đông cuộc đời.

HS chọn lựa giữa các ý. GV nhận xét, đánh giá:

– Nếu khổ thơ thứ 1 là sự chuyển biến của ngoại cảnh, khổ thơ thứ 2 tập trung xoáy sâu vào linh hồn thi sĩ; thì khổ thơ thứ 3 là sự giao thoa giữa ngoại cảnh và tâm hồn. Ở đó, từng run rẩy của mây trời, cây cối cũng chính là từng cú tấn công vào trí óc và cảm xúc của chủ thể trữ tình. Phải là một con người nhạy cảm và tinh tế thì mới có thể đau theo từng sự chuyển biến của thời tiết, rạn vỡ theo từng bước tiến của mùa đông. Nhà thơ đã “thức nhọn mọi giác quan” để có thể cảm nhận được từng biến chuyển của thời gian, của thế giới thiên nhiên không ngừng thay đổi.

Câu hỏi khám phá: Baudelaire và Xuân Diệu cũng đều có cảm thức về thời gian mạnh mẽ, nhưng điểm khác giữa hai thi sĩ này là gì?

– Để thấy rõ điểm khác biệt trong tâm thức của hai thi sĩ, cần phải nói thêm Ác hoa là một tập thơ ra đời trong hoàn cảnh xã hội rệu rã. Nhà thơ thường chỉ cảm thấy tởm lợm trước một “đám đông đê tiện” (Recueillement). Điều làm ông bị “tấn công” trước nhất là tính ích kỷ và hung dữ của con người, sự tê liệt về tinh thần, sự thiếu vắng cảm thức cái đẹp và cái tốt lành trong con người. Barbey d’Aurevilly đã coi ông như một “Dante của thời đại suy đồi”. Chính vì thế, trôi nổi trong thơ Baudelaire nói chung và “Thu ca I” nói riêng là một thứ xúc cảm tiêu cực, là vực thẳm của sự thất vọng, chán chường. Đứng trước thời gian không dừng lại của Tạo hóa, Baudelaire chỉ biết thét gào trong tâm tưởng những nỗi oán ghét, căm hờn.

– Đối với Xuân Diệu lại khác, trong bài thơ “Vội vàng”, cũng mở rộng mọi giác quan để thấy được sự trôi chảy tịnh tiến của thời gian, nhưng cảm thức của ông lại tích cực, lại khoái trào tận hưởng hơn bao giờ hết. Bởi đó là sự tiếc nuối, nên muốn “ôm”, muốn “riết”, muốn “say”. Tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên của Xuân Diệu là một tình yêu thanh thuần, nên nó tràn đầy những cảm xúc tích cực và tươi đẹp, từ đó cũng tràn ngập sự sống.

Câu hỏi kích thích tư duy: Hình ảnh “Trí óc tựa chòi, tháp xưa đổ sập” gợi cho em nhớ đến nhà thơ nào trong phong trào Thơ mới:

Hoạt động gợi ý:

  1. Chế Lan Viên
  2. Thế Lữ
  3. Hàn Mặc Tử

HS chọn lựa câu trả lời.

Câu hỏi đọc hiểu: Hãy đọc khổ thơ cuối cùng, tìm những chi tiết có giá trị trong việc biểu ý. Từ đó tìm ra nội dung của khổ thơ cuối ?

– Các chi tiết đáng chú ý “tiếng rền vang”, “quan tài”, “khúc lên đường”.

– Cảm giác bi ai, rầu rĩ. Từ những âm thanh rơi gãy của “củi”, “gỗ nặng”, tác giả liên tưởng đến thanh âm của việc “đóng gỗ quan tài”. Một ẩn ý về triết lý cuộc đời trong hai câu thơ đã hiển hiện khá rõ. Sự thay đổi của thiên nhiên, của thời tiết, của bốn mùa, cũng chính là sự báo hiệu cái chết đối với vạn vật. Từng sự giao thoa, chạm ngõ của vòng tuần hoàn thời gian, chính là thêm một nhát búa cho cỗ quan tài của chính mình. Dòng chảy sinh mệnh được biểu lộ rõ ràng qua dòng thơ thứ 3 “Bữa qua hè còn, hôm nay thu tới”, ý chỉ mỗi ngày trôi qua, là một sự luân hồi. Và chính vì thế, dòng thơ cuối mang bao tâm trạng sầu não: “Khúc lên đường như hối thúc bên tai”.

