Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 5

Tài liệu Văn

Chuyên đề:

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH

CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

 

 

MỤC LỤC

Nội dung Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Mục đích và nhiệm vụ của chuyên đề 3
3. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Cấu trúc 3
PHẦN NỘI DUNG 4
Chương một: Cơ sở vấn đề 4
I. Cơ sở lí thuyết 4
1. Đọc hiểu văn bản 4
2. Đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình (dành cho học sinh chuyên Văn) 7
3. Phân biệt đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình (dành cho học sinh chuyên Văn) với đọc hiểu trong thi THPTQG 9
II. Cơ sở thực tiễn 11
1. Thuận lợi và khó khăn 11
1.1. Hoạt động dạy của giáo viên 11
1.2. Hoạt động học của học sinh 12
2. Chương trình Ngữ văn dành cho học sinh chuyên Văn 13
Chương hai: Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình dành cho học sinh chuyên Văn 14
I. Đối với giáo viên và hoạt động dạy 14
1. Lựa chọn tác phẩm đọc hiểu tiêu biểu, phù hợp 14
1.1. Tiêu chí lựa chọn 14
1.2. Hệ thống các tác phẩm ngoài chương trình SGK dự kiến sẽ chọn 15
2. Các bước hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm 16
3. Sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả 18
3.1. Phương pháp vấn đáp 18
3.2. Phương pháp thảo luận nhóm 19
3.3. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề 20
3.4. Phương pháp dạy học theo sơ đồ tư duy 21
II. Đối với học sinh và hoạt động học 23
1. Hình thành kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình 23
2. Rèn kĩ năng viết văn từ những kiến thức đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình 25
Chương ba: Một số ví dụ minh họa tiêu biểu 33
PHẦN KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm các môn học xã hội được giảng dạy trong các nhà trường từ Tiểu học đến THCS và THPT. Với đặc thù gắn nhiều với chữ nghĩa, văn bản nên Ngữ văn thường là môn học gây những khó khăn cho HS. Việc trên lớp, cô đọc, trò ghi, việc cần học thuộc những một bài thơ dài, một bài giảng văn toàn chữ đã trở thành mối lo ngại cho nhiều HS. Bởi vậy mà Ngữ văn được biết đến là một môn học vẹt, mất thời gian, khó ghi nhớ. Suy nghĩ đó cứ dần đưa Ngữ văn ra ngoài vòng quay của những môn học đòi hỏi sự tư duy và khám phá. Trong thời đại ngày nay, khi sự giao lưu văn hóa quốc tế được gia tăng, khi điều kiện tiếp xúc các nguồn văn bản được mở rộng hơn bao giờ hết, trình độ văn hóa được đánh giá bằng năng lực nắm bắt, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. Mỗi người HS cần là người biết nắm bắt thông tin nhanh nhạy. Muốn thế họ phải biết đọc, không phải chỉ biết đọc chữ, đọc diễn cảm, mà trước hết phải biết đọc hiểu, qua một văn bản phải biết đâu là chỗ quy tụ thông tin, đâu là câu then chốt thể hiện tư tưởng của tác giả. Quốc gia nào có nhiều người biết nắm bắt thông tin, biết xử lý thông tin thì đó sẽ là một quốc gia mạnh. Muốn cho quốc gia mạnh thì phải biến xã hội của quốc gia đó thành xã hội học. Phải đào tạo mỗi HS ngay từ trên ghế nhà trường thành một người đọc đích thực, đọc chủ động, sáng tạo chứ không phải người đọc a dua, chuyên ăn theo, nói leo một số người nào đó. Điều này càng quan trọng hơn nữa, khi ngày nay các phương tiện nghe nhìn đã cạnh tranh quyết liệt với thời gian đọc, thu hẹp thời gian đọc của mọi người.

Để khắc phục những sai lầm trong lối suy nghĩ đơn chiều về môn học Ngữ văn và để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội hiện đại, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn Ngữ văn đã đặc biệt chú ý đến thao tác đọc, hiểu văn bản. Từ đọc văn bản đến hiểu văn bản là một quá trình logic của tư duy, không có tính chất áp đặt, gò bó. Dạy Ngữ văn không còn và không thể là việc thầy truyền thụ, trò bị động tiếp nhận nữa mà là quá trình thầy hướng dẫn trò cách đọc và cách hiểu văn bản. Khi đó, trò trở thành người đứng ở vị trí chủ động trong việc tiếp cận, cảm nhận và cảm thụ văn bản. Phương pháp dạy và học này sẽ làm cho môn Ngữ văn trở nên hấp dẫn, đòi hỏi ở người học sự tư duy và sáng tạo. Những con chữ, câu từ trong văn bản không còn là những sinh vật vô hồn, cứng đờ trên trang giấy mà đã được sắp xếp thành một trò chơi của tư duy. Ở đó, người đọc có thế thả sức khám phá và thể hiện mình.

Ý nghĩa khám phá đó càng quan trọng đối với những HS chuyên Văn. Các em những HS vốn đã sẵn tình yêu với môn Văn lại có nhu cầu học Văn theo hướng nâng cao, sáng tạo, học Văn là để phục vụ cho những kì thi HSG từ cấp trường, cấp thành phố đến cấp tỉnh và cấp quốc gia. Học Văn với các em càng cần có kĩ năng, tư duy và khả năng cảm thụ sâu sắc, mới mẻ. Các thầy cô giáo vẫn sẽ là những người định hướng giúp các em có những kiến thức nền tảng trên một phông nền về các giai đoạn, thể loại, tác giả, tác phẩm văn học chính. Tuy nhiên, ngoài những kiến thức nền tảng đã được định hướng sâu sắc, HS chuyên Văn còn cần tiếp cận với những tác phẩm ngoài chương trình để có một cái nhìn toàn diện, tổng hợp, theo hướng nghiên cứu văn học hơn. Do đó, rèn luyện, hình thành kĩ năng đọc, hiểu những tác phẩm đó là điều quan trọng với những giáo viên dạy chuyên và HS chuyên Văn.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, đọc, hiểu văn bản không chỉ là một phương pháp dạy và học Ngữ văn tích cực mà còn trở thành một nội dung kiểm tra, đánh giá năng lực HS trong việc tiếp cận một văn bản văn học. Điều này đã được thực hiện trong kì thi THPTQG của Bộ GD&ĐT trong những năm gần đây. Và đối với việc học chuyên thì kĩ năng đọc, hiểu càng cần thiết hơn. Đó cũng là một hướng dạy – học tích cực và một cách tiếp tác phẩm văn học có ý nghĩa mà GV và HS cùng hướng tới trong việc học Văn theo hướng nâng cao, mở rộng. Hướng dẫn học sinh những kiến thức nào, phương pháp ra sao, vận dụng những kiến thức đọc, hiểu đó vào việc làm bài thế nào… đang là những câu hỏi dành cho cả GV dạy và HS học ở các lớp chuyên Văn.

Để phần nào khẳng định rõ hơn ý nghĩa của việc đọc hiểu văn bản trong dạy – học môn Ngữ văn nói chung và góp phần trả lời những câu hỏi về việc rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn, chúng tôi xin phép được trao đổi một số ý kiến.

  1. Mục đích và nhiệm vụ của chuyên đề

Mục đích của chuyên đề: Nghiên cứu, đào sâu một số vấn đề về rèn luyện kĩ năng đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn.

Nhiệm vụ: Tìm hiểu khái niệm, các phương pháp của thao tác đọc hiểu văn bản và nghiên cứu các biện pháp cụ thể rèn luyện kĩ năng đọc hiểu những tác phẩm ngoài chươn trình cho HS chuyên Văn.

  1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng chung của chuyên đề này là HS lớp chuyên Văn.

Đối tượng trực tiếp mà chúng tôi hướng tới là HS lớp 11 chuyên Văn

  1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tôi đã nghiên cứu những tài liệu giáo dục học, tâm lí học, triết học, lí luận văn học, tập làm văn, báo chí… để tổng hợp từ lí thuyết đến các ví dụ minh họa trong bài.

Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và kiểm tra kết quả trực tiếp ở lớp 10, 11 và 12 chuyên Văn của trường. Từ đó chúng tôi đi đến kết luận và đề ra những giải pháp được đề cập trong chuyên đề.

  1. Cấu trúc
  2. Phần mở đầu
  3. Phần nội dung

Chương I: Cơ sở vấn đề

Chương II: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn

Chương III: Một số ví dụ minh họa

  1. Phần kết luận

 

 

 

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG MỘT: CƠ SƠ VẤN ĐỀ

  1. Cơ sở lý luận
  2. 1. Đọc hiểu văn bản

Như chúng ta đã biết, môn Ngữ văn không chỉ có đọc văn, ngoài ra còn làm văn, học các kiến thức bổ trợ khác, nhưng đọc văn vẫn là khâu quan trọng nhất, gắn liền với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, thẩm văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cao đẹp. Tuy nhiên, một thời gian rất dài nước ta môn văn được gọi là giảng văn, sách dạy văn được gọi là Văn học trích giảng, Văn học giảng luận. GS Đặng Thai Mai có công trình Giảng văn Chinh phụ ngâm nổi tiếng. Các GS như Bùi Văn Nguyên, Lê Trí Viễn vừa chủ biên, vừa biên soạn các sách có tên gọi là Giảng văn. Đi theo truyền thống đó, bản thân chúng ta cũng viết giảng văn, bình giảng, phân tích văn học. Trong cách hiểu như vậy, giảng văn chủ yếu là công việc của thầy. Nhiều học trò hồi tưởng lại những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường chủ yếu cũng ghi lại ấn tượng về cách giảng, lời giảng hay của thầy. Giá trị của các bài giảng văn, cũng như vị trí, vai trò của thầy trên lớp và lời giảng của thày là điều không phải bàn cãi, nhưng rõ ràng là vị trí của trò trong môn học văn hoàn toàn là một vị trí bị động, trong lúc thực chất giờ học phải là giờ hoạt động của trò dưới sự dẫn dắt của thầy trên cơ sở SGK và đồ dùng dạy học.

Tuy nhiên, văn bản nghệ thuật nói riêng và các văn bản khác nói chung sáng tạo ra là để cho từng người đọc. Mỗi người đọc phải tự đọc thì hình tượng, cảm xúc, nội dung… mới từ văn bản tác phẩm mà dấy lên trong lòng mình. Người ta không ai thưởng thức hộ cho người khác. Phong cảnh đẹp hay xấu, bộ phim, bài hát, bài thơ hay hay dở… là phải do cá nhân người thưởng thức. Vậy mà bao nhiêu năm qua, thầy giáo làm người thưởng thức văn chương hộ rồi truyền lại, giảng lại, đọc lại cái hay cho HS ghi, HS chép. Đến khi thi, HS chỉ cần thuộc lời thầy, văn thầy là làm được, thậm chí còn làm tốt, được điểm cao… Cách dạy đó đi ngược lại bản chất của văn chương, đi ngược lại nguyên tắc dạy học. Đó là phương pháp khiến HS – người đọc bị cách ly khỏi tác phẩm, không có dịp trực tiếp đối diện với văn bản, do đó không có thói quen tự mình khám phá văn bản và tất nhiên đánh mất luôn năng lực tự học của họ.

Nhìn vào môn Văn ở nhiều nước trên thế giới mới thấy giật mình. Người ta hiểu môn Văn trong nhà trường là môn Đọc văn. Dạy văn là dạy cho HS năng lực đọc, kỹ năng đọc để HS có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho HS năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó, hiểu bản chất môn Văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực của chủ thể là HS.

GS Hoàng Tuệ lúc sinh thời có nói rất đúng: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết không hề giản đơn là kỹ năng của người có văn hóa mà là kỹ năng lao động của con người. Phải có kỹ năng ấy con người mới có thể tham gia thực sự vào hoạt động lao động xã hội hiện đại. Đó là một nhận thức rất sâu sắc. Nội dung khái niệm đọc rất rộng, nhưng cấp độ sơ đẳng nhất người đọc phải nắm bắt đúng thông tin trong văn bản thì mới có thể nói tới các khâu tiếp theo như cảm thụ thẩm mỹ, tiếp nhận giáo dục, năng lực tư duy sáng tạo. Bởi vì giá trị thẩm mỹ, cái hay, cái đẹp như là những thông tin mà mình đã nắm bắt được cho HS, HS học thuộc những thông tin ấy để dùng vào việc làm bài và như vậy trên thực tế HS nói chung là không đọc văn, không tự mình hiểu văn và không có kỹ năng tự đọc văn.

Để xây dựng một chương trình dạy năng lực đọc cho HS, thiết nghĩ cần phải mở rộng biên độ khái niệm văn. Cho đến nay có quan niệm cho rằng môn Văn chỉ nên học thuần túy văn học, nghĩa là chỉ học thơ, truyện, tùy bút, thêm một ít cáo, biểu, văn tế thời xưa… Nhưng không nên hiểu bó hẹp. Lịch sử văn học Việt Nam tính từ thời trung đại là một bộ phận của lịch sử văn hóa, văn minh lâu đời mà nay ta vẫn tự hào. Các tác phẩm ký sự, tựa, bạt, điều trần… đều là các áng văn hay thể hiện ý thức về nhân cách và tư tưởng nhân văn, dân tộc, không thể không học. Ngày nay các áng văn nghị luận, các bài báo sắc sảo, các bài văn khoa học giới thiệu các xu hướng phát triển khoa học công nghệ trong tương lai hoặc tổng kết truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, thiết nghĩ đều là các áng văn HS cần học. Người HS ra trường, hướng về mọi mặt của đời sống chứ không phải chỉ biết có văn học. Khi làm một bài thi tốt nghiệp hay thi vào đại học, người ta có quyền ra đề để sát hạch HS những hiểu biết về xã hội, thời cuộc, ý thức về pháp luật, về người công dân, chứ không chỉ thử tài bình giảng một vài khổ thơ, kiểm tra tri thức về một nhà văn nào đó. Các văn bản khoa học xã hội và khoa học tự nhiên thông dụng cũng đều là đối tượng cần học.

Về khái niệm đọc văn bản văn học nhìn chung có thể xác định với 6 nội dung cơ bản như sau:

– Đọc là hoạt động tâm lí nhằm giải mã văn bản. Một là chuyển văn bản kí hiệu văn tự thành văn bản bằng ngôn ngữ tương ứng với văn bản chữ viết. Hai là giải mã văn bản để tìm ý nghĩa.

– Đọc là hoạt động tìm nghĩa, và vì ý nghĩa là cái không hiển thị rõ ràng nên đọc là hoạt động cảm thụ kết hợp với tư duy nhằm kiến tạo ý nghĩa.

– Đã có vai trò của cảm thụ và tư duy thì đọc là hoạt động mang tính cá thể hoá cao độ, gắn với trình độ, cá tính, trí tuệ của người đọc. Đọc hiểu là tự hiểu. Không ai hiểu hộ được cho ai.

– Sự kiến tạo ý nghĩa xác định đọc là hoạt động sáng tạo.

– Hoạt động tìm nghĩa là quá trình đối thoại với tác giả và cộng đồng lí giải – tính liên chủ thể, tính hợp tác.

– Hoạt động chiếm lĩnh văn bản tất yếu phải xử lí mối liên hệ giữa văn bản đang đọc với trường văn bản xung quanh – tính liên văn bản, hoạt động liên kết văn hoá.

Đọc là tìm ra ý nghĩa trong một thông điệp được tổ chức bằng một hệ thống ký hiệu. Nhưng ý nghĩa là cả một vấn đề rất khó của khoa học nhân văn hiện đại. Người ta phân biệt nghĩa và ý nghĩa. Nghĩa là quan hệ văn bản với cái mà nó biểu đạt, còn ý nghĩa là quan hệ văn bản với người tiếp nhận. Người đọc trước hết phải hiểu nghĩa ròi mới phát hiện ra ý nghĩa của văn bản. Nghĩa của văn bản văn học khác với văn bản phi văn học. Viện sĩ G.V.Stêpanov trong bài đặc trưng của văn bản nghệ thuật đã viết: Nghĩa trong văn bản văn học là một thực tại đã được cải tạo một cách đặc thù gắn liền với chính văn bản ấy, chứ không gắn với cái gì khác. Văn bản nghệ thuật truyền đạt được bằng các lời phát ngôn tương đồng. Nghĩa của nghệ thuật không thể được miêu tả bằng quan niệm ngữ nghĩa độc lập với cách diễn đạt bằng ngôn từ này. Đổi thay cách diễn đạt có nghĩa là kéo theo sự phá vỡ nghĩa của nó hoặc là tạo ra nghĩa mới. Ý nghĩa gắn liền với ngữ cảnh của văn bản.

Muốn đọc hiểu văn bản văn học – khâu quan trọng nhất trong hoạt động đọc thì phải hiểu rằng mọi yếu tố của văn bản đều có nghĩa, các yếu tố đó lại kết thành hệ thống, và cái nghĩa có sức thuyết phục nhất là phù hợp, không mâu thuẫn với bất cứ yếu tố biểu hiện nào. Chỉ nắm lấy một vài yếu tố, bỏ qua, không đếm xỉa tới các yếu tố khác được người xưa coi là suy diễn hay cắt xén – một căn bệnh thường gặp nhan nhản trong các bài phê bình, giảng văn xưa nay. Phải tôn trọng các quy tắc đọc thì mới tạo thành thói quen đọc có có văn hóa, đáng tin cậy.

Vì mọi sự đọc, dù động cơ như thế nào, đều không thoát li được việc tìm nghĩa của văn bản, cho nên mọi sự đọc đều là đọc, hiểu. Khái niệm hiểu bao hàm một phổ rất rộng với nhiều thang bậc khác nhau, bắt đầu từ rung cảm (cảm thấy hay là đã bắt đầu hiểu, dù là chưa giải thích được), đồng cảm, đến hiểu, thưởng thức thẩm mĩ, di dưỡng tinh thần… Xuyên suốt tất cả các khâu đó là sự hiểu. Mọi hệ quả tốt đẹp của văn học đều bắt nguồn từ hiểu mà ra. Hiểu sai, hiểu lệch, hiểu chưa tới, hiểu ngược với ý tác giả thì mọi hậu quả tiếp theo không thể hình dung hết.

Khái niệm hiểu có nhiều bình diện nội dung. Theo cách hiểu thông thường, như trong  Từ điển  tiếng Việt (2004) hiểu có nghĩa là: 1. Nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của cái gì, bằng sự vận dụng của trí tuệ. Hiểu câu thơ. Hiểu vấn đề. Đọc thuộc nhưng không hiểu. 2. Biết được ý nghĩ, tình cảm, quan điểm của người khác. Tôi rất hiểu anh ấy. Một con người khó hiểu. Khái niệm hiểu trong đọc hiểu bao gồm cả hai nghĩa ấy: Hiểu câu thơ. Tôi rất hiểu anh ấy. Lẽ rất giản đơn: Văn là người, hiểu văn tức là hiểu người, đặc biệt là hiểu người khác. Về mặt lí luận học tậphiểu không phải giản đơn chỉ là nhận biết, một tri thức nào đó, tiếp thu và nhắc lại một tri thức có sẵn nào đó theo quan niệm sư phạm tiêu cực: dạy học là truyền thụ tri thức có sẵn cho người học, giống như người ta rót tri thức từ đầu người thầy sang đầu đứa trẻ như thể rót nước từ cái bình này sang cái bình khác. Hiểu thực chất là tự hiểu, nghĩa là làm cho nảy sinh, sinh thành trong ý thưc của người học một tri thức mong muốn, nghĩa là làm thay đổi tính chủ quan của người học. Thực chất của hiểu là năng lực phản tư, phản tỉnh, đọc hiểu là đọc với năng lực phản tư, suy ngẫm những điều đọc được. Dạy đọc hiểu là dạy năng lực phản tỉnh, phản tư cho học sinh. Hiểu bao gồm năng lực nhận ra điểu mình hiểu và điều mình không hiểu. Theo quan điểm của lí thuyết kiến tạo, người học dùng phương thức của mình mà xây dựng sự hiểu của mình đối với sự vật. Từ đó những người khác nhau nhìn sự vật theo những góc độ khác nhau, không có tiêu chuẩn duy nhất cho sự hiểu. Vì vậy trong học đọc, đối thoại, giao lưu, hợp tác học tập làm cho kết quả đọc hiểu được toàn diện. Ở đây theo M.Bakhtin trong bài Phương pháp luận nghiên cứu văn học, không có tiêu chuẩn chính xác, mà chỉ có tiêu chí chiều sâu. Vấn đề là ai hiểu sâu hơn. Tiêu chí chính xác chỉ áp dụng cho tư liệu, trích dẫn chứ không áp dụng cho sự hiểu.