Câu hỏi kích thích tư duy: Em có cảm nhận như thế nào về tâm trạng của nhà thơ ở khổ thơ cuối ?

– Hoạt động thảo luận nhóm. GV phân lớp thành 4 nhóm nhỏ, sau thời gian thảo luận 3’ GV mời đại diện của từng nhóm lên trình bày.

Câu hỏi khám phá: Em nào có thể thấy được sự giống nhau và khác nhau trong tâm tưởng của nhà thơ Baudelaire và nhà thơ Xuân Diệu qua khổ thơ cuối cùng này ?

 

Hoạt động bình của GV:

– Sự giống nhau: Cả hai nhà thơ đều ý thức được sự mất mát của vạn vật qua cỗ máy thời gian. Nếu Xuân Diệu từng day dứt:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

thì Baudelaire cũng có khúc hát nuối tiếc của riêng mình:

Bữa qua hè còn, hôm nay thu tới

Khúc lên đường như thúc hối bên tai”

– Sự khác nhau: Baudelaire có cảm thức rất mạnh về cái chết, ông cảm nhận được mùi vị của sự già cỗi, của sự yên nghỉ trong hành trình giao mùa của đất trời. “Thu ca” chính là “khúc lên đường” đầy ám ảnh của một tâm hồn nhạy cảm với cuộc đời.

Xuân Diệu cũng vô cùng nhạy cảm với sự “chết”, nhưng để sống không hoài không phí những tháng ngày tuổi trẻ, ông chọn cho mình một nhân sinh quan tích cực: Tận hưởng những mật ngọt cuộc sống, rằng: “Ta muốn say cánh bướm với tình yêu”

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

                              Và non nước, và cây, và cỏ rạng

                              Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

                              – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”

Bài tập nâng cao:

+ BT1: Từ bài học hôm nay, em hãy chọn một điểm tương đồng trong thi pháp, nghệ thuật giữa Thu ca I (Baudelaire) và Vội vàng ( Xuân Diệu), từ đó trình bày điểm giống và khác nhau trong cách sử dụng.

+ BT2: Đọc bài thơ Tương thông (Baudelaire). Có ý kiến cho rằng: quan niệm nghệ thuật trong thi phẩm Tương thôngtrùng khít với quan niệm nghệ thuật của 3 nhà thơ: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê. Em có tán thành ý kiến trên không? Vì sao?

Tương Thông
(Correspodances) 

Thiên nhiên là ngôi đền hàng cột sống
Đôi khi làm phát tiết những ẩn ngôn
Người lãng du qua cánh rừng biểu tượng,
Ánh mắt thân quen chiêm ngắm sáng hồn.

Như âm hưởng từ xa về hòa nhập
Cùng bóng đen của Nhất thể thâm sâu,
Rộng như đêm và bát ngát ánh mầu
Cho hương sắc cùng âm thanh đối đáp.

Có hương thơm tươi nguyên da trẻ nhỏ
Tiếng sáo dịu dàng, đồng cỏ xanh non
Khiến giàu sang và hãnh tiến héo hon,

Điều vô hạn cơ duyên này khai mở
Như oải hương, cánh gián với hương trầm,
Hát trường ca ngây ngất của thân tâm.

Hoạt động tổng kết:

+ Hướng tổng kết: Nội dung bài thơ Thu ca I (cảm thức cô đơn, sự luyến tiếc, xót xa và nỗi bất lực đối với dòng thời gian tuyến tính của cuộc đời,…)

+ Những điểm tương đồng và khác biệt giữa hồn thơ Baudelaire và Xuân Diệu (về nội dung và nghệ thuật)

  • Thiết kế bài giảng đọc hiểu tác phẩm Đôi mắt – Nam Cao

1.Thiết kế bài dạy cụ thể:

  • Tư liêu dạy học

Tuyển tập truyện ngắn Ðôi mắt của Nam Cao, Nxb Kim Ðồng.

  • Kiểm tra việc chuẩn bị bài học và tri thức đọc hiểu của học sinh

GV hỏi và chỉ định học sinh trả lời trước lớp.

+ kể tên các nhân vật trong truyện ngắn Đôi mắt

+ Hãy nêu một vài ấn tượng của em về nhân vật chính trong truyện ngắn

+ Nêu một vài hiểu biết của em về đặc trưng thể loại truyện ngắn

  • Hướng dẫn đọc hiểu cụ thể truyện ngắn Đôi mắt
  1. Đọc hiểu ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ:

– Câu hỏi đọc hiểu:Nêu tóm tắt nội dung truyện ngắn Đôi mắt

HS trả lời

Hoạt động định hướng: Nội dung truyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai nhà văn, là hai người bạn Độ và Hoàng. Hai người đại diện cho hai cách nhìn về người nông dân. Một người chỉ nhìn thấy cái bề ngoài lố bịch, ngu dốt, đáng khinh và đáng cười của người nông dân. Người kia biết vượt qua được hình thức bên ngoài, nhìn thấy những nguyên cớ thật đẹp bên trong của người dân cày. Nam Cao đã làm nổi bật tư tưởng, thái độ cũng như quan điểm của mình qua sự đối lập cách nhìn của hai nhân vật này về người nông dân.

Câu hỏi đọc hiểu:

+ Hoàng và Độ gặp nhau trong hoàn cảnh nào?

+ Nhân vật Hoàng hiện lên trong kí ức của Độ như thế nào?

HS trả lời

Hoạt đông định hướng:

+ Hoàng và Độ là hai người bạn cùng là văn sĩ trong giới văn nghệ Hà Nội. Sau Cách mạng, Độ tham gia phong trào tuyên truyền Cách mạng. Lần này, đến gặp Hoàng với mong muốn động viên người bạn của mình cùng tham gia phong trào Cách mạng, để thay đổi cách nhìn cuộc sống trước đây của Hoàng.

+ Nam Cao đã rất tinh tế trong việc để nhân vật Hoàng hiện lên trong dòng hồi ức của Độ trước khi nhân vật xuất hiện:

  • Nghề nghiệp: Hoàng là một nhà văn đồng thời là một tay chợ đen.
  • Cuộc sống ở Hà Nội: Hoàng có cuộc sống an nhàn, dư giả, giữa trận đói khủng khiếp, ban bè “chỉ còn một dúm xương”, Hoàng vẫn kiếm nổi “mấy lạng thịt bò” cho chó béc giê ăn.
  • Tính cách: Anh ta còn có tật hay “đá bạn”, đố kị với ai nổi hơn mình.

Qua cách miêu tả của Nam Cao về nhân vật Hoàng được bộc lộ ban đầu qua dòng suy tưởng của Độ, ta có thể thấy Hoàng là một kiểu người ưa thích sự an nhàn, hưởng thụ, sống ích kỉ, hơn là hòa nhập với dòng chảy chung của nhân dân, dân tộc.

Câu hỏi đọc hiểu:

+ Tại sao khi nghĩ về Hoàng, Độ đã giành nhiều suy nghĩ đến con chó Bẹc giê của Hoàng?

HS trả lời

GV định hướng

+ Trong hồi ức của Độ, Hoàng là người có sở thích nuôi chó Tây. Con chó Hoàng nuôi là giống chó Đức hung hang, cũng là nỗi sợ hãi của Độ mỗi khi anh đến nhà Hoàng. “ Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình. Không phải vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn. Nhưng xác người chết đối ngập phố phường. Nó chết có lẽ vì chẻn phải thịt người ươn hay vì hút phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó.”

+ Thông qua cách kể của Độ về sở thích nuôi chó của anh bạn mình, đã tô đậm cuộc sống phong lưu, dư giả của Hoàng, ngay khi cả dân tộc đang chìm trong nạn đói khủng khiếp 1945.

+ Độ kể rất tường tận, chi tiết về sở thích nuôi chó Tây của Hoàng, đã mở ra đôi nét phác họa đầu tiên cho bức chân dung nhân vật Hoàng về lối sống xa hoa, an nhàn, thích hưởng thụ, đồng thời cũng cho thấy sự ích kỉ, bàng quan của hắn trước thời cuộc.