Theo PISA, định nghĩa về đọc và đọc hiểu (reading and reading literacy) có sự thay đổi theo thời gian và điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội. Khái niệm học và đặc biệt là học suốt đời đòi hỏi phải mở rộng cách hiểu về việc đọc hiểu. Đọc hiểu không chỉ còn là một yêu cầu của suốt thời kì tuổi thơ trong nhà trường phổ thông, thay vào đó nó còn trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến thức, kĩ năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn. Quan niệm này của OECD hoàn toàn phù hợp với quan niệm của UNESCO về Literacy: Đó là khả năng nhận biết, thấu hiểu, giải thích, sáng tạo, trao đổi, tính toán và sử dụng những tài liệu viết hoặc in ấn kết hợp với những bối cảnh khác nhau. Literacy đòi hỏi sự học hỏi liên tục cho phép một cá nhân đạt được mục đích của mình, phát triển kiến thức, tiềm năng và tham gia một cách đầy đủ trong xã hội rộng lớn.

Xuất phát từ yêu cầu của xã hội hiện đại đối với mỗi cá nhân và cộng đồng, để đào tạo và chuẩn bị cho xã hội ấy một lực lượng lao động có văn hoá, OECD đưa ra định nghĩa sau đây về reading literacy: Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng và phản hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội. Trong định nghĩa này cần lưu ý: Khái niệm biết đọc như là sự giải mã (decoding) và thấu hiểu (comprehension) tư liệu, bao hàm cả việc hiểu (understanding), sử dụng (using) và phản hồi ( reflecting) về những thông tin với nhiều mục đích khác nhau.

Đọc hiểu là hoạt động của trò, là một khái niệm sâu sắc, phong phú, nhiều mặt và chắc chắn sẽ còn có nhiều kiến giải khác nữa. Tuy nhiên với khái niệm này, muốn dạy đọc hiểu văn học cho HS, đào tạo năng lực đọc hiểu cho các em để các em có thể tự học và tự học suốt đời nhất thiết phải nghiên cứu đổi mới các thao tác dạy học ngữ văn một cách thấu đáo, khoa học, hệ thống, mới mong có hiệu quả. Các phương pháp truyền thống vẫn có thể được sử dụng, nhưng phải đặt trong hệ thống mới, hoà với mục tiêu mới. Đó sẽ là những điều mà các nhà nghiên cứu phương pháp dạy ngữ văn, các GV văn không thể không suy nghĩ để thực sự đổi mới phương pháp dạy Ngữ văn hiện nay.

  1. Đọc hiểu các phẩm ngoài chương trình (dành cho HS chuyên Văn)

          Đúng như cái tên HS chuyên Văn nên những HS theo các lớp chuyên Văn ở các trường chuyên sẽ được học chuyên sâu hơn về bộ môn này. Với HS cấp THPT, học chuyên sâu hơn mới dừng lại ở việc các em được nghiên cứu thêm những tác phẩm văn học, đoạn trích văn học ngoài chương trình chính. Việc nghiên cứu thêm đó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng với các HS chuyên Văn so với các HS các ban cơ bản khác. Được nghiên cứu thêm các tác phẩm ngoài chương trình, các em sẽ có cơ hội được mở rộng vốn kiến thức về tác giả, thể loại hay giai đoạn các em đã được học chính. Điều đó đồng nghĩa với việc các em sẽ có một phông nền kiến thức phong phú, sâu rộng hơn về những vấn đề văn học cần thiết. Từ đó, các em sẽ hiểu rõ hơn về phong cách của một tác giả lớn, đặc điểm của một thể loại văn học, đặc trưng nổi bật của một giai đoạn, thời kì văn học. Và bằng khả năng xử lý của chính mình, các em sẽ vận dụng linh hoạt, hiệu quả những kiến thức mới, lạ đó vào việc nghiên cứu các chuyên đề chuyên sâu, vào việc làm bài, đặc biệt là vận dụng vào những bài thi HSG các cấp, quan trọng nhất là bài thi HSG Quốc gia. Để có những bài thi đạt giải cao trong kì thi HSG Quốc gia, có kiến thức nền vững chắc là chưa đủ, HS cần có kiến thức sâu và rộng. Những bài thi phô diễn được kiến thức một cách khéo léo, thông minh, vừa đủ luôn là những bài có chất lượng cao. Muốn có những bài thi có chất lượng cao như vậy thì việc đọc, hiểu các tác phẩm ngoài chương trình vẫn là rất cần thiết đối với những HS chuyên Văn đích thực khi các em ước mơ chinh phục những tầm cao mới về Văn học.

Trong PPCT của Bộ GD&ĐT dành cho học sinh các lớp chuyên Văn 10, 11, 12, cùng với những tác phẩm đọc hiểu chính đều có các tác phẩm đọc hiểu đọc thêm (bổ sung, mở rộng thêm kiến thức cho những tác giả, thể loại hay giai đoạn, thời kì văn học mới đọc hiểu). Đặc biệt, trong PPCT ở cả ba lớp đều có những chuyên đề chuyên sâu liên quan trực tiếp đến những phần kiến thức học sinh được đọc hiểu trước đó. Phần các chuyên đề chuyên sâu là phần nội dung kiến thức chỉ dành riêng cho những HS chuyên Văn. Phần này đã được Bộ GD&ĐT sắp xếp hợp lý theo sát chương trình học của HS chuyên Văn, nhằm hướng GV tới việc cung cấp cho HS những kiến thức chuyên sâu về một vấn đề văn học cụ thể nào đó. Để đáp ứng cho những chuyên đề chuyên sâu đó, GV và HS ngoài việc đọc hiểu những tác phẩm chính thì cần nghiên cứu và đọc hiểu những tác phẩm đọc thêm. Ví dụ, trong PPCT lớp 10, sau khi đọc hiểu một số thể loại văn học dân gian và hướng dẫn đọc hiểu hai tác phẩm đọc thêm: Đẻ đất, đẻ nước (trích sử thi Đẻ đất, đẻ nước) và Chử Đồng Tử (truyện cổ tích), HS được học chuyên đề Tinh thần nhân văn qua một số truyện cổ dân gian Việt Nam (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện thơ, cổ tích, truyện cười) trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao. Trong PPCT lớp 11, sau khi đọc hiểu chính một số tác phẩm của các tác giả Tản Đà, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính và đọc hiểu các tác phẩm đọc thêm Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Thơ duyên (Xuân Diệu), Tống biệt hành (Thâm Tâm), Chiều xuân (Anh Thơ), HS được học 02 chuyên đề Các tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ mớiCác khuynh hướng thơ tượng trưng, siêu thực trong phong trào Thơ mới. Còn trong PPCT lớp 12, sau khi đọc hiểu chính những tác phẩm của Quang Dũng, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo và đọc hiểu những tác phẩm đọc thêm Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Dọn về làng (Nông Quốc Chấn), Bác ơi (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Đò Lèn (Nguyễn Duy) thì HS lại được nghiên cứu chuyên đề Phong cách một số nhà thơ Việt Nam hiện đại. Việc đơn cử một vài ví dụ tiêu biểu đó đã chứng minh ý nghĩa của những tác phẩm đọc thêm bên cạnh những tác phẩm đọc chính nhằm đáp ứng chương trình học mang tính chuyên sâu cho những HS chuyên Văn.

Tuy nhiên, bên cạnh việc đọc, hiểu những tác phẩm đọc thêm đã có trong PPCT, GV dạy chuyên Văn còn cần tìm hiểu, nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu không có sẵn trong chương trình để hướng dẫn HS đọc hiểu. Việc tìm, chọn lựa và hướng dẫn HS đọc hiểu những tác phẩm đó đòi hỏi người GV cần bám sát PPCT đã có sẵn. Trên cơ sở cung cấp thêm cho sâu và rộng những kiến thức HS đã được học, GV cần chọn lựa những tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc theo các tiêu chí khác nhau và đáp ứng thiết thực cho những chuyên đề chuyên sâu đã được Bộ GD&ĐT cho sẵn. Cùng với đó, việc sắp xếp, phân bố thời gian và lựa chọn phương pháp dạy đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cũng rất quan trọng. Vì là những tác phẩm ngoài chương trình với mục đích là bổ sung, nâng cao kiến thức cho HS nên thời gian dành cho việc đọc hiểu những tác phẩm này là không nhiều và cần được phân bố hợp lí, đồng đều. Điều đó đương nhiên đòi hỏi GV cần lựa chọn phương pháp phù hợp, chủ yếu theo hướng hướng dẫn HS tự nghiên cứu và ghi nhớ. GV là người định hướng, tổ chức và kiểm tra.

  1. Phân biệt đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình (dành cho học sinh chuyên Văn) với đọc hiểu trong thi THPTQG

          Nhắc đến khái niệm đọc hiểu có thể rất nhiều người còn băn khoăn, mờ hồ, thậm chí còn nhầm lẫn, đánh đồng việc đọc hiểu tác phẩm dành cho HS chuyên Văn với đọc hiểu trong thi THPTQG. Tuy cùng thực hiện hai thao tác chính là đọc và hiểu văn bản trên cả hai phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng nhưng giữa đọc hiểu tác phẩm dành cho HS chuyên Văn và đọc hiểu trong thi THPTQG có những điểm khác biệt cơ bản, không thể lẫn lộn.

Những tác phẩm ngoài chương trình dành cho HS chuyên Văn là những tác phẩm hoàn chỉnh đã được GV lựa chọn theo những tiêu chí nhất định sao cho phù hợp với nội dung chương trình học và mức độ yêu cầu kiến thức của HS. Những tác phẩm ấy có thể là một tiểu thuyết đồ sộ như Chiến tranh và hòa bình (Leptonxtoi), Đất (Anh Đức), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)…, một trường ca hàng trăm câu như Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên) nhưng cũng có thể chỉ là một truyện ngắn như Đôi mắt (Nam Cao), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu)… hay một câu ca dao, một bài thơ thất ngôn như Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Cây chuối (Nguyễn Trãi)…  Mỗi tác phẩm đều gắn liền với tên tuổi và phong cách của các nhà văn, nhà thơ tiểu biểu; gắn liền với đặc trưng thể loại; gắn liền với đặc điểm của thời kì hay giai đoạn văn học tương ứng. Còn phần đọc hiểu trong đề thi THPTQG thì ngữ liệu đọc hiểu thường là một bài thơ ngắn, một câu chuyện mini hay một đoạn trích trong một bài báo, một văn bản nghị luận, một văn bản thuyết minh… Văn bản đó thường mang chở một nội dung tư tưởng có giá trị thời đại và giá trị giáo dục đạo đức, nhân cách, tư tưởng cho HS – thế hệ thanh niên, chủ nhân tương lai của đất nước.

Song một sự khác biệt cơ bản nhất giữa đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình dành cho HS chuyên Văn với đọc hiểu trong thi THPTQG là ở hình thức và phương pháp đọc hiểu. Tác phẩm văn học là một tổ chức bằng ngôn từ, xoay quanh một chủ đề nhất định nhằm vào một định hướng giao tiếp nhất định. Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng là một lời nhắn gửi trực tiếp hay gián tiếp, kín đáo hay công khai của nhà văn về cuộc đời và cuộc sống. Bằng sáng tạo nghệ thuật theo phong cách riêng của mình, nhà văn tạo nên một hình thức độc đáo của tác phẩm, chứa đựng một nội dung nhất định, bao gồm yếu tố khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện, chuyển hoá, thâm nhập vào nhau, nhằm gây một tác động đặc biệt đến tâm hồn và tình cảm bạn đọc – đối tượng tạo nên mối liên hệ sinh mệnh của tác phẩm đối với đời sống. Mượn chất liệu ngôn từ, mỗi nhà văn, nhà thơ xây dựng nên những hình tượng văn học. Hình tượng văn học là phương tiện để bạn đọc giao tiếp với tác phẩm văn học. Thông qua hình tượng văn học mà ta có thể hiểu được thế giới nội tâm, tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Nếu không có hình tượng thì không có phương tiện nào để hiểu tác phẩm đó. Đọc hiểu là con đường tìm nghĩa của văn bản văn học. Con đường đó bắt đầu từ việc tìm nghĩa từ phía tác giả, nghĩa là để hiểu biết về tác phẩm, người đọc phải có hiểu biết tối thiểu về tác giả, hoàn cảnh sống của họ. Sau đó là tìm nghĩa trong bản thân văn bản. Văn bản là nơi thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất tư tưởng, quan điểm của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Nghĩa của văn bản thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật và ý nghĩa chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Cuối cùng là tìm nghĩa từ phía người đọc – tính đa nghĩa của văn học. Trong quá trình tiếp nhận văn học, người đọc là kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Người đọc là người khám phá ra giá trị của tác phẩm, giúp tác phẩm sống được với thời gian, bằng liên tưởng, tưởng tượng. Người đọc càng tìm ra nhiều tầng ý nghĩa khác nhau từ tác phẩm thì càng làm cho tác phẩm có giá trị. Bên cạnh đó, ngữ cảnh cũng vô cùng quan trọng khi đọc hiểu nghĩa của văn bản. Ngữ cảnh của một tác phẩm văn học gồm hai ngữ cảnh nhỏ. Ngữ cảnh văn hóa (ngữ cảnh hẹp) là hoàn cảnh giao tiếp trong văn bản. Muốn hiểu và suy ra nghĩa của văn bản, cần phải dựa vào hoàn cảnh giao tiếp. Ngữ cảnh xã hội, lịch sử (ngữ cảnh rộng) là những đặc điểm lớn về thời đại ra đời văn bản văn học đó. Muốn tìm hiểu căn nguyên sâu xa của văn bản, ta phải đặt văn bản vào thời của nó. Tóm lại, trong quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học, nhất thiết ta phải hiểu nghĩa của văn bản ấy. Các yếu tố vừa đề cập ở trên, nhiều khi không bộc lộ trực tiếp dưới dạng suy lý, khái niệm, mà nó thể hiện qua toàn bộ thế giới hình tượng: tính cách, xung đột, không khí, cảnh vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ… Chúng tồn tại trong tác phẩm như những hàm nghĩa của hình tượng. Đề tài, chủ đề, tính cách, sự lý giải, cảm hứng của tác giả… thực chất là những nghĩa ở các cấp độ và phạm vi khác nhau của tác phẩm. Như vậy, qua đọc hiểu tác phẩm văn học, người đọc cần thấy được giá trị đặc sắc của các yếu tố nghệ thuật, nghĩa văn bản của từ ngữ trong cấu trúc văn bản, tạo ra sự hiểu biết thấu đáo về tác phẩm trên cơ sở thống nhất các tiền giả định (vấn đề thể loại, hình tượng, hoàn cảnh diễn xướng, nguyên tắc xây dựng biểu tượng…), tăng cường khả năng kết nối kiến thức nhằm mở rộng hiểu biết. Đọc hiểu cũng là một cách để người đọc vươn tới những chân trời rộng lớn và mới lạ của tri thức nhân loại.

Cùng với lộ trình thay đổi chương trình sách giáo khoa, nội dung giảng dạy và áp dụng phương pháp dạy học hiện đại, phát huy vài trò tự học của HS, Bộ GD&ĐT cũng thay đổi phương thức kiểm tra, đáng giá chất lượng dạy và học mà trước hết là có thay đổi trong cấu trúc đề thi THPTQG. Sự thay đổi cơ bản nhất là trong đề có phần đọc hiểu chiếm 3,0 điểm trong tổng điểm 10,0 của cả bài thi. Với mục đích kiểm tra năng lực đọc văn bản và hiểu văn bản của HS nên trong một đề đọc hiểu, cấu trúc của đề thường gồm ba phần cơ bản: Yêu cầu của đề (đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu sau), trích ngữ liệu và hệ thống câu hỏi. Hệ thống câu hỏi là phần quan trọng nhất của đề thi. Hệ thống câu hỏi trong đề gồm từ 3 đến 5 câu hỏi liên quan trực tiếp đến nội dung, hình thức của nguồn ngữ liệu đã được trích dẫn ở phần trên. Các câu hỏi thường được sắp xếp theo một thứ tự nhất định: từ dễ đến khó, từ câu hỏi bao quát đến câu hỏi cụ thể, từ câu hỏi về nội dung đến câu hỏi về hình thức… Nhiệm vụ của HS là phải trả lời đúng, chính xác lần lượt những câu hỏi mà đề đã đưa ra. Hệ thống câu hỏi có thể xoay quanh những kiến thức cơ bản sau: Phong cách ngôn ngữ chức năng, phương thức diễn đạt, phương thức trần thuật, phương thức miêu tả tâm lý, các biện pháp tu từ, viết đoạn văn… Cùng với những câu hỏi liên quan đến những kiến thức cơ bản trên, đề bài có thể hỏi những câu hỏi liên hệ, mở rộng. Trong cấu trúc của một đề đọc hiểu thì hệ thống câu hỏi là vấn đề quan trọng nhất với một khối lượng kiến thức khá phong phú, các dạng thức câu hỏi rất đa dạng. Vấn đề đối với HS là phải xác định đúng, đề bài hỏi gì và trả lời đúng dựa trên nội dung và hình thức của đoạn văn bản làm ngữ liệu của đề. Vì dạng bài chú trọng vào kiểm trả khả năng đọc văn bản và hiểu văn bản như thế nào nên việc trả lời những câu hỏi là trả lời trực tiếp: hỏi gì đáp nấy. HS cần xác định cho đúng yêu cầu của câu hỏi và trả lời cho trúng, không nên diễn giải dài dòng mất thời gian, loãng ý, thậm chí là lạc ý. Do đó, việc trả lời những câu hỏi cần đáp ứng 3 yêu cầu cơ bản sau: ngắn gọn, đầy đủ, chính xác, không lan man.

  1. Cơ sở thực tiễn
  2. Thuận lợi, khó khăn

1.1. Hoạt động dạy của giáo viên

1.1.1. Thuận lợi

Đa phần đội ngũ GV dạy chuyên đều là những thầy cô nhiệt huyết, có nhiều kinh nghiệm bồi dưỡng HS giỏi, trình độ chuyên môn cao, luôn có ý thức trau đồi, học hỏi kinh nghiệm và kiến thức mới.

Đội ngũ GV chuyên khu vực đồng bằng và duyên hải Bắc bộ có cơ hội tham gia các hội thảo nâng cao chuyên môn, được cọ xát qua các kì thi chọn HSG Tỉnh – Khu vực – Quốc gia.

Bên cạnh đó, các GV chuyên văn còn tiếp cận khoa học kĩ thuật mới nhanh, kịp thời bổ sung liên tục các thông tin xã hội, tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gian tiếp với những vấn đề xã hội bằng nhiều góc nhìn. Từ đó, họ đánh giá các vấn đề xã hội một cách nghiêm túc, sâu sắc và có độ chính xác rất cao.

Mỗi GV chuyên luôn có ý thức tìm tòi, nghiên cứu những tác phẩm ngoài chương trình để nâng cao kiến thức cho bản thân và cung cấp, bồi dưỡng cho HS. Trên cơ sở đó, mỗi GV tự lựa chọn phương pháp giảng dạy đọc, hiểu văn bản phù hợp nhằm tạo hứng thứ cho HS, đồng thời giúp HS có một lượng kiến thức cần thiết cho các kì thi quan trọng.

Hình thức thi HSGQG, bên cạnh việc kiểm tra tư duy và cách giải quyết vấn đề của HS còn đánh giá được mức độ kiến thức chuyên sâu, rộng mở qua việc HS biết khai thác hiệu quả những tác phẩm ngoài chương trình.