Câu hỏi đọc hiểu:

+ Thái độ của Hoàng như thế nào khi Độ đến nhà thăm?

+ Có sự khác biệt nào so với trước kia trong cách đón tiếp Độ?

+ Theo em, Tại sao có sự khác biệt đó?

HS suy nghĩ trả lời:

+ Thái độ của Hoàng tiếp Độ: cả vợ chồng Hoàng đều hồ hởi, vui mừng, tiếp rước Hoàng tận tình, chu đáo.

+ Thái độ trước đó của Hoàng với Độ:lạnh nhạt, thờ ơ, hoàn toàn đối lập với lần này Độ đến thăm nhà.

+ Sự thay đổi trong cách ứng xử của Hoàng với Độ bắt nguồn từ sự thay đổi của hoàn cảnh cuộc sống lúc bấy giờ. Sau khi tản cư, ở nơi nông thôn nghèo nàn, Hoàng như tách biệt với kiểu cách sống phong lưu trước đây, lại cũng bởi hắn khinh thường lối sống của người dân quê mà theo hắn là quê mùa, lỗ mãn ấy, thì xuất hiện của Độ như một “cứu tinh” cho cơn khát khô về những suy nghĩ quan điểm của hắn về cuộc sống vùng quê nghèo này. Với hắn, Độ có thể là nơi cho hắn thoải mái phì ra nỗi khinh bỉ đầy tràn mà không trút được với ai, và hẳn có chút hy vọng để thấy sự đồng cảm. Qua đây, có thể thấy lối sống ích kỉ, giả tạo của nhân vật Hoàng.

b.Hướng dẫn đọc hiểu ý nghĩa tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật:

Lời dẫn của GV:

+ Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan. Nó phản ánh tính khái quát, tính quy luật của hiện thực qua hình thức cá thể, độc đáo, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ trong quá trình nhận thức và tái hiện cuộc sống. Đồng thời hình tượng nghệ thuật cũng là phương tiện để nhà văn có thể chuyển tải thông điệp và tư tưởng của mình.

+ Với Đôi mắt, Nam Cao đã khắc họa hai nhân vật Hoàng và Độ qua vấn đề về cái nhìn trong mối quan hệ tương phản, để truyền tải một tư tưởng lớn lao trong cuộc sống, mà cụ thể trong tác phẩm là cái nh́n của Hai nhân vật về kháng chiên và những người nhà quê.

Câu hỏi đọc hiểu

+ Qua cuộc nói chuyện với Độ, Hoàng đã có những suy nghĩ gì về người nhà quê?

HS trả lời

GV đinh hướng

+ Dưới con mắt của Hoàng thì người dân quê đích thị là những người quê mùa, lỗ mãng, nhiều chuyện, chỉ là những người mà anh phải phì ra nỗi khinh bỉ, và chẳng bao giờ có ý định giao du.

+ Hoàng kể về chuyện người nhà quê: giết một con gà ngày mai cả làng đã biết. Đàn bà chửa mà đến nỗi cho là lưu đạt giắt trong quần. Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế mà đông thấy ai đi thi qua là hỏi giấy. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng lố lăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả dân tân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ…

+ Tiêu biểu nhất có lẽ là đoạn Hoàng kể cho Độ nghe về chuyện người thanh niên vác tre chỉ đường cho Hoàng đến chợ huyện

+ Nam Cao đã miêu tả một cách sống động và chi tiết về thái độ của Hoàng khi kể về người nhà quê, và chỉ bằng một câu miêu tả. Nam cao đã bộc lộ được bản chất của nhân vật: “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngủi thấy mùi xác thối”.

Câu hỏi đọc hiểu:

+ Cái nhìn của Độ về người nhà quê như thế nào?