1.1.2. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, đội ngũ GV chuyên văn cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình rèn kĩ năng đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn bởi những vấn đề sau:

Lối học thụ động truyền thống đã ăn sâu vào cách dạy học ở các nhà trường THPT dù chuyên hay không chuyên bởi môi trường học ở Việt Nam còn nặng về áp đặt kiến thức. Biểu hiện là GV vẫn truyền thụ kiến thức một chiều, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết giảng, các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khăn trải bàn,… mới chỉ mang tính hình thức. Tương tác giữa GV và HS trong giờ học tương đối ít, hầu như vẫn là hình thức thầy tác động một chiều đến trò là chủ yếu.

Kiến thức văn học trong chương trình khá nặng, thậm chí với chương trình chuyên của ban xã hội – các em còn phải làm quen với những kiến thức có tính hàn lâm, và do sự giới hạn của khung thời gian (một tiết học 45 phút) thì khả năng tự nghiên cứu, tìm tòi đọc hiểu của HS bị hạn chế rất nhiều.

Việc đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn học để có phương pháp phù hợp giảng dạy cho HS đòi hỏi GV phải có một khối lượng kiến thức về nhiều mặt: ngữ cảnh, tác giả, thể loại… Không những vậy, việc hướng dẫn HS vận dụng đúng, đủ và thích hợp những nội dung đã được đọc hiểu ngoài chương trình vào bài viết cũng đòi hỏi người GV những kĩ năng cần thiết.

1.2. Hoạt động học của HS

1.2.1. Thuận lợi

HS chuyên Văn đều có nhận thức tốt. Để là thành viên của các lớp chuyên, hầu hết các em đều phải trải qua kì thi tuyển chọn vào lớp 10. Những HS đã qua chọn lọc đều thể hiện được kiến thức tốt và năng lực tư duy nhanh nhạy. Không những thế, môi trường học chuyên vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện  để các em trau đồi kiền thức và rèn giũa năng lực tư duy.

Là những HS chuyên ở độ tuổi từ 14 đến 18, 19, các em cũng năng động, sáng tạo, dễ dàng tiếp thu và thích nghi với cái mới đặc biệt là những đổi thay trong phương pháp dạy học. Các em cũng có điều kiện tiếp cận kiến thức, quan niệm mới.

Các em học Văn bởi niềm say mê, yêu thích với môn học này. Bởi vậy, các em rất hào hứng với việc có thêm những kiến thức mới về các tác phẩm văn học, thích thú với những văn bản nổi tiếng, mới lạ.

Liên tục trải qua những kì thi tuyển chọn HSG, các em càng có điều kiện tích lũy kinh nghiệm học tập và tư duy.

Người học văn vốn nhạy cảm và cũng rất sắc sảo, có những bạn thể hiện cá tính rất rõ rệt. Nhờ đó, các em sẽ có năng lực đọc hiểu, cảm nhận, cảm thụ văn học rất tinh tế. Thậm chí có em còn có khả năng phát hiện ra nhiều điều mới mẻ, độc đốc trong những tác phẩm mới.

Những điều đó chính là một thuận lợi cho việc hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm người chương trình và khả năng vận dụng hiệu quả những kiến thức đó vào trong các bài viết văn một cách hiệu quả. Nếu khai thác được những lời thế đó, người thầy không chỉ giúp các em thể hiện mình qua những bài đọc hiểu mà con giúp các em hoàn thiện nhân cách, trí tuệ trong quá trình dạy – học văn, là hành trang cho các em bước vào đời một cách tự tin, bản lĩnh.

          1.2.2. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, thực tế cũng tồn tại không ít khó khăn trong quá trình rèn khả năng đọc, hiểu cho HS chuyên Văn. Chẳng hạn như lối học thụ động, tiếp nhận kiến thức một chiều từ các cấp học dưới đã ăn sâu, thành thói quen trong học tập của nhiều em, khiến HS lười, ngại tư duy, động não thực sự. Chính vì thế, trước nhiều tác phẩm văn học mới với nhũng vấn đề mới, lạ hay phức tạp, các em chưa có khả năng đọc, khả năng hiểu và cảm thụ.

Nhiều HS khả năng đọc hiểu, khám phá tác phẩm khá tốt nhưng còn e dè, chưa mạnh dạn thể hiện do còn thiếu tự tin. Cũng có HS, vốn kiến thưc khá rộng, đọc hiểu văn bản có những phát hiện chính xác, độc đáo nhưng lại còn lung túng trong việc lựa chọn, sắp xếp và khai thác các tác phẩm đã được học khi làm bài. Do đó, chất lượng bài viết chưa cao.

Với chuyên đề này, chúng tôi mong muốn đóng góp một số giải pháp đã tích lũy được trong thực tế dạy học để tận dụng những thuận lợi trong quá trình dạy – học cũng như khắc phục những khó khăn để giúp các em phát triển năng lực đọc hiểu văn bản nói chung và năng lực đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình dành cho HS chuyên Văn nói riêng.

  1. Chương trình Ngữ văn dành cho HS chuyên Văn

Chương trình Ngữ văn dành cho HS chuyên là một phần chương trình được Bộ GD&ĐT xây dựng riêng cho những HS lớp chuyên Văn của các trường chuyên trong cả nước. Chương trình được xây dựng trên nền kiến thức chung là kiến thức có trong SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10, lớp 11, lớp 12. Cùng với đó, chương trình còn gồm một hệ thống các chuyên đề tổng hợp và nâng cao kiến thức và được phân phối đều, phù hợp với kiến thức cơ bản của từng lớp 10, 11, 12. Sau đó, với từng Sở GD&ĐT, với từng trường riêng thì chương trình đã được Bộ quy định sẵn sẽ được phân bố, sắp xếp một cách phù hợp. Căn cứ thực tế giảng dạy của trường THPT chuyên Biên Hòa và yêu cầu thi HSGQG lớp 12 có HS lớp 11 dự thi, tổ Ngữ văn đã xây dựng chương trình chuyên cụ thể cho các lớp 10,11,12. Căn cứ vào chương trình chuyên đó, GV lãnh đội sẽ lập Kế hoạch cụ thể đối với lớp của mình. Trong đó có bố trí một cách hợp lý các chuyên đề cùng với các tác phẩm đọc thêm ngoài chương trình và hướng dẫn chương trình chuyên đọc hiểu.

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG HAI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU

TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HS CHUYÊN VĂN

 

  1. Đối với GV và hoạt động dạy
  2. Chọn lựa các tác phẩm đọc hiểu tiêu biểu, phù hợp

1.1. Tiêu chí chọn lựa

Ngoài những tác phẩm đọc chính và những tác phẩm đọc thêm đã được lựa chọn và sắp xếp hợp lý theo PPCT trong SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10, 11, 12 thì những GV dạy các lớp chuyên còn cần nghiên cứu, chọn lựa thêm những tác phẩm ngoài chương trình, SGK để giảng dạy cho HS giúp các em có một phông kiến thức rộng và một lượng kiến thức sâu, đáp ứng cho việc học và thi HSG các cấp. Việc chọn lựa đó cũng cần có những tiêu chí nhất định. Trước hết là tiêu chí bề rộng. Các tác phẩm được lựa chọn phải mang tính phong phú, đa dạng về giai đoạn, tác giả, thể loại, đề tài, chủ đề… Thứ hai là tiêu chí tiêu biểu, chọn lọc. Trong cả một rừng tác phẩm, GV cần nghiên cứu để chọn lựa những tác phẩm mang chở được nhiều vấn đề trọng tâm của nội dung văn học đang tiếp cận. Những tác phẩm không tiêu biểu sẽ không đáp ứng được nhu cầu học và lĩnh hội kiến thức của HS. Thứ ba là tiêu chí độc, lạ. Bên cạnh những văn bản quen thuộc, thường được nhắc tới trong nhiều sách nghiên cứu, GV nên tiếp cận với những tác phẩm mới lạ, độc đáo. Đó là mảnh đất mới để HS có cơ hội nghiên cứu văn học ở nhiều góc độ khác nhau, tạo cảm hứng mới và phát huy tư duy đọc hiểu, thẩm bình văn học. Điều đó đồng nghĩa với việc GV sẽ phát huy và tìm kiếm được những HS có tố chất thực sự về môn Văn.

Cùng với những tiêu chí chung trên, khi nghiên cứu chuyên đề này, chúng tôi tập trung chọn lựa những tác phẩm ngoài chương trình dành cho HS chuyên Văn dựa trên 4 tiêu chí cơ bản sau:

– Theo nền văn học: Có hai nền văn học chính là văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Văn học nước ngoài lại gồm văn học phương Đông (chủ yếu là văn học Trung Quốc) và văn học phương Tây (văn học Nga, văn học Pháp, văn học Anh, văn học Mỹ)

– Theo giai đoạn văn học: Trong nền văn học Việt Nam, các tác phẩm được lựa chọn theo các bộ phận văn học tương ứng, tập trung ở văn học dân gian và văn học viết. Trong văn học viết lại có những giai đoạn văn học được sắp xếp theo đúng tiến trình thời gian phát triển của xã hội và văn học: văn học trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), văn học hiện đại (từ đầu thế kỉ XX đến nay). Trong văn học hiện đại, các tác phẩm lại được lựa chọn theo các mốc thời gian chính (văn học 1930 – 1945, văn học 1945 – 1975, văn học sau 1975, văn học đương đại)

– Theo thể loại văn học: Với từng giai đoạn, thời kì văn học, các tác phẩm được lựa chọn rất phong phú về thể loại. Văn học dân gian có truyện cổ tích, ca dao… Văn học viết có có thơ và văn xuôi với nhiều thể thơ, thể văn khác nhau.

– Theo tác giả văn học: Việc lựa chọn tập trung vào những tác gia lớn. Văn học Trung đại: tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương. Văn học hiện đại: tác giả Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…

Tất cả các tiêu chí trên được vận dụng đan xen nhau giúp người dạy chọn lựa được những tác phẩm ngoài chương trình hay và tiêu biểu nhất.

1.2. Hệ thống các tác phẩm ngoài chương trình SGK dự kiến sẽ chọn

1.2.1. Văn học Việt Nam

  1. Văn học dân gian

* Truyện cổ tích: Sự tích cây nêu ngày Tết, Từ Thức, Lấy vợ cóc, Làm theo vợ dặn

* Ca dao:

+ Tiếng hát than thân phản kháng: Chùm bài Tháng giêng, tháng hai tháng ba, tháng bốn; Thân em như

+ Tiếng hát yêu thương tình nghĩa: Ca dao về tình cảm gia đình; Ca dao về tình yêu đôi lứa; Ca dao về tình yêu quê hương đất nước

  1. Văn học viết

* Văn học trung đại: Ngôn hoài, Ngư nhàn (Không Lộ thiền sư); Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải); Cây chuối, Dục Thúy Sơn, Tùng, Côn Sơn ca (Nguyễn Trãi); Trung tân ngụ hứng, Đường đời hiểm hóc (Nguyễn Bỉnh Khiêm); Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều (Nguyễn Dữ); Làm lẽ (Hồ Xuân Hương); Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều, Kim trọng trở lại vườn Thúy, Anh hùng tiếng đã gọi rằng (trích Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Sở kiến hành, Long thành cầm giả ca (Nguyễn Du); Văn tế Trương Quỳnh Như (Phạm Thái); Thăng Long thành hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà (Bà huyện Thanh Quan); Thu vịnh, Thu ẩm, Cuốc kêu cảm hứng, Mẹ Mốc, Nhớ núi Đọi, Chợ Đồng (Nguyễn Khuyến); Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu, Lắm quan, Đùa ông phủ, Đêm hè, Đất Vị Hoàng, Sông lấp, Áo bông che bạn, Mồng hai Tết viếng cô Kí (Trần Tế Xương); Xúc cảnh (Nguyễn Đình Chiểu)

* Văn học hiện đại:

+ 1930-1945: Thề non nước, Hỏi gió, Thăm mả cũ bên đường (Tản Đà); Tỏa nhị Kiều (Xuân Diệu); Mợ Du (Nguyên Hồng); Dưới bóng hàng lan (Thạch Lam); Cảm tưởng đọc Thiên Gia thi, Đi đường, Cảnh chiều hôm, Trên đường đi, Giữa thuyền đáp thuyền đi Ung Ninh, Mới ra tù tập leo núi (Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh); Tin thắng trận, Tặng cụ Bùi, Lên núi (Hồ Chí Minh); Tâm tư trong tù, Tiếng hát đi đày, Mẹ Tơm, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Quê mẹ (Tố Hữu)

+ 1945-1975: Tin thắng trận, Tặng cụ Bùi, Lên núi (Hồ Chí Minh); Mẹ Tơm, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Quê mẹ (Tố Hữu); Đôi mắt (Nam Cao); Mũi Cà mau (Xuân Diệu); Tờ hoa (Nguyễn Tuân); Tháng ba rét nàng Bân (trích Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng); Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên)

+ Sau 1975: Một chiều dông gió (Ma Văn Kháng), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu)

+ Đương đại: Tướng về hưu, Kiếm sắc, Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Hóa kiếp, Con ruồi (Tạ Duy Anh), Bóng chữ (Lê Đạt)…

1.2.2. Văn học nước ngoài

  1. Văn học Trung Quốc

* Thơ Đường: Tảo phát Bạch đế thành (Lý Bạch), Đăng cao (Đỗ Phủ)

* Tịch Phương Bình (trích Liêu Trai chí dị)

  1. Văn học Anh: Sống hay không sống (trích Hăm lét – Sêxpia)…
  2. Văn học Nga: Chiến tranh và hòa bình (Leptonxtoi), Một con người ra đời (M.Gorki)…
  3. Văn học Pháp: Nhà thờ Đức Bà Paris (Victo Huygo)…, Bá tước Mông tơcritxô…
  4. e. Văn học Mĩ: Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell)
  5. Các bước hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm

          Đọc hiểu văn chương không đơn giản chỉ hoạt động của con mắt, là sự hiểu nghĩa đơn thuần. Phải đọc bằng cả vốn văn hóa, bằng cả trái tim mới chuyển mã văn bản nghệ thuật thành bức tranh đời sống. Không một tác phẩm văn học nào là chỉ chứa một dấu hiệu đơn lẻ để sản sinh ra một tầng ý nghĩa thuần túy, bởi vậy, đọc, hiều một tác phẩm không chỉ là gợi ra và cảm thông được sự diễn đạt của ngôn ngữ mà phải phân tích, khám phá chiều sâu của tác phẩm mới thấy được hình thức nghệ thuật độc đáo mang tính thẩm mĩ của tác phẩm và ý vị nhân sinh của tác giả gửi gắm trong đó.

Đọc hiểu là quá trình lao động vừa gian khó vừa lý thú. Người đọc vừa phải huy động sự tham gia của các tác phẩm, chất trí tuệ, đặc biệt là khả năng tri giác ngôn ngữ để hiểu các tầng bậc ý nghĩa trong không gian chữ nghĩa của tác phẩm mà còn phải thức tỉnh, khơi gợi trong những khả năng liên tưởng, tưởng tượng giữa các tri thức vốn có của mình và cái được thể hiện trong tác phẩm để mà hiểu, mà chia sẻ, đồng cảm. Đọc hiểu đòi hỏi sự đắm mình vào tác phẩm mà hiểu, nắm từng từ, từng câu, từng đoạn nhằm làm tái tạo được thế giới hình tượng trong tác phẩm dưới dạng kí hiệu bằng con chữ. Đọc hiểu đòi hỏi cao hơn so với việc đọc thông thường. Đích của đọc hiểu là phải đọc ra được giọng điệu chủ đạo của tác giả toát lên từ văn bản nghệ thuật bởi giọng điệu ấy chứa năng lượng thẩm mĩ, thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo của tác giả.

Từ đặc điểm, nhiệm vụ và yêu cầu trên của việc đọc hiểu văn bản văn học mà người GV khi hướng dẫn HS đọc, hiểu tác phẩm phải thực hiện những khâu, những bước cơ bản để HS lĩnh hội, cảm nhận được càng sâu, càng kĩ những giá trị của tác phẩm ấy càng tốt.

Đọc hiểu một tác phẩm trước hết là đọc hiểu khái quát (Tìm hiểu chung) về tác giả (con người, cuộc đời; đề tài tiêu biểu; phong cách nổi bật…), về hoàn cảnh sáng tác (hoàn cảnh rộng, hoàn cảnh hẹp) của tác phẩm, về đặc trưng thể loại… Những kiến thức đọc hiểu đó sẽ giúp người đọc có hướng hiểu đúng về nội dung tác phẩm, khai thác tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại tương ứng. Có những tác phẩm nếu không được đặt vào hoàn cảnh sáng tác của nó thì không thể hiểu được nội dung, tư tưởng mà tác giả gửi gắm. Ví dụ như, khi đọc hiểu bài thơ Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan), nếu không tìm hiểu hoàn cảnh xã hội đương thời (triều đình phong kiến thối nát, suy tàn) và hoàn cảnh cụ thể của tác giả (Bà Huyện Thanh Quan trên đường vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập và dừng chân trên Đèo Ngang vào một chiều tà) thì không thể hiểu được nỗi buồn hoài cổ, hoài niệm và cảm giác cô đơn, nhớ thương triều vua cũ của thi nhân Một mảnh tình riêng ta với ta. Cùng với đó, nếu không nắm được phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan thì người đọc cũng khó khan trong việc tiếp cận những câu thơ, từ ngữ thơ trang nhã, thâm trầm mà sâu lắng cảm xúc buồn, nhớ của nhà thơ nữ xuất sắc ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX ấy.

Đọc hiểu một tác phẩm trước hết là đọc cho vỡ phần văn bản, câu từ. Đọc thông văn bản là đọc không vấp váp về ngữ âm câu chữ mạch lạc văn bản biết ngắt giọng đổi giọng hợp lí đọc đúng nghĩa từ nghĩa câu… Đọc đúng chính xác về ngữ âm giọng điệu từ ngữ văn bản là tiền đề để hiểu đúng hiểu sâu tác phẩm. Đọc kĩ văn bản đòi hỏi phải đọc chậm đọc nhiều lần để biết được cách tổ chức sắp xếp ý hiểu ý vị trong dùng từ chơi chữ hiểu hàm ý trong đặt câu ngắt đoạn chuyển mạch hành văn… để tiếp cận nội dung cơ bản của đoạn của bài và tư tưởng của tác giả. Đọc sâu văn bản là đọc hiểu nội dung ý nghĩa tư tưởng chủ đề của tác phẩm quan điểm thái độ của tác giả để nhận xét bình giá tác phẩm tác giả để thưởng thức giá trị nghệ thuật của văn bản. Đọc sâu là phát hiện phân tích giải mã làm bộc lộ các tương quan năng động nhiều mặt giữa đời sống và nghệ thuật giữa khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện giữa nội dung và hình thức giữa bộ phận và chỉnh thể của văn bản để nắm bắt chủ đề tư tưởng và hiểu đúng thái độ tình cảm của tác giả cũng như thưởng thức bình giá những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đọc sáng tạo là đọc không chỉ để hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc mà là đọc để cảm để sống để trải nghiệm để tự nhận thức tự thanh lọc và tự phát triển nhân cách. Đó là đọc sáng tạo là mức cao nhất trong các cấp độ đọc hiểu văn bản văn chương. Đọc hiểu sáng tạo đòi hỏi người đọc phải đào sâu khám phá đến tận cùng chiều sâu ý nghĩa của tác phẩm, khôi phục những chỗ bỏ lửng những nét mờ lật ngược lại vấn đề thẩm tra độ chính xác của nó từ đó có thể đưa ra những kiến giải riêng của mình. Đọc hiểu sáng tạo là một cách để mài giũa trí tuệ phát triển năng lực đọc hiểu cho người đọc.

Khâu cuối là đọc để hiểu tác phẩm. Khâu này gồm bốn bước cơ bản.