HS trả lời

GV định hướng

+ Nếu như với Hoàng, người nông dân chẳng có điều gì tốt đẹp thì nhà văn Độ lại có một cái nhìn, một lối sống hoàn toàn khác (…)

+ Trong khi Hoàng nhìn nhận người nông dân là những kẻ tò mò, hay để ý chuyện của người khác thì Độ nhận ra thấy trong hành động ấy là tinh thần trách nhiệm cao của những người nông dân vì cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Với đôi mắt ấy, cái nhìn tin tưởng, trìu mến vì cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Với đôi mắt ấy, cái nhìn tin tưởng, trìu mến với người dân nông thôn. Độ đã đi theo kháng chiến, hòa nhập vào cuộc sống của người nông dân, sống, chiến đấu vì dân tộc.

 Câu hỏi đọc hiểu

+ Theo em, vì sao có sự đối lập trong cái nhìn của Hoàng và Độ về người nhà quê?

HS trả lời

GV định hướng

+ Ở truyện ngắn này, Nam Cao đã thành công trong phép tương phản. Có thể nói toàn bộ tác phẩm được hình thành dựa trên sự tương phản của hai nhân vật Hoàng và Độ.

+ Hoàng chỉ nhìn thấy măt xấu của nông dân, còn Độ đánh giá họ một cách đúng đắn với tình cảm ưu ái, đôn hậu; Hoàng không thèm cộng tác với họ, chỉ giao lưu với đám “cặn bã của giới thượng lưu trí thức”: “Một ông tuần phủ về hưu, một ông đốc học bị thải hồi, một cụ phán già,..), còn Độ lại “mê mải đi sâu vào quần chúng để học hỏi và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ”

+ Thực ra, bên trong vẻ “rụt rè” của Độ là một sự nhận thức vô cùng đúng đắng và sắc sảo, Độ nhìn Hoảng bằng con mắt tinh tường, anh thấy hiểu bản chất sâu xa của con người này và phê phán một cách nghiêm khắc: “Vẫn giữ dôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều càng quan sát lắm, người ta chỉ càng them chua chat và chán nản”. Độ vượt Hoàng ở cách nhìn, mà trước hết ở trách nhiệm của một công dân đối với vận mệnh của đất nước.

+ Nam cao đã xây dựng Độ – đại diện cho những nhà văn tiếng bộ để phủ nhận nhân vật Hoàng – đại diện cho một số văn nghệ sĩ cũ kĩ, lạc hậu. Sự phủ nhận này được thể hiện một cách hết sức âm thầm lặng lẽ nhưng triệt để và sâu sắc. Ở đây, bút pháp tương phản đã mang lại hiệu quả đáng kể, khắc sâu nội dung tư tưởng của thiên truyện.

– Câu hỏi khám phá:

+So sánh các nhân vật người tri thức trong sáng tác của Nam Cao trước và sau năm 1945.

– HS trả lời

– Hoạt động định hướng của GV:

 

Điểm tương đồng Điểm khác biệt
Hoàn cảnh xã hội Bi kịch cá nhân
Trước 1945 Hộ (Đời thừa) Đều là những văn sĩ, có ước mơ có hoài bão.

+ Hộ (Đời thừa) từng ôm ấp một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương và vì nó anh có thể hi sinh tất cả. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên tất cả bờ cõi và giới hạn, bằng cách đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Anh đã từng phát biểu ý kiến trước bạn bè về một giá trị của một tác phẩm văn chương đích thực. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó là cho người gần người hơn.

+  Còn Hoàng (Đôi mắt) có mong ước viết một truyện ngắn ngang tầm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.

sống trong xã hội trước Cách mạng tháng Tám, là xã hộ đã bóp nát mọi ước mơ, mọi khả năng tiềm tàng và mọi điều tốt đẹp của con người, là xã hộ tàn phá tâm hồn, giết mòn sự sống và khát vọng sống có ích của họ. bi kịch của một nhà văn đi tìm kiếm thứ văn chương chân chính nhưng vì cơm áo gạo tiền mà buộc viết thứ văn vô vị nhạt nhẽo, tầm thường, là bi kịch của một người chồng người cha muốn cứu vớt cuộc đời vợ con nhưng không cứu vớt nổi, là bi kịch của một con người mốn sống có ích nhưng thành ra vô ích, muốn sống đầy trọn nhưng lại thành sống thứa.
Thứ (Sống mòn) bi kịch của một nhà giáo, nuôi giấc mộng đem những thay đổi đến cho xứ sở nhưng kết quả lại bệnh tật thất nghiệp, khao khát một cuộc đời rộng lớn, đổi mới thì lại chấp nhận một cuộc sống đơn điệu, mòn mỏi ở một xó ngoại ô nửa tỉnh nửa quê, anh kiếm tình yêu thương giữa người với người thì bản than lại không tránh được những thói quen ích kỉ, nhỏ nhen, tất cả làm nên một bi kịch “ chết mòn về tinh thần”.
Sau 1945 Hoàng sống trong bối cảnh đất nước đã giành được độc lập, con người đã giành được quyền tự chủ, từ bóng tối vươn ra ánh sáng bởi sự khai sáng của Cách mạng. Trong bối cảnh ấy, con người hoàn toàn có quyền sống có ước mơ, có

niềm tin, với tâm thế của một người chủ.

Kiểu nhân vật “Bố vấu”

Bản thân Hoàng không hề nhận ra sự lầm lạc của bản thân trong cách tiếp nhận hiện thực, không nhận ra sự bất hạnh của một cuộc đời bị trôi khỏi dòng chảy thời đại, sự cạn kiệt tình người của một tầng lớp đáng lẽ nên nhận thức sâu sắc hơn cả về “nhân tính”

Độ Độ lại là một nhân vật được xem là hình mẫu lý tưởng của tác giả, khi nhà văn đã trao cho nhân vật “sứ mệnh tuyên ngôn”. Bản thân anh không có bi kịch, theo hệ quy chiếu đương thời, một cuộc đời ý nghĩa là cuộc đời gắn liền với dân tộc và quần chúng. Có chăng ở trong Độ, chỉ tồn tại một nỗi buồn của một người đã nhìn thấy ngọn đuộc lý tưởng nhưng lại không thể dẫn lối cho những “kè mù ương bướng” như Hoàng.

 

 

+ Có thể thấy, Nam Cao là một cây bút có khả năng hòa nhập, thích ứng với sự thay đổi của hiện thực. Cho dù sự khắc họa nhân vât là khác nhau, nhưng qua mỗi nhân vật, ta đều thấy môt nghệ sĩ Nam Cao tài năng, lao động nghiêm túc và thành tâm với nghề.

c.Hướng dẫn đọc hiểu ý nghĩa tầng cấu trúc tư tưởng truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao.

+ Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời.Do yêu cầu của tư duy khái quát, người ta thường đúc kết tư tưởng của tác phẩm bằng một số mệnh đề ngắn gọn, trừu tượng. Thực ra, tư tưởng náu mình trong những hình tượng sinh động, những cảm hứng sâu lắng của tác giả.

Câu hỏi đọc hiểu:

+  Tại sao Nam Cao đặt nhan đề truyện ngắn là Đôi mắt?

+ Nam Cao muốn truyền tải tư tưởng gì qua tác phẩm?

HS trả lời

GV định hướng

+ Nam Cao chọn nhan đềĐôi mắt để đặt cho truyện ngắn là một sự lựa chọn hợp lí và thỏa đáng. Đôi mắt được xem là cửa sổ tâm hồn của mỗi người, nhìn đời, nhìn người. Nó là một kênh công cụ để thu nhận thông tin từ thế giới khách quan để con người có những suy nghĩ, bình giá, nhận định. Hiểu rộng hơn nữa, đôi mắt là một hình ảnh biểu trưng cho nhân sinh quan, thế gian quan, quan niệm của con người về cuộc đời. Truyện ngắn Đôi mắt là thế gian tinh thần để Nam Cao bộc lộ điều đó, khi vận mệnh dân tộc đã bước sang một trang sử mới, sự thay đổi trong quan niệm của nhà văn là điều tất yếu, nên tác phẩm có thể xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Đọc Đôi mắt, chúng ta không chỉ hình dung ra một Hoàng, một Độ, mà còn hình dung ra một Nam Cao hoàn toàn mới so với trước đó, môt con người có lý tưởng, có ước mơ, gắn đời mình với đất nước, quần chúng.