– Bước 1: Đọc hiểu ngôn từ

Hiểu được các từ khó, từ lạ, các điển cố, các phép tu từ, hình ảnh… (đối với thơ). Đối với tác phẩm truyện phải nắm được cốt truyện và các chi tiết từ mở đầu đến kết thúc. Khi đọc văn bản cần hiểu được các diễn đạt, nắm bắt mạch văn xuyên suốt từ câu trước đến câu sau, từ ý này chuyển sang ý khác, đặc biệt phát hiện ra mạch ngầm – mạch hàm ẩn, từ đó mới phát hiện ra chất văn. Bởi thế, cần đọc kĩ mới phát hiện ra những đặc điểm khác thường, thú vị.

– Bước 2: Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật

Hình tượng trong văn bản văn học hàm chứa nhiều ý nghĩa. Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học đòi hỏi người đọc phải biết tưởng tượng, biết cụ thể hóa các tình cảnh để hiểu những điều mà ngôn từ chỉ có thể biểu đạt khái quát. Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật còn đòi hỏi phát hiện ra những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đó và hiểu được sự lôgic bên trong của chúng.

– Bước 3: Đọc hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học

Phải phát hiện được tư tưởng, tình cảm của nhà văn ẩn chứa trong văn bản. Tuy nhiên tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản Văn học thường không trực tiếp nói ra bằng lời. Chúng thường được thể hiện ở giữa lời, ngoài lời, vì thế người ta đọc – hiểu tư tưởng tác phẩm bằng cách kết hợp ngôn từ và phương thức biểu hiện hình tượng.

– Bước 4: Đọc hiểu và thưởng thức văn học

Thưởng thức văn học là trạng thái tinh thần vừa bừng sáng với sự phát hiện chân lí đời sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của nhà văn, vừa hưởng thụ ấn tượng sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Đó là đỉnh cao của đọc hiểu văn bản Văn học. Khi đó người đọc mới đạt đến tầm cao của hưởng thụ nghệ thuật.

  1. Sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả

          3.1. Phương pháp vấn đáp

Phát vấn là phương pháp GV xây dựng hệ thống câu hỏi cho HS  trả lời hoặc trao đổi, tranh luận với nhau dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó tiếp nhận kiến thức. Trong điều kiện thiếu phương tiện, đồ dùng dạy học thì việc sử dụng câu hỏi là một trong những cách thức tiện lợi nhất để kích thích HS học tập một cách tích cực.

Nội dung cốt lõi của phương pháp này là việc xây dựng câu hỏi. Câu hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

– Câu hỏi phải có tính hệ thống. Tính hệ thống thể hiện ở chỗ: các câu hỏi được xây dựng theo trình tự các nội dung của bài học, từ phần đầu đến phần cuối.

– Câu hỏi phải có tính định hướng, nghĩa là nội dung câu hỏi phải xoay quanh các nội dung chính của bài học.

– Câu hỏi phải đảm bảo tính gợi mở, tránh loại câu hỏi đánh đố HS.

– Về hình thức: câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng khiến HS nắm bắt được ngay ý đồ của người hỏi, yêu cầu của câu hỏi.

– Phù hợp với trình độ từng đối tượng HS: giỏi, khá, trung bình, yếu, câu hỏi khó quá HS kém không thể trả lời, câu hỏi dễ quá một HS khá, giỏi không muốn trả lời.

Trên cơ sở đặc điểm và yêu cầu cơ bản của phương pháp, GV dạy những tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn cần có những cách thức dạy và hướng dẫn học phù hợp. Trước khi đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình, các HS chuyên Văn đã có những kiến thức nền tảng về thời kì, giai đoạn văn học, thậm chí là tác giả văn học đó. Do đó, khi sử dụng phương pháp dạy học phát vấn, GV cần suy ngẫm và đưa ra những câu hỏi ở mức độ thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao để phát huy tốt khả năng nhận thức đã có tính nền tảng của HS, đồng thời giúp HS có cơ hội khơi sâu các tầng nội dung, tư tưởng cần thiết, quan trọng của tác phẩm. GV có thể đặt câu hỏi để HS suy nghĩ trả lời trong những giờ giảng văn trên lớp. GV cũng có thể xây dựng sẵn một hệ thống câu hỏi đã được lựa chọn, sắp xếp và yêu cầu HS tự nghiên cứu và trên lớp sẽ trình bày những kiến thức mình đã tìm hiểu được qua việc trả lời các câu hỏi của GV. Từ đó, GV sẽ là người tổng hợp, định hướng cách hiểu phù hợp và chốt lại kiến thức cho HS.

          3.2. Phương pháp thảo luận nhóm

Phương pháp thảo luận nhóm là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của HS. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhân quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó khăn. Khi sử dụng phương pháp này, GV cần nắm vững quy trình tổ chức qua 5 bước

          – Bước 1: Thành lập nhóm.

Cách hình thành nhóm HS ở đây cần phải rất linh hoạt. Tuỳ thuộc vào từng tiết học, phạm vi của vấn đề, thời gian được trao đổi mà số lượng đơn vị nhóm có cơ cấu khác nhau. Khi phân nhóm, GV cần chú ý đến tâm sinh lí, giới tính và sức học của các thành viên trong nhóm. Khi nhóm được hình thành, GV cho nhóm tự bầu nhóm trưởng. Nhiệm vụ của nhóm trưởng là đôn đốc các thành viên trong nhóm, tổng hợp ý kiến và cử thành viên trình bày; vị trí này không nhất thiết phải cố định để tạo sự phấn đấu chung của cả nhóm.

          – Bước 2: Định hướng hoạt động nhóm.

Mục đích của hoạt động nhóm là để HS cùng trao đổi, tìm tòi, học hỏi lẫn nhau. Để đạt hiệu quả, GV cần định hướng cho nhóm hoạt động theo yêu cầu công việc được giao. GV phát phiếu học tập hoặc nêu yêu cầu cho các nhóm, ấn định thời gian làm việc, các nhóm nhận nhiệm vụ, tập trung giải quyết vấn đề. Đối với môn Ngữ văn, đây là phần dễ tạo ra sự hứng thú, hấp dẫn. GV định hướng cho các nhóm sưu tầm tư liệu, hình ảnh… có liên quan đến văn bản. Đưa ra câu hỏi để cùng tìm tòi, trao đổi và cả những suy nghĩ, bài học rút ra từ văn bản đó (khuyến khích HS tự do phát biểu suy nghĩ của mình).

          – Bước 3: Kiểm tra quá trình chuẩn bị của HS.

Trong khi HS làm việc, GV nên đến từng nhóm hỗ trợ, động viên, nhắc nhở để các nhóm làm việc đều tay, đảm bảo thời gian. Mục đích để đôn đốc thái độ hợp tác tích cực của các thành viên, cần tránh tình trạng dựa dẫm, chỉ một cá nhân làm việc. Mặt khác, thông qua quá trình kiểm tra để gợi mở cho HS, hướng vấn đề thảo luận đi vào trọng tâm.

– Bước 4: Báo cáo kết quả

Sau khi các nhóm hoàn thành công việc, GV hoặc lớp trưởng điều khiển từng nhóm lên báo cáo kết quả bằng trình bày trên giấy lớn hoặc trình bày miệng. Các nhóm khác bổ sung, thống nhất ý kiến.

– Bước 5: Kết luận vấn đề

GV tóm tắt kết quả đạt được, giúp HS tự nhận xét, đánh giá quá trình làm việc.

          Đối với việc hướng dẫn HS lớp chuyên Văn đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình thì phương pháp thảo luận nhóm là một trong những phương pháp tối ưu. Trên cơ sở những kiến thức các em đã được học chính, học kĩ, các em sẽ có một nền tảng kiến thức nhất định để tự nghiên cứu những văn bản ngoài chương trình theo các nhóm bạn. Việc cùng nhau nghiên cứu, tìm cách hiểu những câu hỏi gợi ý của GV có liên quan đến một văn bản cụ thể là cơ hội để mỗi HS được bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình và cùng nhau đi đến một cách hiểu toàn diện, đầy đủ nhất. Điều đó đồng nghĩa với việc các em sẽ nhớ kĩ, nhớ sâu và thấm được văn bản đang đọc hiểu. Đồng thời, phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp giáo viên rút ngắn thời gian trên lớp, tạo điều kiện cho HS tự học, tự nghiên cứu, tự ghi nhớ. Từ đó, việc chốt lại kiến thức cho HS sẽ giúp HS nắm chắc và nắm trúng vấn đề của văn bản.

          3.3. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề

Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học mà trong đó GV tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là tình huống gợi vấn đềTư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề (Rubinstein). Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho HS những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.

Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thường được tiến hành theo 4 bước cơ bản sau

– Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề

GV có thể gợi vấn đề để HS nghiên cứu, tìm hiểu và giải quyết vấn đề. GV cũng có thể để HS tự phát hiện vấn đề rồi thâm nhập và giải quyết vấn đề đó. Trong bước này, nếu cần, GV có thể giải thích và chính xác hóa tình hướng để HS hiểu đúng vấn đề được đặt ra. Sau đó đưa ra mục tiêu giải quyết hoặc yêu cầu HS tự đặt ra mục tiêu giải quyết cho vấn đề.

– Bước 2: Tìm giải pháp

GV định hướng để HS phân tích vấn đề, làm rõ mối liên hệ giữa cái đã biết và cái cần biết (dựa vào những tri thức đã học, liên tưởng tới kiến thức thích hợp. Từ đó, HS cần thu thập, tổ chức dữ liệu, huy động tri thức, sư dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, quy lạ về quen, đặc biệt hóa, tương tự hóa, khái quát hóa, xem xét những mối liên hệ phụ thuộc, xuôi ngược, ngược xuôi… Trong bước này, phương hướng đề xuất có thể được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp. Cũng trong bước này, HS cần kiểm tra tính đúng đắn của giải pháp. Nếu giải pháp đúng thì kết quả ngay, nếu không đúng thì lặp lại từ khâu phân tích vấn đề cho đến khi tìm ra một giải pháp. Sau khi đã tìm ra một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải pháp khác, so sánh chúng với nhau để tìm giải pháp hợp lí nhất.

– Bước 3: Trình bày giải pháp

HS sẽ trình bày toàn bộ vấn đề từ việc phát hiện vấn đề đến việc tìm ra giải pháp cho vấn đề. Ở bước này, HS có cơ hội thảo luận và cùng nhau đi đến một giải pháp ý nghĩa nhất. GV là người định hướng cho giải pháp.

– Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp

GV và HS cùng nghiên cứu giải pháp để tìm hiểu những khả năng ứng dụng thực tế. Từ đó, có thể đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ sự xem xét tương tự, khái quát hóa hay lật đi lật lại vấn đề.

          Không phải dạy văn bản văn học nào cũng có thể áp dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề này. Việc đầu tiên, cơ bản nhất của phương pháp là phát hiện ra vấn đề mà phải là những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, thiết thực. Đặc biệt với HS chuyên Văn thì đọc, hiểu một tác phẩm có vấn đề là niềm hứng thú, là mảnh đất màu mỡ để HS thỏa sức thể hiện suy nghĩ, thỏa sức vận dụng những kiến thức đã có để xâu chuỗi, tìm hướng giải quyết cho một vần đề hay. Ví dụ, với truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, GV có thể sử dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. Trên cơ sở kiến thức đã học về Nguyễn Minh Châu trong chương trình Ngữ văn 12, GV có thể nêu vấn đề hoặc gợi ý để HS nêu vấn đề. Là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đồng thời là một trong những cây bút tiên phong trong việc đổi mới văn học. Ông đã hướng ngòi bút vào việc đào sâu, khám phá những hiện thực cuộc sống có thể được che lấp đằng sau một lớp vỏ bọc giả tạo, thậm chí là hoa mĩ. Đó chính là phát hiện của nhiếp ảnh gia Phùng về cuộc đời nhiều bất hạnh, đau khổ của người đàn bà hàng chài phía sau một bức tranh thiên nhiên, tạo hóa tuyệt mĩ lúc bình minh nơi bãi biển mờ sương. Đó là cái nhìn của cuộc sống, của bức tranh hiện thực đời thường. Vẫn bằng ngòi bút nhiều chiêm nghiệm ấy, Nguyễn Minh Châu tiếp tục đặt ra vấn đề về cái nhìn nhưng là nhìn ai, nhìn cái gì? Bức tranh trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là bức tranh mực tàu tuyệt đẹp và cũng là bức tranh cuộc sống gia đình hàng chài, còn bức tranh trong tác phẩm Bức tranh là gì? Những câu hỏi đó chính là vấn đề cần được phát hiện của văn bản đọc hiểu. Sau đó, với việc tìm và phân tích những chi tiết cụ thể, HS có thể dần dần giải quyết được vấn đề. Đó là vấn đề tự nhận thức của mỗi con người. Bức tranh ấy là bức tranh của nội tâm mà mỗi người cần nhìn ra được. Tư tưởng mà Nguyễn Minh Châu đặt ra là: phải biết tự suy xét lại chính mình, tự đấu tranh với cái xấu của bản thân để vươn tới cái thiện, cái đẹp. Hãy luôn sống với nhau bằng tình yêu thương, lòng độ lượng có như vậy thì cuộc sống của con người sẽ tốt đẹp biết bao!

3.4. Phương pháp sơ đồ tư duy

Một trong những phương pháp hỗ trợ tích cực cho việc dạy học – sơ đồ tư duy là phương pháp dạy học mới với cách ghi chép, trình bày bài học chủ yếu là hình ảnh, màu sắc và các mạng lưới liên tưởng. Với việc môn Ngữ văn, dạy đọc, hiểu theo sơ đồ tư duy sẽ làm cho kiến thức bài học trở nên sáng rõ và khoa học.

Dạy học bằng sơ đồ tư duy không chỉ giúp HS tránh học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc mà còn giúp HS không bị nhàm chán, luôn sôi nổi, hào hứng và dễ dàng phát triển tư tưởng, qua đó phát huy tính sáng tạo của mỗi HS. Phương pháp này đặc biệt có ích với những văn bản đọc, hiểu dài và có nhiều nhánh vấn đề.

Ứng dụng sơ đồ tư duy là cơ hội giúp cho HS làm việc thực sự. Thông qua sơ đồ tư duy giúp HS nhớ lâu, lưu giữ kiến thức tốt hơn và thu hút HS với bài học. Ưu điểm lớn nhất của sơ đồ tư duy trong dạy học là dễ áp dụng, dễ nhân rộng, giúp HS rèn luyện kỹ năng và tư duy khoa học, logic, nhớ lâu, nhớ sâu kiến thức… Qua sơ đồ tư duy, HS rất hứng thú, nhiều em đã hình thành được kỹ năng thiết lập sơ đồ tư duy cho các bài, các phần kiến thức. Sơ đồ tư duy có thể vẽ trên giấy bìa, bảng phụ, sử dụng bút chì, màu, phấn, tẩy… hoặc cũng có thể thiết kế trên powerpoint hay các phần mềm chuyên dùng để hỗ trợ thiết kế sơ đồ tư duy. Tuy nhiên tốt nhất vẫn là sử dụng giấy, bút chì, bút màu, tẩy tự vẽ để dễ dàng phát triển ý tưởng, phát huy tính sáng tạo.

Khi vẽ sơ đồ tư duy dạy học cần chú ý các bước: Viết tiêu đề (tạo cho trung tâm một hình ảnh rõ ràng để miêu tả được nội dung tổng quát); vẽ đường xuất phát (đường xuất phát từ vòng tròn chứa tiêu đề và đặt tên những đường thẳng phù hợp với ý chính đã chọn); vẽ đường phân nhánh (đường phân nhánh xuất phát từ hình trung tâm và nối với một ý phụ); mở phân nhánh chi tiết cho mỗi ý (vẽ hình phân nhánh chi tiết các ý cho đến khi đạt được một sơ đồ hoàn hảo). Khi vẽ sơ đồ tư duy trong một tiết học cần cân nhắc đến thời gian. Có những bài với nội dung dài, khó mà yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy tại lớp thì sẽ tốn nhiều thời gian. Khi vẽ không nên sa đà vào việc trang trí. Vì việc làm này sẽ tốn nhiều thời gian và làm sao nhãng ít nhiều đến nội dung bài học mà HS cần quan tâm. Bên cạnh đó, GV có thể hướng dẫn cho HS vẽ sơ đồ ở nhà (làm việc cá nhân hoặc làm việc theo nhóm) và trình bày trên lớp. GV sẽ là người sửa  chữa và bổ sung.

Việc áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp khác như: học nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đang là phương pháp phù hợp và hiệu quả trong quá trình giáo dục nói chung và trong dạy đọc hiểu văn bản văn học nói riêng. Phương pháp này càng có giá trị hơn trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn. Ví dụ khi dạy những tác phẩm văn học nước ngoài với dung lượng lớn, kiến thức nhiều như: Chiến tranh và hòa bình (Leptonxtoi),  Nhà thờ Đức Bà Paris (Victo Huygo),  Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell)…, GV nên sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy để giúp HS nắm bắt nội dung cốt truyện (dựa trên những nhánh nhân vật, nhánh sự kiện chính). Sau đó, có thể tiếp tục sử dụng phương pháp này để giúp HS có những kiến thức cơ bản về nội dung, tư tưởng, giá trị chính của văn bản đó. Đặc thù những tác phẩm này dài nên cơ hội tiếp cận toàn bộ văn bản với HS là tương đối khó nên nắm được những kiến thức chính là yêu cầu  với việc đọc hiểu những văn bản này. Điều đó sẽ giúp cho HS chuyên Văn có một nền kiến thức rộng (ngoài văn học trong nước, cần có văn học nước ngoài) để thể hiện trong những bài làm văn lớn về lý luận văn học. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là đọc hiểu một văn bản ngắn thì không thể không sử dụng sơ đồ tư duy. Bài thơ tứ tuyệt bốn câu Cây chuối (Nguyễn Trãi) sẽ vô cùng dễ hiểu, dễ nhớ nếu được đọc hiểu theo phương pháp sơ đồ tư duy. Từ trung tâm của sơ đồ sẽ là từ Cây chuối. Theo đó, học sinh sẽ tự hình thành những nhánh nhỏ về đặc điểm của cây chuối được nhìn từ cảm quan của người thi sĩ đa tình Nguyễn Trãi: sức sống của cây chuối (Tự bén hơi xuân tốt lại thêm), màu sắc của cây chuối (Đầy buồng lạ, màu thâu đêm), hình dáng của cây chuối, đọt chuối (Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem). Và dựa vào ngôn từ được tác giả sử dụng, HS sẽ dần dần phát hiện ra những nhánh ý chi tiết hơn và cảm nhận rõ hơn tâm hồn của Nguyễn Trãi với thiên nhiên, cảnh vật, với cỏ cây, hoa lá thân quen, đời thường.

  1. Đối với HS và hoạt động học
  2. Hình thành kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình

          Văn bản văn học còn gọi là văn bản nghệ thuật, văn bản văn chương. Mỗi văn bản văn học đi sâu vào phản ánh hiện thực khách quan, khám phá thế giới tình cảm, tư tưởng, thoả mãn nhu cầu hướng thiện và thẩm mĩ của con người. Ngôn từ của văn bản văn học là ngôn từ nghệ thuật có hình tượng mang tính thẩm mĩ cao, trau chuốt biểu cảm, gợi cảm, hàm súc, đa nghĩa. Mỗi văn bản đều có một thể loại nhất định và theo quy ước cách thức thể loại đó (Kịch có hồi, cảnh, có lời đối thoại độc thoại; Thơ có vần, điệu, luật, khổ thơ…).

Với những tiêu chí trên nên mỗi văn bản văn học đều có một cấu trúc gồm 3 tầng cơ bản.

          – Tầng ngôn từ (ngữ âm, ngữ nghĩa): Đối tượng đầu tiên khi tiếp xúc với một văn bản văn học đó là ngôn từ. Để hiểu tác phẩm, trước hết chúng ta phải hiểu ngôn từ. Hiểu ngôn từ là bước đầu tiên để hiểu đúng tác phẩm. Hiểu ngôn từ là hiểu các nghĩa (tường minh, hàm ẩn) của các từ ngữ, là hiểu các âm thanh được gợi khi phát âm.

          – Tầng hình tượng: Hình tượng văn học là một dạng đặc thù của hình tượng nghệ thuật, được thể hiện bằng ngôn từ nên còn được gọi là hình tượng ngôn từ. Hình tượng không chỉ phản ánh mà còn khái quát hiện thực, khám phá cái cốt lõi, cái bất biến, cái vĩnh cửu trong cái đơn lẻ, nhất thời, ngẫu nhiên. Hình tượng văn học có thể là hình ảnh thiên nhiên, tự nhiên, sự vật, con người: hình tượng cây chuối, cây tùng (trong thơ Nguyễn Trãi), hình tượng chiếc thuyền, bức tranh (trong văn của Nguyễn Minh Châu), hình tượng nhà văn khao khát có một tác phâm để đời nhưng bị gánh nặng cơm áo ghì sát đất (trong văn của Nam Cao), hình tượng ông tướng về hưu trong văn Nguyễn Huy Thiệp… Hình tượng văn học do tác giả sáng tạo ra, không hoàn toàn giống như sự thật của cuộc đời, nhằm gửi gắm ý tình sâu kín của mình với người đọc, với cuộc đời.

          – Tầng hàm nghĩa: Hàm nghĩa của văn bản văn học là ý nghĩa ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng của văn bản. Đọc tác phẩm văn học, xuất phát từ tầng ngôn từ, tầng hình tượng, dần dần người đọc nhận ra tầng hàm nghĩa của văn bản. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học, việc nắm bắt tầng hàm nghĩa là rất khó. Nó phụ thuộc vào vốn sống, nhận thức, quan niệm, tư tưởng tình cảm… của người tiếp nhận.

Như vậy, một văn bản văn học là tổng hòa của rất nhiều mối quan hệ (cuộc sống – nhà văn – văn bản – độc giả) và là sự phối hợp của nhiều tầng lớp chất liệu, ý nghĩa, tư tưởng được thể hiện trên một lớp ngôn từ nghệ thuật. Do đó, đọc đúng để hiểu đúng một văn bản văn học là hoạt động không hề đơn giản.

Ấy thế nhưng cho đến nay ở nước ta hầu như chưa có khái niệm đọc hiểu văn bản. Các từ điển hầu như không có mục từ ấy, các giáo trình phương pháp giảng dạy môn Văn nói nhiều tới dạy người, dạy cảm thụ, dạy năng lực tư duy đọc diễn cảm… Nhưng ít ai nói tới việc dạy đọc, tức là dạy cho HS một hoạt động phải làm việc với con chữ, với câu văn, với dấu phẩy, dấu chấm của văn bản để hiểu đúng, hiểu sâu văn bản đó. Hình như người ta cho rằng đọc hiểu là việc rất giản đơn, hễ biết chữ là đọc được. Cứ cầm bài văn lên đọc là HS tự động hiểu. Cái khó của HS chỉ là chưa biết cảm thụ cái hay, cái đẹp nữa mà thôi. Thực ra đó là một ngộ nhận tai hại. GS Hoàng Tuệ lúc sinh thời đã đúng khi nói kỹ năng nghe, nói, đọc, viết không hề giản đơn là kỹ năng của người có văn hóa mà là kỹ năng lao động của con người. Phải có kỹ năng ấy con người mới có thể tham gia thực sự vào hoạt động lao động xã hội hiện đại. Đó là một nhận thức rất sâu sắc. Nội dung khái niệm đọc rất rộng, nhưng cấp độ sơ đẳng nhất người đọc phải nắm bắt đúng thông tin trong văn bản thì mới có thể nói tới các khâu tiếp theo như cảm thụ thẩm mỹ, tiếp nhận giáo dục, năng lực tư duy sáng tạo. Bởi vì giá trị thẩm mỹ, cái hay, cái đẹp như là những thông tin mà mình đã nắm bắt được cho HS, HS học thuộc những thông tin ấy để dùng vào việc làm bài và như vậy trên thực tế HS nói chung là không đọc văn, không tự mình hiểu văn và không có kỹ năng tự đọc văn. Mà đã không tự mình đọc hiểu văn thì không thể trau dồi viết văn cho tốt được, bởi lẽ chỉ những ai đọc hiểu văn mới viết được văn và ngược lại cũng vậy. Do không có năng lực đọc hiểu cho nên nếu cho một văn bản chưa học cùng loại với văn bản đã học trong sách giáo khoa chắc chắn là đại đa số học sinh sẽ khó khăn và nói chung là không đọc, hiểu được.

Đọc văn bản văn học là hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa. Bản thân việc đọc đã có nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng giọng đúng chỗ là một trình độ. Bước hai là đọc kỹ, đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ lại là một trình độ khác. Bước thứ ba là đọc, hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một mức rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó đã là đọc sáng tạo. Trong các khâu đọc đó, đọc hiểu là khâu cơ bản nhất, nó bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu nghĩa toàn bài. Có hiểu đúng thì mới nói chuyện hiểu sáng tạo. Muốn hiểu đúng đầu tiên phải tôn trọng tính chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết, đích của văn bản. Để dạy đọc cho tốt người thầy phải nghiên cứu quá trình đọc, tâm lý đọc, điều kiện đọc, phân suất chúng ra thành từng cấp độ và đặt trọng tâm rèn luyện các cấp độ ấy từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp mới tạo cho một chương trình dạy đọc văn có tính khoa học, thoát khỏi cách học đọc thuần túy tự phát, phó mặc cho kinh nghiệm, thói quen dẫn dắt như hiện nay.

Đọc văn bản văn học là tìm ra ý nghĩa trong một thông điệp được tổ chức bằng một hệ thống ký hiệu. Nhưng ý nghĩa là cả một vấn đề rất khó của khoa học nhân văn hiện đại. Người ta phân biệt nghĩa và ý nghĩa. Nghĩa là quan hệ văn bản với cái mà nó biểu đạt, còn ý nghĩa là quan hệ văn bản với người tiếp nhận. Người đọc trước hết phải hiểu nghĩa ròi mới phát hiện ra ý nghĩa của văn bản. Nghĩa của văn bản văn học khác với văn bản phi văn học. Viện sĩ G.V.Stêpanov trong bài đặc trưng của văn bản nghệ thuật đã viết: Nghĩa trong văn bản văn học là một thực tại đã được cải tạo một cách đặc thù gắn liền với chính văn bản ấy, chứ không gắn với cái gì khác. Văn bản nghệ thuật truyền đạt được bằng các lời phát ngôn tương đồng. Nghĩa của nghệ thuật không thể được miêu tả bằng quan niệm ngữ nghĩa độc lập với cách diễn đạt bằng ngôn từ này. Đổi thay cách diễn đạt có nghĩa là kéo theo sự phá vỡ nghĩa của nó hoặc là tạo ra nghĩa mới” (Ngôn ngữ – Văn học – Thi pháp học, NXB Khoa học). Ý nghĩa gắn liền với ngữ cảnh.

Bản thân ngữ cảnh của văn bản văn học cũng tạo ra tính đa nghĩa. Ngày nay người ta có thể xét ý nghĩa trong ba quan hệ: ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm, ý nghĩa vốn có trong văn bản, tương quan với một hiện thực nào đó, ý nghĩa do mối quan hệ của người đọc đặt vào văn bản. Chính vì vậy mà văn học có tính đa nghĩa. Tính đa nghĩa này đã được nhận ra từ thời Arixtôt ở phương Tây và Lưu Hiệp ở phương Đông.

Quan niệm đọc hiểu gắn với tư tưởng nhà trường phải bồi dưỡng năng lực ngữ văn cho HS, gắn với năng lực làm văn, thẩm văn cho người học. Từ đó, chúng tôi chủ trương HS nói chung và HS chuyên Văn nói riêng không chỉ đọc hiểu các văn bản văn học mà còn đọc hiểu các loại văn bản thông dụng khác, để bồi dưởng năng lực đọc và hiểu.

  1. Rèn kĩ năng viết văn từ những kiến thức đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình

Cha ông ta xưa kia từng nói: Học đi đôi với hành. Bằng những hình thức, con đường khác nhau, học giúp cho con người có thêm vốn kiến thức để làm giàu cho trí tuệ của bản thân mình. Song học như vậy chỉ đơn giản là học những kiến thức mang nặng tính lý thuyết chung chung, thậm chí là trừu tượng, vô hình. Để những kiến thức ấy được hiện thực hoá, có tác dụng thực sự hữu ích thì chúng ta phải hành. Hành là vận dụng những kiến thức lý thuyết đã được học vào những công việc cụ thể. Đối với riêng môn Văn, việc ứng dụng thực tế lại có vẻ không được thiết thực. Song ngẫm kĩ, học Văn và việc ứng dụng Văn vào cuộc sống cũng đóng góp rất nhiều làm đẹp cho cuộc sống của mỗi con người, cuộc sống của xã hội. Học Văn để biết cách nói năng giao tiếp, biết sử dụng từ, biết dùng câu đúng phong cách, đúng hoàn cảnh. Học Văn để tâm hồn biết yêu thương nhiều hơn, biết đối nhân xử thế có văn hoá. Nói một cách khác, học Văn là học cách sống. Song đơn giản, gần gũi nhất của việc vận dụng Văn là làm Văn.

Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi không chỉ chú trọng nghiên cứu phương pháp rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn. Mà hơn nữa, chúng tôi còn muốn nghiên cứu những định hướng cơ bản để HS biết cách vận dụng những kiến thức đã được đọc hiểu vào các bài làm văn cụ thể.

Với yêu cầu học Văn mang tính chuyên sâu và để đáp ứng tốt cho những bài thi HSG cấp Tỉnh, cấp Khu vực và cao nhất là cấp Quốc gia nên HS lớp chuyên Văn thường được tiếp cận với những kiểu bài nghị luận nâng cao như kiểu bài chùm, kiểu bài so sánh, kiểu bài nêu nhận định, kiểu bài lí luận văn học… Tất cả các kiểu bài đó đều yêu cầu ở HS thuần thục hai thao tác cơ bản là bình luận và chứng minh (bên cạnh những thao tác khác như giải thích, phân tích, so sánh…). Nếu thao tác bình luận yêu cầu HS chuyên Văn những kiến thức lí luận văn học vững chắc thì thao tác chứng minh lại đòi hỏi ở các em kiến thức đọc, hiểu văn bản vừa sâu vừa rộng. Sâu ở những văn bản đọc, hiểu chính trong chương trình và rộng ở những văn bản đọc, hiểu ngoài chương trình (cả những văn bản đọc thêm trong sách giáo khoa và những văn bản được chọn lựa thêm theo những tiêu chí nhất định). Trong bài viết văn, khoe kiến thức cũng là một cách để HS ăn điểm với người chấm bài.

Tuy nhiên, sử dụng dẫn chứng cho bài viết cũng cần có sự tính toán khôn khéo để việc sử dụng đó có một hiệu quả tốt nhất. Điều trước nhất là HS phải xác định đúng và trúng nội dung nghị luận cần làm sáng tỏ để lựa chọn chính xác những tác phẩm phù hợp với nội dung nghị luận đó. Những tác phẩm có tác dụng làm sáng tỏ cho nội dung nghị luận mới là những tác phẩm có giá trị. Song không phải tất cả các tác phẩm phù hợp với nội dung đều nên đưa vào bài viết làm dẫn chứng. Khoe kiến thức không  đồng nghĩa với việc liệt kê kiến thức một cách dàn trải, không có trọng tâm. Người viết khôn khéo, thông minh còn là người biết chọn lựa tốt dẫn chứng. Những dẫn chứng đó cần tiêu biểu, phong phú về các giai đoạn sáng tác, về thể loại văn học, về phong cách nhà văn, nhà thơ… Nếu biết dựa vào nhiều tiêu chí để chọn lựa dẫn chứng thì các tác phẩm được đưa vào bài sẽ trở nên tự nhiên, hiệu quả, sáng rõ… Sắp xếp dẫn chứng trong bài theo một trình tự hợp lí cũng vô cùng quan trọng. Dẫn chứng không phải là một mớ hổ lốn các tác phẩm được trình bày theo kiểu ngẫu hứng, lộn xộn. Nếu nội dung nghị luận là một vấn đề lí luận văn học mang tính chất bao quát thì các tác phẩm được lựa chọn làm dẫn chứng nên được trình bày theo thứ tự cơ bản nhất là các nền văn học (văn học thế giới trước, văn học Việt Nam sau). Trong từng nền văn học, HS lại tiếp tục chọn lựa tác phẩm theo các tiêu chí: bộ phận văn học, thời kì văn học, thể loại văn học… Nếu nội dung nghị luận liên quan trực tiếp đến một hoặc một vài tác giả văn học thì các tác phẩm được lựa chọn sẽ xoay quanh những tác giả đó và được sắp xếp theo các tiêu chí như các giai đoạn sáng tác, các đề tài chính, các thể loại chính… trong sự nghiệp của nhà văn, nhà thơ đó. Lớp lang có trình tự hợp lí các dẫn chứng tiêu biểu sẽ làm tăng tính thuyết phục cho bài viết, làm cho lập luận và vấn đề nghị luận được trở nên sáng rõ. Yêu cầu cuối cùng là HS đưa tác phẩm vào bài làm dẫn chứng cần có phân tích tác  phẩm. Nếu chỉ điểm tên các tác phẩm mà không phân tích tác phẩm làm sáng rõ vấn đề thì tác phẩm đưa ra không có giá trị thiết thực. Song một tác phẩm văn học có rất nhiều khía cạnh, nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung. HS không thể cứ phân tích cho hết những giá trị của tác phẩm đó là đạt được yêu cầu nghị luận. Mục đích chính của việc phân tích các tác phẩm chọn làm dẫn chứng là làm sáng tỏ được vấn đề nghị luận. Bởi vậy, phân tích trúng, đúng phần kiến thức cần thiết trong tác phẩm mới là quan trọng. Có khi dẫn chứng đưa ra là một tác phẩm nôi tiềng với rất nhiều khía cạnh giá trị nhưng HS trong bài chỉ cần xoáy sâu vào một khía cạnh nhỏ mà điều cần thiết là khía cạnh ấy cần cho bài viết. Phân tích tác phẩm không có trọng tâm là sai lầm của người viết bài.

           Rõ ràng, sử dụng hiệu quả những kiến thức đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn trong những bài làm văn cũng cần phải rèn luyện để hình thành kĩ năng. Để làm sáng tỏ những yêu cầu kĩ năng mang tính lý thuyết trên và định hướng cách làm bài, đặc biệt là rèn kĩ năng viết văn từ những kiến thức đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên Văn, chúng tôi đề xuất 03 đề bài sau:

Đề 1: Sức sống của những câu chuyện cổ tích

Gợi ý

  1. Bình luận:

* Đặc trưng văn học: Phản ánh cuộc sống

– Văn học muôn đời giống như người thư ký trung thành của mọi thời đại. Mọi hiện tượng, biến cố của cuộc sống trong từng giai đoạn lịch sử đều được phản ánh trung thực qua những trang văn, trang thơ bằnh ngòi bút tài ba và con mắt nhìn đậm tính chủ quan của người nghệ sĩ.

– Trong văn học dân gian, từng mảng cuộc sống được thể hiện đậm nét qua những câu chuyện cổ tích. Mỗi câu chuyện là một phần số phận con người lao động xưa được tác giả dân gian kể lại và truyền lại muôn đời.

* Chức năng văn học

– Chức năng thẩm mỹ: cái đẹp của văn học dân gian, của truyện cổ tích là cái đẹp của sự giản dị, trong sáng

+ Ngôn ngữ đời thường, không được mài dũa, trau chuốt

+ Tình tiết truyện giản đơn, gần gũi

+ Nhân vật rất mực đời thường, tính cách đơn chiều

– Chức năng giáo dục: Giá trị giáo dục của chuyện cổ tích nằm trong chính cách xây dựng cốt truyện, hình tượng nhân vật.

+ Thường là những câu chuyện có hậu, thể hiện triết lý Ở hiền gặp lành

+ Nhân vật hư cấu (Bụt, Tiên) bênh vực những con nngười lương thiện, tạo niềm tin cho con người và biến truyện cổ tích thành những giấc mơ đẹp.

=> Giáo dục con người sống lương thiện.

– Chức năng giải trí: Truyện cổ tích đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của con người Việt Nam xưa và nay, làm giàu có tâm hồn con người.

  1. Chứng minh

* Tác phẩm chính: Tấm Cám (truyện cổ tích)

* Tác phẩm ngoài chương trình:

Chử Đồng Tử (truyện cổ tích):

+ Người lao động dù nghèo, nhưng chịu thương chịu khó, ăn ở hiền lành, lại chí hiếu như Chử Đồng Tử, ắt phải được lấy con gái nhà vua lá ngọc cành vàng làm vợ. Họ sống hòa thuận, hạnh phúc. Hơn thế nữa, lại được Tiên truyền phép, cho cả điện ngọc nguy nga, lầu son gác tía, địa vị cao sang. Đó chẳng phải là ước mơ đẹp đẽ, chân chính của người bình dân trong xã hội phong kiến quá nhiều bất công hay sao? Chi tiết này nằm trong môtip truyền thống của văn học dân gian, chẳng những ở nước ta, mà còn có ở khắp mọi nơi trên thế gian đầy rẫy bất công và khổ đau này.

+ Ngoài ra, với nhân vật Tiên Dung, việc nàng kiên quyết từ chối những lời cầu hôn của các công tử con nhà danh giá, vui vẻ và chủ động kết hôn với Chử Đồng Tử, sống cuộc đời bình dị của người lao động giữa thiên nhiên đất trời phóng khoáng, theo quan niệm của người xưa, đó chính là sự sắp đặt của số phận, của duyên trời. Nghĩa là nó có sự sắp đặt của đấng siêu nhiên. Nàng có đủ lý trí để nhận biết đó là một mối lương duyên trời định. Tiên Dung không đưa Chử Đồng Tử về cung, một phần, hay đúng hơn là nàng thừa biết vua cha không bao giờ chấp nhận, lại có thể sẽ bị trừng phạt rất nặng nề, cho thấy sức mạnh của Nho giáo đã tỏa chiết tinh thần con người thời đại ấy đến mức nào.

-> Truyện cổ tích Chử Đồng Tử, suy cho cùng, cũng chỉ là truyện cổ tích mà thôi. Người xưa làm ra truyện cổ tích là để thỏa mãn những khát khao cháy bỏng của người bình dân về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng. Mà khi con người còn dám mơ ước, khát khao tin tưởng vào những điều tốt lành, thánh thiện, thì đó chính là cái hồn nhân văn nguyên thủy đang còn bay bổng, giúp con người có đủ niềm tin và nghị lực đứng vững ở cõi thế gian đầy bất trắc này!

Sọ Dừa (truyện cổ tích)

+ Sọ Dừa thuộc kiểu truyện người đội lốt vật hay người mang lốt xấu xí khá phổ biến trong cổ tích Việt Nam cũng như trên thế giới. Cũng kiểu truyện này, ở nước ta còn có câu truyện như lấy chồng Rế, người lấy cóc, nàng út ống tre… kể về các nhân vật có vỏ ngoài xấu xí, dị dạng nhưng lại có vẻ đẹp bên trong tuyệt vời cả về tài năng lẫn phẩm chất.