+ Trong khi Hoàng nhìn nhận nông dân là những kẻ tò mò, hay để ý chuyện của người khác thì Ðộ nhận thấy trong hành động ấy là tinh thần trách nhiện cao của những người nông dân vì cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Với đôi mắt ấy, cái nhìn tinh tường, trìu mến với người  dân nông thôn, Ðộ đã thì theo kháng chiến, hòa nhập vào cuộc sống của người nông dân, sống, chiến đấu vì dân tộc.

Gv giúp học sinh rút ra bài học nhận thức và thực tiễn:

+ Qua việc khắc họa hai nhân vật Hoàng và Độ về vấn đề “đôi mắt”, nhà văn đã khám phá ra vấn đề cốt lõi. Một danh nhân đã từng nói : “Hai người cùng nhìn xuống nước, một người chỉ nhìn thấy vũng nước, người kia nhìn thấy các vì sao”. Cách nhìn thực sự quyết định cách cảm nhận cuộc sống. Đừng bao giờ nhìn cuộc sống với cái nhìn tiêu cực, một chiều mà hãy nhìn vào khía cạnh tích cực của nó. Đừng chỉ nhìn thấy khó hang là những thử thách hay thất bại mà hãy biết nhìn nhận khó khăn như là một cơ hội để chứng minh khả năng của bản than và tìm kiếm cho mình những cơ hội lớn hơn. Con người không một ai hoàn hảo, ta có thể nhìn ra thói hư, tật xấu của người khác cũng nên cảm thong và học hỏi từ họ những điều tốt đẹp.

+ Ðôi mắt không chỉ có ý nghĩa trong hoàn cảnh lúc đó mà hơn 60 nãm sau “cách nhìn cuộc sống” đặt ra trong truyện ngắn của Nam Cao vẫn khiến chúng ta phải suy nghĩ, chiêm nghiệm !

Bài tập về nhà

+ Từ vấn đềĐôi mắt trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, và bằng kinh nghiệm bản thân, em hãy viết một bài văn ngắn trình bày về vấn đề “đôi mắt” trong thực tiễn cuộc sống.

1.4. Họat động tổng kết bài học.

+ Bằng việc đặt ra vấn đề cái nhìn, khắc họa qua hai nhân vật Hoàng và Độ, có cái nhìn hoàn toàn khác nhau về kháng chiến, về người dân quê, Nam Cao đã khắc họa thành công hai kiểu nhà văn thời đó đã giúp không ít văn nghệ sĩ “thức tỉnh”, nhân ra con đường đi đúng đắn cho hành trình sáng tác tiếp theo của mình.

+Đồng thời, “đôi mắt” không chỉ có ý nghĩa trong hoàn cảnh lúc đó mà hơn 60 năm sau, “cách nhìn cuộc sống” còn là vấn đề của hiện tại và muôn thuở của con người. Cách nhìn quyết định thái độ, thái độ quyết định ý thức, ý thức quyết định hành vi, hành vi quyết định đến nhân cách mỗi người. Nên trong cuộc sống, cần lựa chọn cho mình cái nhìn đúng đắn, hợp lí với thời đại, chuẩn mực, hoàn cảnh để luôn có quyết định đúng đắn.

1.5 Hướng dẫn học ở nhà

Học sinh tiến hành hoạt động Đọc hiểu thêm các truyện ngắn khác của Nam Cao như Một bữa no, Lang Rận, Một đám cưới, Giăng sáng …để thấy sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật, đồng thời là sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  1. KẾT LUẬN

Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu, có thể thấy định hướng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình đối với học sinh chuyên Văn là khâu đột phá trong việc giảng dạy và học tập môn Văn hiện nay. Bản thân việc đọc đã có nhiều mức độ từ đọc thông, bước hai là đọc kỹ, đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ lại là một trình độ khác, bước thứ ba là đọc hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một mức rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên cái đích là đọc sáng tạo. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa – vốn vượt ngoài tầm kiểm soát của chính tác giả. Muốn hiểu đúng đầu tiên phải tôn trọng tính chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết, đích của văn bản, sự cắt xén, suy diễn, xuyên tạc có ý thức hay không có ý thức đối với ý kiến người khác là căn bệnh thường gặp trên báo chí trong phê bình. Đó cũng là lỗi do nhà trường không chú trọng dạy học trò cách đọc và kỹ năng đọc một cách đúng đắn, khoa học và có đạo đức.