+ Truyện đề cao giá trị đích thực, vẻ đẹp bên trong của con người. Đây cũng là lời chuyên mọi người muốn đánh giá đúng bản chất con người đừng nên chỉ quan sát bên ngoài. Đây chính là giá trị nhân bản, truyền thống dân tộc tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Hơn thế nữa, truyện còn đề cao lòng nhân ái đối với người bất hạnh. Lòng nhân ái đem lại hạnh phúc cho cả Sọ Dừa và cô út. Ý nghĩa ấy đă được đúc kết qua bao câu ca dao, tục ngữ như Thương người như thể thương thân, Lá lành đùm lá rách

+ Câu chuyện toát lên sức sống mãnh liệt và niềm lạc quan của nhân dân lao động. Còn sống là còn hi vọng, còn mơ ước, còn tin vào chiến thắng cuối cùng của sự công bằng, của lẽ phải, của lòng tốt đối với sự bất công, độc ác. Thực tế cho thấy rằng trong cuộc đời cũng như trong truyện cổ tích, hạnh phúc của những con người chân chính luôn bị kẻ độc ác đe doạ, tìm cách cướp đoạt. Nhân dân ta đã ý thức rõ điều này nên đã để cho nhân vật cảnh giác, đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Sọ Dừa đưa cho vợ những vật dụng khi chia tay cũng là vì thế. Truyện đã đề cập đến một loại người đau khổ nhất, một số phận thấp hèn nhất. Đau khổ thấp hèn đến nỗi từ vẻ bên ngoài đã không ra con người. Điều đó nói lên khi sáng tác truyện này, nhân dân đã nhận thức sâu sắc về số phận địa vị của mình. Thế nhưng ban đầu cái vỏ xấu xí làm cho thân phận nhân vật thấp kém bao nhiêu thì về sau tài năng phẩm chất và sự biến hoá lại làm cho nhân vật trở nên khác thường, đẹp đẽ bấy nhiêu. Đó là quan niệm dân chủ, thái độ trân trọng, khẳng định của nhân dân đối với những con người bị coi là “hèn kém” trong xã hội giai cấp. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân về sự đổi đời.

 

Đề 2: Pautopxki quan niệm Văn học chỉ cho chúng ta những kiến thức khác nhau của cuộc sống, làm cho mỗi chúng ta hiểu được thế nào là sức mạnh của tâm hồn con người, hiểu được thế nào là chính nghĩa, hạnh phúc, cái đẹp và tình yêu.

          Qua các sáng tác của Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.  

Gợi ý

  1. Giải thích

Nhận định nêu hai vế: Chỉ cho chúng ta … // Làm cho mỗi chúng ta …

Những hình thức khác nhau: Hiện thực đa dạng, phong phú của cuộc sống

          Sức mạnh của tâm hồn con người: Sức mạnh tinh thần của người nhân vật trong văn học có khả năng biến điều không thể thành có thể, có thể vượt qua những khó khăn, gian khổ.

Chính nghĩa,  hạnh phúc, cái đẹp và tình yêu: Là những điều cao quý, đẹp đẽ, thiêng liêng mà con người luôn hướng tới.

=> Ý nghĩa của cả nhận định: bàn về giá trị, chức năng của văn học (chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ) để giúp chúng ta thấy được sức mạnh của thế giới tinh thần trong văn học.

  1. Bình luận

* Chức năng nhận thức – văn học phản ánh cuộc sống

– Văn học cũng như tất cả những bộ môn nghệ thuật khác đều nhận thức và phản ánh cuộc sống

– Cuộc sống trong văn học không phải là một mảng, một góc, một khía cạnh mà là toàn bộ, là tất cả.

– Đến với văn học, người đọc có thể nắm bắt được những hình thức khác nhau đa dạng, đa chiều, phong phú và toàn diện của cuộc sống. Và qua những tác phẩm văn học, vốn kiến thức, khả năng nhận thức cuộc sống của con người dày hơn, sâu sắc hơn.

* Chức năng giáo dục của văn học

– Nếu nhận thức là cái bề nổi hiện lên trên lớp ngôn từ của tác phẩm thì giáo dục là ý nghĩa tinh thần, tư tưởng ẩn sâu trong cái vỏ hiện thực ấy.

– Trên cơ sở của cuộc sống hiện thực được phản ánh trong mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhà văn, nhà thơ đều giúp người đọc rút ra một thông điệp hoặc một bài học trong cuộc sống.

– Khả năng giáo dục trong văn học không mang tính gò ép, áp đặt giống như những lời mệnh lệnh, giáo huấn mà là khả năng tự giáo dục. Người đọc tiếp nhận tác phẩm văn học, hiểu được mục đích tư tưởng của nhà văn và từ đó biết tìm cho mình con đường đúng đắn để tìm đến chính nghĩa, hạnh phúc và tình yêu. Bởi với chức năng giáo dục trong văn học nhẹ nhàng, thấm thía, có hiệu quả.

* Chức năng thẩm mỹ của văn học

– Văn học nghệ thuật là cái đẹp và phản ánh cái đẹp. Song phạm trù cái đẹp trong văn học không đơn điệu là cái đẹp bề ngoài, hình thức mà là cái đẹp của bản chất, của chiều sâu.

– Chức năng thẩm mỹ của văn học là khả năng văn học giúp con người hiểu được những điều cao cả, tốt đẹp làm cho tâm hồn con người trở nên thánh thiện, bao dung.

=> Không nên tách biệt riêng lẻ ba chức năng đó mà trong một tác phẩm văn học hoàn chỉnh, chúng xuyên thấm vào nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Và chức năng cao cả, ý nghĩa nhất của văn  học là nhân đạo hoá con người. Nhà văn phải có tài và tâm để sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị, nhiều chức năng chứ không phải là những tác phẩm nông cạn mà người đọc có thể quên ngay sau khi thưởng thức. Độc giả sống hết mình cùng tác phẩm, không chỉ biết đọc mà còn phải biết ngẫm.

  1. Chứng minh

* Nguyễn Trãi: Nhà thơ của văn học Vệt Nam thế kỷ XV – xã hội của những cuộc chiến tranh cá lớn nuốt cá bé.

–  Phản ánh được rõ nét bức tranh hiện thực của cuộc kháng chiến chống quân Minh (Bình Ngô đại cáo)

– Thế giới tâm hồn phong phú

+ Tư tưởng nhân nghĩa, thân dân (Bình Ngô đại cáo, Cảnh ngày hè, Thư lại dụ Vương Thông)

+ Tình yêu thiên nhiên (Dục Thúy sơn, Côn Sơn ca, Cây chuối…)

-> Bức tranh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi rất phong phú, đa dạng: một bức tranh huyền ảo, thần tiên, mĩ lệ nơi núi Dục Thúy hùng vĩ mà thơ mộng; một bức tranh nguyên sơ, êm ả, thanh bình nơi ngọn núi Côn Sơn cổ kính; một bức tranh cây chuối nhiều sắc màu, dáng vẻ, tâm trạng qua cái nhìn đa cảm của thi nhân -> Với Nguyễn Trãi, thiên nhiên là những gì thân thuộc, gần gũi của cuộc sống quanh mình những nó là nơi để thi sĩ thể hiện tâm hồn mình, làm tâm hồn ấy thêm yêu cuộc sống, thanh bình, yêu đời. Yêu thiên nhiên cũng là biểu hiện của một tâm hồn nhạy cảm, cháy bỏng khát vọng sống. Thiên nhiên là người bạn, là tri âm tri kỉ của Nguyễn Trãi Non nước cùng ta đã có duyên.

* Nguyễn Du: Nhà thơ của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – xã hội phong kiến Việt Nam đang trong gia đoạn mục nát, suy tàn.

– Phản ánh được bức tranh xã hội và con người trong giai đoạn thối nát ấy

+ Xã hội bất công: Xã hội của bọn quan lại độc ác, xã hội của sức mạnh đồng tiền, xã hội của nhà chứa (Truyện Kiều, Phản chiêu hồn, Sở kiến hành, Văn tế thập loại chúng sinh…)

+ Con người bất hạnh: Những con người có tài, có sắc, đặc biệt là người phụ nữ (Truyện Kiêu, Long Thành cầm giả ca)

– Thế giới tâm hồn: Tư tưởng cao đẹp nhất làm nên bậc danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Du là tư tưởng nhân đạo

+ Lên án bất công (xã hội đồng tiền thay trắng đổi đen trong Truyện Kiều; xã hội bất công, kẻ mạnh chèn ép, cướp công kẻ yếu, oan khuất nơi đâu cũng có trong Phản chiêu hồn; xã hội giàu nghèo phân hóa, người giàu ăn không hết, kẻ nghèo đói không có gì mà ăn trong Sở kiến hành; xã hội người chết mà vẫn là những oan hồn vất vưởng trong Văn tế thập loại chúng sinh…)

+ Ca ngợi: con người có tài năng và nhân cách, tình yêu tự do (nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh, cô ca nữ đất Long Thành…)

 

Đề 3: Nói về thơ, Nguyn Công Trứ có câu: Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời, còn Tố Hữu có câu: Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người.

          Anh/Chị hãy giải thích, bình luận và làm sáng tỏ các ý kiến trên.

Gợi ý

  1. Giải thích

* Giải thích câu thơ của Nguyễn Công Trứ

– Từ ngữ:

+ Trót nợ: Món nợ ngẫu nhiên mà cuộc đời đem lại cho mình

+ Chuốt lời: Lời nói óng chuốt, đẹp đẽ

– Cả câu: Người nghệ sĩ đã coi thơ là nghiệp, gắn bó thơ với cuộc đời mình thì suốt đời phải trau chuốt lời thơ cho đẹp. Đối với sáng tạo nghệ thuật, sáng tác phải coi trọng việc hoàn thiện hình thức tác phẩm. Cố thể nói, vai trò cuae hình thức nghệ thuật là cự kỳ quan trọng.

* Giải thích câu nói của Tố Hữu

– Từ ngữ:

+ Hồn nhiên: vẻ đẹp giản dị, trong sáng, tự nhiên

+ Tâm hồn: Thế giới tình cảm, cảm xúc, suy tư của con người

– Cả câu: Thơ thể hiện cảm xúc, suy tư trong sáng, tự nhiên của con người. Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nội dung vô cùng quan trọng và nội dung ấy rất cần sự hồn nhiên.

* Tổng hợp hai ý kiến: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học.

  1. Bình luận

* Nội dung của văn học: 

Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau. Trước hết, tác phẩm văn học cung cấp cho người đọc những biểu hiện phong phú, nhiều vẻ và độc dáo của đời sống mà tính loại hình của chúng tạo thành đề tài của tác phẩm. Nội dung tác phẩm là kết quả khám phá, phát hiện khái quát của nhà văn. Sự lược quy nội dung này vào các phạm trù xã hội học sẽ làm nghèo nàn nội dung tác phẩm.

– Nội dung tác phẩm văn học chỉ tồn tại bằng hình thức và qua hình thức tác phẩm. Đó là cấu tạo gồm nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm. Văn bản ngôn từ là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm có hai chức năng: vẽ ra bức tranh đời sống và biểu hiện thái độ, cái nhìn của chủ thể lời nói bằng phương tiện ngôn ngữ.

* Hình thức văn học

Trong tác phẩm văn học, hình thức nghệ thuật là kênh duy nhất truyền đạt nội dung của nó, là phương tiện cấu tạo nội dung và làm cho nó có bộ mặt độc đáo. Do đó, tìm hiểu hình thức là điều kiện không thể thiếu để hiểu đúng nội dung. Bỏ qua hình thức hoặc bỏ qua tính chỉnh thể của nó sẽ có nguy cơ hiểu lệch nội dung tác phẩm.

– Trong văn học, hình thức văn bản và hình tượng là một tổ chức mang tính ký hiệu, là cái biểu đạt, còn nội dung là cái được biểu đạt, tức là ý nghĩa.

=> Do đó các yếu tố nội dung của tác phẩm, như đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng, tính cách,… về thực chất đều là các lớp ý nghĩa của cái biểu đạt, do người đọc cảm nhận và khái quát nên. Do vậy nội dung của tác phẩm không đứng yên, bất biến, mà được mở rộng, đào sâu trong quá trình tiếp nhận, làm cho tác phẩm văn học tồn tại như một quá trình.

  1. Chứng minh

* Văn học dân gian (ca dao).

Cô kia đứng ở bên sông

                   Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

                                                          (Ca dao)

Râu tôm nấu với ruột bầu

                   Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.

                                                          (Ca dao)

-> Lời thơ của ca dao rất giản dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động. Song sự giản dị ấy không phải bởi ngôn ngữ không được chuốt lời mà bởi đó là thứ ngôn ngữ phù hợp nhất với văn học dân gian, là cách thể hiện tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người.

* Văn học viết

– Văn học trung đại: Cây chuối (Nguyễn Trãi), chọn chất liệu là một hình tượng thơ giản dị, dân dã, ít thấy trong thơ trung đại nhưng thi sĩ Nguyễn Trãi đã dụng công chuốt lời để tạo nên một thi phẩm hay. Những từ bén, tốt lại thêm, màu thâu đêm, tình thư, phong còn kín không phải ai cũng chọn lựa và sử dụng đúng cách, đúng chỗ được như Nguyễn Trãi. Nhưng đằng sau những câu chữ được trau chuốt ấy vẫn là một thế giới tâm hồn rất tự nhiên, nhạy cảm của nhà thơ. Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên đến mức cảm thấy thiên nhiên cũng đang mang sẵn trong mình một tình yêu đẹp. Cây chuối, buồng chuối, đọt chuối bình dị thôi mà được nhà thơ nhìn ra thành một câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng, tình từ, e ấp. Đó chẳng phải bởi nhà thơ yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời hay sao?

– Văn học hiện đại: Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Cảm tưởng đọc Thiên Gia thi (Hồ Chí Minh), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu)…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BA: MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA TIÊU BIỂU

 

(Để đảm bảo dung lượng của chuyên đề không quá dài, ở mỗi ví dụ, chúng tôi chỉ xin trình bày hai mục: I. Mục tiêu của bài họcII. Đọc hiểu)

 

Ví dụ 1:

Đọc hiểu:          VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH (Văn chiêu hồn)

(Trích – Nguyễn Du)

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức: bổ sung, mở rộng, nâng cao kiến thức:

– Về tác giả, tác phẩm Nguyễn Du – thiên tài văn học, danh nhân văn hóa, nhà nhân đạo chủ nghĩa, có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của VHVN;

– Về thể loại văn tế, một thể loại khá phổ biến trong văn học trung đại nhưng trong chương trình, số tác phẩm được học còn hạn chế;

– Về Văn chiêu hồn – một sáng tác xuất sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du; thể hiện sâu sắc và độc đáo cảm hứng nhân đạo trong sáng tác Nguyễn Du.

  1. Kĩ năng: đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại…
  2. Đọc hiểu

Để việc đọc hiểu tác phẩm đạt hiệu quả cao trong một thời gian ngắn, GV chia lớp thành 4 nhóm và giao nhiệm vụ cho HS chuẩn bị trước ở nhà (phương pháp thảo luận nhóm và dạy học dự án):

  1. Về tác giả Nguyễn Du: đã học kĩ ở lớp 9, 10 à không bổ sung.
  2. Về tác phẩm:

– Tìm đọc toàn bộ văn bản tác phẩm và các tài liệu có liên quan đến tác phẩm.

– Tìm hiểu chung về tác phẩm bằng cách vẽ sơ đồ tư duy.

– Đọc kĩ từ câu 93 -> câu 140 (48 câu) và suy nghĩ, trả lời 1 số câu hỏi:

Câu 1. Đoạn trích được bố cục theo lối nào? (gợi ý: diễn dịch – qui nạp – tổng phân hợp…)

Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả viết về những loại người nào? Hãy thống kê cụ thể. Đối với mỗi loại người, nhà thơ viết về họ như thế nào?

Câu 3. Trong đoạn trích, nhà thơ viết về những người cùng khổ bất hạnh như: người đi đánh cá; người bán thúng bán gánh, người đi lính… Đối với loại người nào nhà thơ cũng đều yêu thương và viết về họ bằng những câu thơ rất xúc động. Trong đó, theo anh/chị nhà thơ đặc biệt dành tình cảm cho những đối tượng nào? Tại sao?

Câu 4. Hình tượng nhân vật người phụ nữ ở chốn thanh lâu gợi cho anh/chị nghĩ đến những nhân vật nào trong tác phẩm nào khác của Nguyễn Du? Từ đó, hãy chỉ ra sự thống nhất trong tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du biểu hiện qua các tác phẩm. Liên hệ thực tế xã hội ngày nay.

Câu 5. Hình tượng nhân vật em bé mồ côi khiến cho anh/chị nhớ đến những nhân vật trẻ em nào trong các tác phẩm văn học đã học, đã đọc? Nét chung của hình tượng này là gì? Từ đó, liên hệ thực tế xã hội ngày nay và liên hệ bản thân.

Câu 6. Phân tích những hình tượng không gian có giá trị khắc họa cuộc sống đáng thương của những người hành khất? Tìm đọc bài thơ Dặn con của Trần Nhuận Minh. Từ đó, liên hệ thực tế xã hội ngày nay và thái độ của bản thân đối với những người hành khất.

Câu 7. Chỉ ra những câu thơ có tính chất nhận định khái quát trong đoạn trích.

Câu 8. Nhận xét những đặc sắc về giá trị nghệ thật của tác phẩm?

Câu 9. Nhận xét những đặc sắc về giá trị nội dung của tác phẩm?

Câu 10. Qua tác phẩm nói riêng và các tác phẩm khác đã học của Nguyễn Du, em hiểu gì về nhà thơ?

Câu 11. Tác phẩm đã được nhắc đến trong nhiều tác phẩm khác của những tác giả khác và cũng được nhiều tác giả phân tích, bình luận, ca ngợi…  Theo anh/chị, điều then chốt khiến Văn chiêu hồn trở nên hấp dẫn như vậy là gì?

Câu 12. Bài văn giúp em có cái nhìn như thế nào về phong tục cúng chúng sinh trong ngày rằm tháng Bảy của dân tộc?

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Thao tác 1

*Mục tiêu: Tìm hiểu chung về tác phẩm, đoạn trích

*Phương pháp: thảo luận nhóm, dạy học dự án…

Kĩ thuật: chia nhóm, sơ đồ tư duy

Hình thức: Hoạt động cả lớp – nhóm – cá nhân.

*Nội dung hoạt động:

Bước 1: GV giao nhiệm vụ cho HS

– Các nhiệm vụ đã giao thực hiện ở nhà.

– Yêu cầu 1 HS đại diện của nhóm 1 lên trình bày sơ đồ tư duy tìm hiểu chung về tác phẩm

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: đã thực hiện ở nhà

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

Nếu đơn vị kiến thức nào HS trình bày chưa đầy đủ thì GV sẽ bổ sung thêm.

I. Tìm hiểu chung

 

  1. Tác phẩm

a. Vị trí: là một sáng tác xuất sắc của thi hào Nguyễn Du.

GV bổ sung kiến thức về hoàn cảnh sáng tác.

– Theo các nhà nghiên cứu:

+ Có ý kiến: Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.

+ Có ý kiến: có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (18021812).

Văn chiêu hồn là tác phẩm có xuất xứ từ một phong tục: Rằm tháng Bảy âm lịch là lễ Vu lan của Phật giáo. Trong dân gian, vào rằm tháng Bảy người ta làm lễ cúng cháo lá đa cho những người chết không thân thích chôn cất mà người xưa gọi là cô hồn. Bài Văn chiêu hồn của Nguyễn Du được viết ra trong dịp này.

– Theo Từ điển văn học, GS. Lê Thước là người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được lưu giữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Hiện chưa rõ thời điểm sáng tác, khoảng đầu thế kỷ XIX.

 

Kiến thức về thể loại văn tế đã được cung cấp ở bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu à không bổ sung. c. Thể loại: Văn tế viết bằng chữ Nôm và theo thể song thất lục bát.
GV giải thích rõ thêm về nhan đề:

Chúng sinh: cô hồn: cách gọi những người chết không bình thường, dân gian gọi là chết oan, chết khi chưa tới số, nên hồn còn lẩn quất nơi cõi âm, khó siêu thoát; những người chết không mồ mả, không ai thờ cúng; những hạng người khi sống làm nhiều việc ác nên khi chết bị đọa đày nơi địa ngục chịu nhiều hình phạt…

Thập loại: 10 loại. Chữ mười ở đây không phải là số đếm cụ thể mà là con số ước lệ để chỉ số nhiều. Trong toàn bài văn tế, ông đã nói tới 16 loại cô hồn, trong đó có nhiều hạng người trong xã hội chết bằng nhiều lý do khác nhau.

1. Những kẻ tính đường kiêu hãnh tham danh vọng mà quên mạng sống.

2. Những kẻ giàu sang sống trong màn loan trướng huệ tự kiêu, tự mãn về nhan sắc…

3. Những kẻ làm quan to mũ cao áo rộng cầm ngọn bút sinh sát trong tay…

4. Những tướng sĩ bài binh bố trận, đem mình vào cướp ấn nguyên nhung phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình…

5. Những kẻ tính đường trí phú, bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang…

6. Những kẻ rắp cầu chữ quý

7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gió hiểm nguy…

8. Những kẻ buôn thúng bán gánh

9. Những kẻ phải đi lính

10. Những kẻ sa cơ thất thế, rơi vào buôn nguyệt bán hoa

11. Những người hành khất, sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

12. Những kẻ mắc vòng tù ngục, oan khiên

13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng

14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha

15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thuỷ, hoả, ác thú…

16. Những kẻ vô tự, tức không con cái, thân thuộc

d. Nhan đề

Văn tế: thể loại

Chúng sinh: cô hồn

Thập loại : 10 loại

Văn tế thập loại chúng sinh: Bài văn tế cho mười loại cô hồn.

 

GV chốt bố cục 3 phần của tác phẩm e. Bố cục: 184 câu chia thành ba phần:

* Phần một – 20 câu đầu: tả cảnh một chiều thu tháng Bảy mưa dầm buồn bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu…

* Phần hai – phần chính của bài văn – 136 câu giữa: nói rõ về mười loại cô hồn:

+ từ câu 21 -> câu 136: nêu rõ tên và nguyên nhân thiệt mạng của mười loại cô hồn.

+ từ câu 137 -> câu 156: miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các cô hồn.

* Phần ba 28 câu cuối: lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát và cuối cùng là lời mời các cô hồn tới nhận phần lễ cúng để lên đàng thăng thiên

GV nói rõ: Trong bài văn tế, Nguyễn Du nói đến nhiều loại người giàu nghèo sang hèn nói chung khi họ chết rồi thì nhà thơ đều thương xót đều muốn các cô hồn được siêu thoát. 2. Đoạn trích: từ câu 93 -> câu 140 (48 câu) thuộc phần 2 – Nguyễn Du viết về những kẻ cùng khổ bất hạnh.
Thao tác 2

* Mục tiêu: Đọc hiểu đoạn trích

* Phương pháp: đọc, đàm thoại, thuyết giảng, thảo luận nhóm, dạy học dự án…

Kĩ thuật: chia nhóm

Hình thức: Hoạt động cả lớp – nhóm – cá nhân.

* Nội dung hoạt động:

Bước 1: GV giao nhiệm vụ cho HS

Căn cứ vào phần đã chuẩn bị ở nhà, 1 bạn đại diện nhóm sẽ lên trình bày phần tìm hiểu của nhóm:

Nhóm 2: Tìm hiểu đoạn thơ nói về người đi đánh cá, người bán thúng bán gánh, người đi lính.

Nhóm 3: Tìm hiểu đoạn thơ nói về người phụ nữ ở chốn lầu xanh, người hành khất ăn xin, người bị kết tội oan ức và em bé mồ côi.

Nhóm 4: Tìm hiểu 4 thơ cuối

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: đã thực hiện ở nhà

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Từng nhóm lên trình bày. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung…

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

Nếu đơn vị kiến thức nào HS trình bày chưa đầy đủ thì GV sẽ bổ sung thêm.

II. Đọc hiểu đoạn trích

1. Bốn bốn câu đầu: Nói về từng loại chúng sinh

 

 

  1.1. Người đi đánh cá

Cũng có kẻ vào sông ra bể

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng,

Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

-> Làm nghề vất vả, nặng nhọc và nguy hiểm, chẳng may gặp nạn, làm mồi cho cá dữ à chết mất xác. Công việc nhiều rủi ro, không thể lường trước được.

  1.2. Người bán thúng bán gánh

Cũng có kẻ đi về buôn bán,

Đòn gánh tre chín dạn hai vai,

Gặp cơn mưa nắng giữa trời,

Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

à Những người buôn bán nhỏ, bán thúng bán gánh, vô cùng vất vả, cực nhọc, tần tảo, lam lũ, lặn lội kiếm sống, dầm mưa dãi nắng…  Hình ảnh chọn lọc Đòn gánh tre chín dạn hai vai diễn tả đầy đủ công việc nhọc nhằn, nỗi vất vả của những người bán thúng bán gánh.

  1.3. Người đi lính

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

Buổi chiến trận mạng người như rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập loè ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

à Những người đi lính theo lệnh quan trên phải bỏ nhà, bỏ cửa, gia đình, người thân cha mẹ vợ con… Nơi chiến trường phải chịu mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, dãi dầu mưa nắng… Hơn nữa sự sống luôn bị đe dọa, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào… đạn lạc tên rơi vô tình, bị chết, bị thương là chuyện thường tình, khó tránh… Thời chiến tranh, sinh mạng con người chỉ như cỏ rác à không được chôn cất, hương khói tử tế à trở thành cô hồn nơi chiến địa à rất tội nghiệp, đáng thương.

  1.4. Người phụ nữ ở chốn thanh lâu

* Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

Ngẩn ngơ khi trở về già,

Đâu chồng con tá biết là cậy ai?

à những người phụ nữ vì những lí do khách quan, vì dòng đời xô đẩy mà phải nhắm mắt đưa chân, làm công việc buôn nguyệt bán hoa, tức là làm gái làng chơi, nghề mại dâm: lúc trẻ có nhan sắc, có sức khỏe còn được khách làng chơi yêu mến chiều chuộng…  đến khi về già, nhan sắc tàn phai, sức khỏe sa sút, hết giá trị sử dụng, không còn được săn đón, ế ẩm,… rơi vào trạng thái buồn đau, cô đơn, bơ vơ vì không nhà không cửa, không gia đình, không chồng con, không biết trông cậy, nương tựa vào đâu… à đầy âu lo cho cuộc đời, số phận của mình.

* Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

à Hai câu thơ khái quát cả cuộc đời của người phụ nữ ở chốn thanh lâu: sống bề ngoài phải cười nói, đưa đẩy, chiều chuộng khách làng chơi, trở thành trò vui cho thiên hạ, làm vợ khắp người ta,… nhưng thực chất bên trong thì buồn bã, vật vã, đau khổ, dằn vặt, xấu hổ, nhục nhã, ê chề… à cả thể xác và nhân phẩm đều bị xúc phạm, bị tổn thương à phiền não – đến khi chết không người chôn cất, thờ cúng, hương khói nên vất vưởng, không siêu thoát, phải nhờ vào hớp cháo lá đa người đời cúng các chúng sinh – cô hồn mỗi dịp rằm tháng Bảy

* Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

à Hai câu thơ khái quát thân phận, số phận đàn bà trong xã hội phong kiến nói chung: Đau đớn thay phận đàn bà lặp lại trong Truyện Kiều à tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng than đứt ruột cho thân phận đàn bà nói chung – chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ, bất hạnh.

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? à sinh ra là kiếp đàn bà thì phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh. Đó dường như đã là lẽ đương nhiên, không thể khác, nên đừng than thở hay oán trách ai. Câu hỏi tu từ cho thấy người phụ nữ chỉ còn biết đổ lỗi cho số kiếp, định mệnh đã an bài thì cũng đành cam chịu, chấp nhận… à Một câu hỏi day dứt lòng người à thể hiện thái độ đầy xót xa, thương cảm.

  1.5. Người hành khất ăn xin

* Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

à Hai câu thơ diễn tả cuộc sống của người hành khất ăn xin không nhà không cửa, lang thang cơ nhỡ

* Thương thay cũng một kiếp người,

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

à Khái quát, xót xa cho kiếp người nghèo khổ,  hành khất ăn xin, lang thang khắp nơi, tha phương cầu thực, vất vưởng, không nhà không cửa, không nơi nương tựa, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, màn trời chiếu đất… sống nhờ vào sự bố thí, thương hại của thiên hạ à bị coi thường, khinh rẻ. Đến khi chết, lại phải nhờ vào sự làm phúc của người đời hoặc làm chỉ là làm cho xong trách nhiệm của quan cai trị địa phương mà không có một chút tình cảm, cảm xúc à rất đáng thương xót thương thay.

  1.6. Người bị kết tội oan ức

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh.

Nắm xương chôn rấp góc thành,

Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

à người bị kết tội oan à tù tội à khổ về thân xác bị giam cầm, đày đọa; khổ về tinh thần bị người đời khinh bỉ căm ghét, bản thân biết mình bị oan mà không thể, không biết phân trần, bày tỏ cùng ai à đến khi chết không được chôn cất tử tế, chỉ bó bằng một manh chiếu rách và bị đem chôn giấu giếm ở nơi góc thành, người thân không biết, không ai hay biết… à thử hỏi làm sao, đến bao giờ mới được minh oan à chết mà vẫn ngậm nỗi oan khiên, không nhắm mắt được à không thể siêu thoát được.

  1.7. Em bé mồ côi

Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.

Lấy ai bồng bế vào ra,

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

à sinh ra đã có số phận không may mắn, mồ côi cha – mẹ – cả cha mẹ à bơ vơ, không người yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy bảo à tội nghiệp, đáng thương à khiến lòng người phải xót xa day dứt.

GV yêu cầu cá nhân HS suy nghĩ và lí giải tại sao từ câu 1 đến câu 36 tác giả nói đến riêng từng loại người, còn từ câu 37 đến câu 44 tác giả lại liệt kê dồn dập?

HS trả lời

GV chốt ý.

 

1.8. Nhiều loại người khác

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây,

Có người leo giếng đứt dây,

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái

Người thì sa nanh sói ngà voi,

Có người hay đẻ không nuôi,

Có người sa sẩy, có người khốn thương.

à liệt kê dồn dập à tác giả muốn nói: chúng sinh – cô hồn – những số phận đau khổ, bất hạnh trong xã hội là nhiều vô cùng, không thể kể xiết.

GV giải thích thêm về: Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào?

Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà.

2. Bốn câu cuối: Khái quát qui luật tất yếu:

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

à Bài văn đã miêu tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người nghèo hèn đầu đường xó chợ… Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết… Tuy mỗi người một nghiệp khác nhau nhưng cầu Nại Hà thì không ai không phải bước qua, chỉ là kẻ trước người sau mà thôi. Đó là một  qui luật.

Thao tác 3

*Mục tiêu: Tổng kết tác phẩm

*Phương pháp: đàm thoại, thảo luận nhóm

  Kĩ thuật: chia nhóm

  Hình thức: Hoạt động nhóm – cá nhân.

*Nội dung hoạt động:

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

HS nhận xét khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

GV nói thêm:

Trong phần giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du, có đoạn:

Cuộc sống mười năm gió bụi từ năm 1786 đến 1795 của Nguyễn Du như thế nào, thì ông đã phản ảnh rõ trong Thanh Hiên thi tập. Suốt mười năm ấy, nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, đau ốm liên miên, nghèo không tiền mua thuốc, nhiều lần muốn về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng ở đó nhà cũng không có, mà anh em thì mỗi người một ngả… Đến khi được trở về nhà, thì ông đã là nhà nho mới hơn ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, bệnh tật, có lúc ốm mấy tháng liền mà chỉ nằm chờ chết, trong nhà bếp lạnh tanh… Cho đến khi ông ra làm quan với nhà Nguyễn. Gia phả chép: Dầu làm đến chức á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một học trò nghèo. Trong Nam trung tạp ngâm, ít ra cũng có hai bài thơ nói đến vợ con ăn đói, mặt xanh như lá rau”…

Tất cả những điều đó giải thích tại sao Nguyễn Du tuy thuộc tầng lớp trên nhưng lại có một tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu nặng dành cho những người vốn thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội… Điều này thể hiện rõ trong Văn chiêu hồn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Văn tế thập loại chúng sinh là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai, cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả… Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn:

Thương thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương khói đã không nơi nương tựa,

Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,

Còn chi ai quí ai hèn,

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?

– Qua tác phẩm, Nguyễn Du đề cập đến cuộc sống gian truân khổ ải của nhiều tầng lớp con người trong xã hội phong kiến. Tác phẩm thể hiện cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du đối với số phận con người dưới xã hội cũ.

– Nêu ra cảnh khổ của cõi âm, Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh giành danh và lợi, quyền và tiền thường rất gắt gao và hung hãn… Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ: Sống thời tiền chảy bạc ròng / Thác không đem được một đồng nào đi. Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng để mọi người suy ngẫm…

– Qua tác phẩm người đọc thấy rõ Nguyễn Du là con người từng trải, nhạy cảm và tinh tế; giàu lòng trắc ẩn, yêu thương và thấu hiểu, hiểu đời, hiểu người… Tác phẩm của ông nói chung, đặc biệt những tác phẩm như: Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Long thành cầm giả ca, Sở kiến hành… đã chạm tới được mọi trái tim độc giả à có sức sống mãnh liệt và lâu bền. Đa phần các nhà nghiên cứu văn học đều có chung nhận xét: Nguyễn Du là người có trái tim lớn “chứa được bấy nhiêu tình thương nhân loại”…

 

 

2. Nghệ thuật

– Thể loại

– Thể thơ

– BPTT: liệt kê, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ…

– Từ ngữ, hình ảnh về từng loại chúng sinh chọn lọc và chính xác, diễn tả đúng cuộc sống cũng như nỗi khổ của từng loại người trong xã hội.

– Giọng văn thê thiết, vạch hướng con người đi vào con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ải của kiếp nhân quả luân hồi.

– Những câu thơ đầy tính chất khái quát triết lí vô cùng thấm thía và sâu sắc.

GV gọi cá nhân HS trả lời các câu hỏi 4,5,6,11,12 đã chuẩn bị ở nhà.  

 

GV có thể yêu cầu HS đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Yêu người, đó là một truyền thống cũ. “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc” đã nói đến con người. Nhưng dù sao cũng là mới bàn đến một hạng người. Với “Kiều”, Nguyễn Du đã nói đến cả xã hội người. Với Chiêu hồn thì cả loài người được bàn đến… Chiêu hồn con người trong cái chết. Chiêu hồn con người trong từng giới, từng loài, “mười loài là những loài nào” với những nét cộng đồng phổ biến, điển hình của từng loài một.

Tôi muốn nói đến bài văn “Chiêu hồn”, một tác phẩm có một không hai trong nền văn học chúng ta. (Nghĩ mà xem, trước Chiêu hồn chưa có bài văn nào đem cái “run rẩy mới” ấy vào văn học. Sau Chiêu hồn, lại càng không). Nếu Truyện Kiều nâng cao lịch sử thơ ca, thì “Chiêu hồn” đã mở rộng địa dư của nó qua một vùng xưa nay ít ai động tới: cõi chết.

(Theo Ngữ văn 11, tập một, trang 79)

  1. Xác định đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh?
  2. Phân tích điểm giống và khác nhau giữa đối tượng được so sánh và đối tượng so sánh?
  3. Phân tích mục đích so sánh trong đoạn trích?

Đáp án

  1. Đối tượng so sánh là bài văn Chiêu hồn, đối tượng được so sánh là Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm… Ở đây tác giả đang dùng vật so sánh và đối tượng được so sánh, văn chiêu hồn là thể loại thường được sử dụng để nói về sự tiếc thương còn Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm ở đây là nói về con người, tác giả khóc thương cho số phận đau thương của những người phụ nữ.
  2. Điểm giống và khác nhau
  3. Giống nhau

– Đều nói về những nỗi đau xót xa của những người phụ nữ

– Sự đau đớn xót xa đã được thể hiện rất đặc sắc trong bài viết, nó thể hiện những nỗi lòng đau đớn về một kiếp người.

  1. Khác nhau

Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm: bàn đến một lớp người (người phụ nữ, người cung nữ, …)

Truyện Kiều: nói đến một xã hội với nhiều kiểu người có tính cách khác nhau

Chiêu hồn: bàn đến cả người lúc sống và lúc chết.

  1. Mục đích trong đoạn trích: Cả hai bài đều thể hiện những nỗi đau đớn của con người, mục đích là nhằm tố cáo chiến tranh và xót thương cho những số phận có số phận bất hạnh và chịu nhiều đau đớn. Đồng thời, làm sáng tỏ lập luận của tác giả: Truyện Kiềunâng cao lịch sử thơ ca, Văn chiêu hồnmở rộng địa dư thơ ca vào tận cõi chết. Từ đó khẳng định giá trị nhân đạo đặc biệt của Văn chiêu hồn.

GV giới thiệu thêm một số nhận xét về nội dung tác phẩm

  1. GS. Phạm Thế Ngũ

Bài này cũng là dịp cho ta thấy nơi Nguyễn Du một khiếu tưởng tượng phi thường hòa với một tình đồng cảm thật là bao la. Bao trường hợp chết chóc, bao nhiêu cảnh ngộ thương vong, tác giả phác họa ra, khêu gợi lên với những tiết lâm li thảm thiết… Cảnh loạn lạc… nhất là bệnh dịch, phu phen, mất mùa, đói khổ, người chết như rạ là một ám ảnh tai ách thường xuyên ở đời Lê mạt… Chính những thảm cảnh ấy đã là nguồn văn nguồn ý nung nấu thành Chiêu hồn ca… Nó khiến ta có thể xác định một lần nữa: Nguyễn Du là thi sĩ muôn đời của Thống khổ và Tình thương.

  1. Nhà thơ Xuân Diệu

Trong nền thơ Việt Nam ta từ trước, có một tác phẩm rất độc đáo về đề tài, hầu như là duy nhất, nói đến những người chết, nói đến cái chết dưới trăm tình thế, chưa có bài thơ nào mà tập trung nói đến những hồn người chết như vậy – và thực chất lại là sự ôm trùm rộng rãi những người sống – đó là Văn Chiêu hồn

Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu…

Ở thời đại ấy… Nguyễn Du không biết tại sao mà xã hội khổ đến thế. Bây giờ ta không trách Nguyễn Du về sự mù mờ ấy, (bởi) Nguyễn Du kêu gào ở trong bóng tối, cũng là phát hiện bóng tối cho ta: … đó là một bản tố cáo gắt gao về đói rét, tật bệnh, chiến tranh phong kiến giành giật đất đai, mưu ma chước quỷ của bọn quan lớn, về thân phận người đàn bà, về số phận người bình dân… do sự phong phú của đề tài, mà cả xã hội người diễu qua trước mắt ta… Còn trái tim lớn của Nguyễn Du một tấm lòng chứa được bấy nhiêu tình thương nhân loại! Tình thương ấy có xô bồ, lẫn lộn như đối với vài kẻ thuộc giai cấp bên trên; nhưng phần lớn, căn bản là dành cho những người bị cực khổ, oan ức, đói rét, đau đớn từ những người bị bọn vua quan bắt lính, đến người mắc oan ở tù rạc thân, đến người hành khất cũng một kiếp người từ người đẻ non đến em bé chết yểu, từ người đứt dây rơi xuống giếng chết đến người bị cọp ăn…

  1. Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn

Cùng với Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh cũng là một áng văn Nôm thuộc đỉnh cao tư tưởng và nghệ thuật. Vì vậy khi nói về nỗi đau mất nước, nỗi buồn của cha ông ta trước đây, nhà thơ Chế Lan Viên đã nhắc đến áng văn bất hủ này:

Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời

Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa

Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

“Văn chiêu hồn” từng thấm hạt mưa rơi…

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ khi ông nhắc đến mười loại người được chiêu hồn. Đây là một áng văn đẹp hoàn hảo, một tác phẩm độc đáo có một không hai về đề tài này trong lịch sử văn chương dân tộc…

  1. GS. Trương Chính

Trong Văn tế chiêu hồn, Nguyễn Du có dịp gợi lên những hình ảnh đau xót của thời đại ông. Có những người ở tầng lớp trên, nhưng đa số là những người ở tầng lớp dưới. Trong tầng lớp trên thì lòng thương của ông dành cho những người chân yếu tay mềm, do hoàn cảnh thời bấy giờ mà đang sống trong cảnh màn lan trướng huệ bỗng chốc bơ vơ như chiếc lá giữa dòng. Còn tầng lớp dưới thì có thể nói là đủ mặt, từ người học trò ốm đau dọc đường không ai thuốc thang nuôi nấng, đến chết phải liệm sấp chôn nghiêng… đến những em tiểu nhi tấm bé vừa ra đời không được chăm sóc, nên phải chết yểu… Bài này đọc lên không biết cô hồn nghe có được an ủi phần nào chăng, nhưng chúng ta nghe thì càng thấy căm thù cái xã hội mà trong đó đa số là những người thất cơ lỡ vận…

 

Ví dụ 2:

Đọc hiểu

THỀ NON NƯỚC

Tản Đà

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức:

– HS cảm nhận được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên non nước, vẻ đẹp  của tình yêu đôi lứa thủy chung, vững bền, tình yêu nước tha thiết, kín đáo.

– HS thấy bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật: thể thơ lục bát của dân tộc, giọng điệu có sự thay đổi linh hoạt, ngôn từ giản dị, sống động, hình ảnh thơ đa nghĩa, giàu sức gợi

  1. Kĩ năng: đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại…
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu khái quát về tác gia, tác phẩm

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

Tóm lược những nét chính về tác giả, tác phẩm

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS chuẩn bị bài trước ở nhà

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

1HS trình bày phần chuẩn bị

Các HS khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung.

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

Nhận xét về cách trình bày.

Nhận xét nội dung chuẩn bị của HS.

I. Tìm hiểu chung

1. Về tác giả

– Vị trí: Là người của hai thế kỉ, người  thi sĩ  đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. (Xuân Diệu).

– Đặc điểm hồn thơ: Thể hiện cái tôi lãng mạn bay bổng, đằm thắm, thiết tha, buồn nhiều nhưng vẫn gắn bó với quê hương đất nước.

2. Về tác phẩm

– Vị trí: Là bài thơ tuyệt tác của Tản Đà (Lưu Trọng Lư).

– Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ: Bài thơ Thề non nước được sáng tác trước vào năm 1920 (Theo Nguyễn Khắc Xương trong Tuyển tập Tản Đà) sau đó được đưa vào trong truyện ngắn cùng tên. Cô đào Vân Anh và một du tử – hai nhân vật trong truyện, ngồi uống rượu, cùng nối lời nhau vịnh bức tranh sơn thuỷ mà thành bài thơ này. Bức cổ hoạ chỉ có một dãy núi, không có vẽ sông nước, dưới chân núi có một ngàn dâu gợi cảnh tang thương biến đổi.

– Ý nghĩa nhan đề:

+ Nói về lời thề nguyền giữa nonnước ngầm để nói tới tình yêu đôi lứa sâu sắc mặn nồng chung thuỷ.

+ Ở bề sâu, bề sau, bề xa của hình ảnh, nhạc điệu và ngôn từ là tấm lòng của thi nhân đối với non sông đất nước. Ông đã mượn câu chuyện tài tử giai nhân để chép lời phong nguyệt mà gửi lời non nước.

– Chủ đề: Qua hình ảnh non nước thiên nhiên, tác giả thể hiện tình yêu nam nữ thuỷ chung, son sắc và gửi gắm kín đáo tình cảm yêu nước của mình.

– Bố cục:

+ Bốn câu đầu (Lời vịnh của du khách): Hoàn cảnh của nước và non.

+ Mười câu tiếp (Lời của cô đào Vân Anh): Tâm trạng của non trong những ngày vắng nước.

+ Sáu câu nối tiếp (Lời là lời của du khách): Lời an ủi của nước đối với non.

+ Hai câu cuối ( Lời của  cô đàoVân Anh): Nước non khẳng định lại lời nguyền.

Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc hiểu văn bản

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

Đọc thuộc lòng văn bản, xác định bố cục văn bản.

Xác định nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung của từng đoạn thơ.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS học thuộc văn bản lập bảng trình bày nghệ thuật, nội dung của từng đoạn (cá nhân/ chuẩn bị ở nhà).

Nhóm 6-8 HS thảo luận, thống nhất trên lớp theo hướng dẫn của giáo viên.

Bước 3: HS lần lượt báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Nộp sản phẩm của cá nhân đã viết ra giấy.

Đại diện của 4  nhóm lần lượt trình bày, nhận xét đánh giá các nhóm.

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

II. Đọc hiểu tác phẩm

1. Bốn câu đầu:  Hoàn cảnh của nước và non

Nước non nặng một lời thề

Nước đi, đi mãi không về cùng non

a. Hai câu đầu

* Câu 1

– Hình ảnh nước non xuất hiện liền kề nhau tạo thành bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình đẹp đẽ.

Cụm từ nặng một lời thề

+ Chữ nặng tạo điểm nhấn, sự chắc chắn chuẩn bị cho lời thề xuất hiện ngay  sau đó.

+ Non nước giao ước với nhau. Ba chữ một lời thề đã khiến non nước sống động, có hồn, trở thành hình ảnh biểu tượng cho đôi lứa. Trong tình yêu, lời thề là một điều cao cả, thiêng liêng, biểu hiện cho sự gắn bó sâu nặng, cho yêu thương thắm thiết.

Liên hệ: Gợi liên tưởng tới cảnh thề nguyền của Kim – Kiều trong thơ Nguyễn Du: Song song hai mặt một lời đinh ninh.

* Câu 2

– Hình ảnh nước non đã được tách đẩy về hai đầu của  dòng thơ rất phù hợp với việc diễn tả sự chia cách của đôi lứa.

Điệp từ đi kết hợp phép tăng tiến đi/ đi mãi/ không về càng nhấn mạnh sự vời vợi cách trở. Xưa nước non cận kề, quấn quýt thì nay đã nghìn trùng xa cách.

  b. Hai câu tiếp

Nhớ lời nguyện nước thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không.

* Câu 3:  Nhà thơ một lần nữa lại nhắc lại lời thề để khẳng định sự đinh ninh giữ trọn tình cảm mặn nồng của non đối với nước.

* Câu 4

Lặp lại ý câu 2, câu 4 tô đậm sự cách biệt giữa nướcnon.

– Câu thơ ngắt nhịp 4/4 tạo hai vế đối nhau cân chỉnh. Vế đầu nói về sự ra đi của nước. Còn vế sau  nói đến sự đợi chờ của non. Sự đối lập ấy cho thấy tình cảnh lẻ loi, cô đơn của non khi  ngóng trông trong nhung nhớ và cô đơn.

  Nhận xét:  Khổ mở đầu có cấu trúc rất chặt chẽ. Câu 1 và câu 3 cùng làm nổi bật lời thề nguyền thắm thiết. Câu 2 và câu 4 cùng hướng tới hoàn cảnh xa cách của nước và non. Lời thề càng sâu nặng, nỗi đau xa cách của non  càng trở nên thấm thía, đau xót.
  2. Mười câu tiếp: Tâm trạng của non trong những ngày vắng nước

Non trực tiếp bày tỏ nỗi lòng về chuyện biệt li lưu lạc của tình yêu đôi lứa bằng giọng điệu trầm buồn. Qua những lời tự tình đó, núi (non)tương tư hiện lên trong nhan sắc đang phai tàn nhưng tình cảm luôn đong đầy

2.1. Sáu câu thơ đầu: Hình tượng núi tương tư trong dáng vẻ một nàng cô phụ

*  Hai câu thơ:

Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

– Họa bức chân dung non, tác giả tập trung trước hết tới đôi mắt hẳn vì đôi mắt thể hiện rõ được tâm tư, tình cảm sâu kín của con người. Đôi mắt được xuất hiện với những dạng thức khác nhau, khi là những ngóng cùng trông  có lúc lại là suối khô dòng lệ.

– Từ những được đặt trước các động từ  ngóng, trông vừa gợi cái nhìn đăm đăm dõi về phía trước, vừa nói được sự mong đợi khắc khoải và nỗi cô đơn cứ đeo đẳng, bám riết non.

Liên hệ: Ý thơ của Tản Đà gợi liên tưởng tới câu thơ của Nguyễn Du: Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

– Hình ảnh suối khô dòng lệ:

+ Đây là hình ảnh ẩn dụ chỉ đôi mắt của người con gái.

+ Từ khô giúp ta hình dung được non đã nhiều lần khóc, nước mắt đã cạn kiệt vậy mà nước vẫn biền biệt phương trời.  Vì thế non càng mong nhớ, chờ đợi thì càng tàn tạ,tiều tụy.

* Bốn câu tiếp: Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bong tà dương

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.

– Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng xương mai, tóc mây, vẻ ngọc, nét vàng đều chỉ vẻ đẹp của non . Non  có thân hình mảnh mai duyên dáng, có mái tóc mây mềm mại, mượt mà.

– Các từ ngữ hao gầy, đầy tuyết sương, phôi pha biểu thị trường nghĩa tương tư tiều tụy, héo hon, vì sầu não nhớ thương của non  hay cũng chính là của cô gái.

Liên hệ: Trương Cửu Linh cũng đã viết về sự hao gầy của con người vì nỗi tương tư:

Tư quân như nguyệt mãn

Dạ dạ giảm quang huy.

(Tự chi quân xuất hĩ, Trương Cửu Linh)

Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm

(Lời dịch của Ngô Tất Tố)

-> Bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, phép nhân hóa kết hợp với các từ ngữ giàu sức gợi, Tản Đà đã khắc tạc một cách sống động dung nhan héo mòn của non khi đợi chờ nước.

2.2. Bốn câu thơ tiếp: Non khẳng định sự nhớ thương, chung thủy của mình

– Sau lời nhắn gửi có chút nghi ngại, trách móc, dỗi hờn nhẹ nhàng, non khẳng định tình yêu chung thủy của mình:

Dù cho sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa.

– Thành ngữ sông cạn đá mòn nêu lên một giả định về sự thay đổi lớn lao có thể xảy ra trong đời sống. Thành ngữ này thường dùng trong lời thề để đối lập với ý lòng người vẫn không đổi thay.

– Điệp từ còn được láy lại ba lần cùng cặp từ dù/hãy còn  đã khẳng định tình yêu vững bền không có gì thay đổi được.

  3. Sáu câu nối tiếp: Lời an ủi của nước đối với non

Khác với lời tự tình mang âm điệu trầm lắng, buồn đau của non ở trên, lời đáp, lời an ủi của nước ở đoạn này lại mạnh mẽ, sôi nổi, tươi vui. Nước nói với  non bằng lời lẽ trìu mến, ân tình, bằng lí lẽ rất thuyết phục

* Hai câu đầu: Khẳng định sự trở về của nước

Non cao đã biết hay chưa

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

– Câu thơ Non cao đã biết hay chưa mang hình thức câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần câu trả lời. Đó là cái cớ để nước bộc lộ tình cảm với non.

– Hình ảnh nước đi ra bể mưa về nguồn diễn tả chính xác vòng lưu chuyển của nước: nước từ lòng đất tuôn chảy thành sông suối ra biển, nước biển bốc hơi, ngưng tụ thành mây, rồi mây làm thành mưa, mưa rơi về đất. Như vậy tác giả lấy quy luật vĩnh hằng của tự nhiên để khẳng định sự tình yêu bất diệt của nước đối với non.

* Bốn câu sau: Nước động viên,vỗ về non

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. . .

– Hình ảnh thơ:

+ Nếu ở các câu trên non nước xa tách nhau thì tới câu thơ này được đặt cạnh nhau tạo nên mối quan hệ gắn bó khăng khít.

+ Hình ảnh ngàn dâu xanh tốt:

/Mang dáng dấp của thành ngữ bãi bể nương dâu. Thành ngữ chỉ sự biến đổi dữ dội của thiên nhiên, thế sự với bao nỗi ngậm ngùi, nuối tiếc.

/Sự sáng tạo của Tản Đà: Vẫn dùng hình ảnh ngàn dâu, vẫn nói tới sự biến đổi của thiên nhiên, cuộc đời nhưng là sự biến đổi theo tích cực. Sắc xanh của ngàn dâu cho thấy sự sống, sinh sôi, tươi tốt. Có thể coi đó là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống tốt đẹp.

– Các từ ngữ: hội ngộ còn luôn, chớ có buồn, cứ vui khắc sâu thêm sự thấu hiểu sự chân thành của nước với non. Nước tâm tình và khẳng định dù có đi đâu cũng vẫn quay về, vẫn chung thủy với non. Vì thế non chớ có buồn mà hãy cứ vui.

à Lời của nước cũng rất mực ân tình. Mỗi lời vang lên là một sự khẳng định đinh ninh trước sau như một.

  4. Hai câu cuối: Nước non khẳng định lại lời nguyền

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước không nguôi lời thề.

Hai chữ nghìn năm: Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của nonnước là lời thề nghìn năm kết đôi. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời

Hình ảnh Non non nước nước

+ Hai chữ non nước mở đầu bài thơ có lúc chia tách ra, rồi đến cuối bài thơ vừa nhập liền vào nhau và vừa được láy lại thành non non nước nước. Sự trùng điệp này nhấn mạnh đến sự dính kết, quyết quýt, xoắn quyện vào nhau của đôi lứa.

+ Lời thề xưa, câu ước cũ cả non nước đều  không nguôi. Dẫu cuộc sống có thăng trầm, biến cải thì lời thề đinh ninh chính là niềm tin duy nhất của nước non.

Hoạt động 3: Tổng kết

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

HS khái quát giá trị nghệ thuật.

HS khái quát giá trị nghệ thuật.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

III. Tổng kết

1. Về nghệ thuật

– Thể thơ lục bát giàu nhạc điệu, ngôn ngữ giản dị, sử dụng thành ngữ dân gian điêu luyện; giọng thơ có sự thay đổi khi ngọt ngào mà sâu lắng, lúc nồng nàn, tha thiết.

– Xây dựng được hình tượng nghệ thuật độc đáo, đa nghĩa non nước.

– Bút pháp nghệ thuật ước lệ, từ ngữ Hán – Việt tạo nên sắc thái trang trọng, quý phái cho lời thơ

2. Về nội dung

Bài thơ tái hiện vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên sơn thủy, ca ngợi tình yêu đôi lứa thủy chung, vững bền đồng thời thể hiện tình yêu nước kín đáo, tha thiết của tác giả.

 

Ví dụ 3:

Đọc hiểu:                                TỎA NHỊ KIỀU

Xuân Diệu

  1. Mục tiêu cần đạt
  2. Kiến thức

– Nội dung: Giúp HS nhận thức được một khía cạnh tích cực về quan niệm sống thể hiện trong tác phẩm. Đó là khát khao sống sâu sắc, mãnh liệt, thật sự có ý nghĩa.

– Nghệ thuật: HS bước đầu nắm được thể loại truyện ý tưởng: Truyện bộc lộ cảm xúc, cảm nghĩ của tác giả.

  1. Kĩ năng

HS vận dụng đơn vị kiến thức cơ bản để xử lí các câu hỏi về phong cách nghệ thuật văn thơ Xuân Diệu, phong cách nghệ thuật nhà văn.

  1. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
*GV đặt câu hỏi: Trình bày những hiểu biết cơ bản về:

-Xuất xứ

-Quan niệm sống của Xuân Diệu

-Hệ thống nhân vật

-Lời đề từ

-Bố cục của tác phẩm

*HS trả lời câu hỏi

*GV nhận xét, đánh giá và chốt lại kiến thức cơ bản

 

 

I. Tìm hiểu chung

– Rút từ tập truyện ngắn Phấn thông vàng (1939)

– Quan niệm sống của Xuân Diệu: sống sâu sắc, mãnh liệt.

– Lời đề từ:

+ Xuất xứ: Thơ của Đỗ Mục – thời nhà Đường

+ Ý nghĩa: cuộc sống chật chội, tù túng của những con người trong gia đình hai nàng Kiều.

– Hệ thống nhân vật:

+ Nhân vật tôi, người kể chuyện.

+ Hai nàng Kiều, Phan, bố hai nàng (hai cha) và những người không tên khác.

– Chủ đề: Tác giả bộc lộ nỗi Thương vay, thương giùm người đời phải sống cuộc sống nhạt nhẽo, buồn tẻ, tù túng.

– Bố cục: 3 phần ( Đoạn 1 / 2,3,4 / 5 )

Phần 1: Khúc dạo đầu của nỗi thương vay

Phần 2: Nỗi thương vay với hai nàng Kiều và các nhân vật khác.

Phần 3: Mong ước không thành.

Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung văn bản

Hoạt động nhóm:

* Bước 1: GV giao nhiệm vụ:

– Lớp học chia thành 4 nhóm

– Bầu nhóm trưởng, thư kí

– GV giao nhiệm vụ, cả 4 nhóm cùng thực hiện.

– Các câu hỏi HS cần trả lời:

+ Thương vay là gì ?

+ Trong câu chuyện này, đối tượng thương vay tác giả là ai ?

+ Con người, cảnh vật hiện lên trong quan sát của nhân vật tôi như thế nào ? Vì sao anh ta lại luôn cảm thấy buồn, khó chịu khi quan sát cảnh tượng đó ?

* Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

* Bước 3:

– Từng nhóm HS trình bày

– Các HS tranh luận, bổ sung ý kiến.

* Bước 4: GV nhận xét, chốt lại kiến thức

 

 

II. Đọc hiểu tác phẩm  

1. Phần 1. Khúc dạo đầu của nỗi thương vay

a) Khái niệm thương vay

+ Thương những đối tượng không có quan hệ gì với mình.

+ Nếu thương đúng cái đáng thương và đối tượng đáng thương thì chính là lòng nhân đạ cao cả nhất.

àNhững nghệ sĩ chân chính sinh ra là để thương vay.

– Người thương vay: Tác giả

– Đối tượng đáng thương: hai cô Kiều và các nhân vật khác.

b) Khúc dạo đầu nỗi thương vay

– Thương con người: Phan sống âm thầm, nhịp nhàng với tất cả chỗ anh ở.

– Thương cảnh vật: cái gì cũng buồn như nhau:

+ Con đường sắc canh không rải nhựa

+ Dãy phố lặng lẽ

+ Gian nhà không đặc biệt

+ Đoạn đường không rộng – không hẹp, hơi gập ghềnh.

+ Nhà: vẻ phong lưu nghèo nghèo một tí

+ Ánh sáng: không chịu sáng,…

– Thời gian: là một buổi chiều dài.

– Tâm trạng nhân vật tôi: bùi ngùi quá, ngùi ngùi một cách vô lý.

à Nhận xét:

+ Nhân vật tôi thương cái đáng buồn. Cái đáng buồn không phải cuộc sống bi thảm, cũng không phải cái xấu, cái ác ngự trị. Cái đáng buồn ở chỗ cái gì cũng lỡ cỡ, lưng chừng, cái gì cũng buồn như nhau. à Tất cả đều không gây cảm xúc mãnh liệt.

+ Tác giả dùng một loạt từ không đủ, không chịu để mô tả ngoại cảnh, nói cái buồn và sự khó chịu đặc biệt của mình. à Điều mà nhân vật tôi muốn nhìn là cảnh phải sắc nét, góc cạnh, con người phải thể hiện được cá tính mạnh mẽ.

Hoạt động nhóm:

*Bước 1: GV tiếp tục giao nhiệm vụ cho các nhóm. Bầu lại nhóm trưởng và thư kí.

-Các vấn đề học sinh cần giải quyết dưới dạng câu hỏi.

+Đối tượng nỗi thương vay là ai?

+Đặc điểm của đối tượng đó biểu hiện qua chi tiết nào ? Họ có đặc điểm gì chung ?

+Cảm xúc của nhân vật tôi được thể hiện qua chi tiết nào ?

+Từ những con người cụ thể ấy, nỗi buồn thương của nhân vật tôi lan tỏa đến đối tượng nào ?

+Thương người rồi lại thương mình. Suy nghĩ của nhân vật tôi về thế hệ mình ra sao ?

* Bước 2:

-Từng nhóm trình bày.

-Các nhóm tranh luận, bổ sung ý kiến.

* Bước 3: GV nhận xét, chốt lại kiến thức.

 

2. Phần 2: Nỗi thương vay với hai nàng Kiều cùng các nhân vật khác

a. Đối tượng của nỗi thương vay

– Hai