Để hoạt động đọc hiểu thực sự có hiệu quả, người thầy phải nghiên cứu quá trình đọc, tâm lý đọc, điều kiện đọc, phân suất chúng ra thành từng cấp độ và đặt trọng tâm rèn luyện các cấp độ ấy từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp mới tạo cho một chương trình dạy đọc văn có tính khoa học, thoát khỏi cách học đọc thuần túy tự phát, phó mặc cho kinh nghiệm, thói quen dẫn dắt như hiện nay.Tuy nhiên, vấn đề đang bàn ở đây chủ yếu là dạy cách đọc cho học sinh chứ không phải là truyền thụ kết quả đọc của ai đó, bắt học sinh học thuộc. Vấn đề đọc hiểu văn bản không phải thủ tiêu yếu tố giảng của giáo viên. Nó chỉ đưa giáo viên từ người giảng văn trở thành người hướng dẫn đọc văn. Một phương pháp dạy học nào muốn hiệu quả cũng cần có sự hợp tác giữa giáo viên và học sinh, giữa người dạy và người học. Muốn học sinh hợp tác để phát huy hiệu quả tối ưu của phương pháp định hướng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài nhà trường thì giáo viên cần phải là người khơi nguồn cảm hứng, kích thích khả năng đọc, hiểu và thẩm thấu của các em, cập nhật và giới thiệu cho các em những tác phẩm mới, những tác phẩm hay, đó mới thực sự là ý nghĩa của việc dạy và học môn Ngữ Văn mà chúng ta cần cố gắng không ngừng để đạt đến.

Trong việc đổi mới căn bản, toàn diện môn học sắp tới, mong rằng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài nhà trường đối với học sinh chuyên sẽ là một trọng điểm trong chương trình, để giáo viên và học sinh đều đến với môn văn bằng tấm lòng rộng mở, tâm hồn phóng khoáng, không bị gò bó trong khuôn khổ của một trang sách giáo khoa. Càng đọc nhiều, hiểu nhiều, càng thấy môn Ngữ Văn thật sự là môn học thú vị và không hề nhàm chán, đồng thời cũng có tính thực tế rất cao. Đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình sẽ giúp giáo viên và học sinh bắt kịp với sự vận động và phát triển của đời sống văn học, vì vốn dĩ những tác phẩm được in trong sách giáo khoa gần nhất cũng là ba mươi năm về trước, trong ba mươi năm ấy, diện mạo đời sống văn học Việt Nam và thế giới đã thay đổi biết nhường nào?!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. A. Primacop (1976), Phương pháp đọc sách, Nxb giáo dục, Hà Nội.
  2. Aristot (1999), Nghệ thuật Thơ ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
  3. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
  4. Trương Đăng Dung, Chú giải học triết học và kinh nghiệm thẩm mỹ, Tạp chí văn học, số 8/2003, Hà Nội.
  5. Trần Thanh Đạm (Chủ biên) (1971), Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  6. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam (1932- 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
  7. Phan Cự Đệ (2007), Hàn Mặc Tử, về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  8. Nguyễn Thị Hạnh (2002), Dạy học đọc hiểu tiểu học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  9. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
  10. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà Nẵng.
  11. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của Truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  12. Nguyễn Thanh Hùng (1996), Định hướng phương pháp giảng dạy tác phẩm trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội
  13. Nguyễn Thanh Hùng (1996), Văn học tầm nhìn biến đổi, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  14. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  15. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đón và tiếp nhân văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  16. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Kỹ năng đọc hiểu Văn, Nxb Đại học sư pham, Hà Nội
  17. Đặng Hoài (1992), Thơ Pháp nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội
  18. Trần Đình Sử, Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay, nguvan.hnue.edu.vn
  19. Bùi Việt Thắng (2006), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Văn học, Hà Nội
  20. Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
  21. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *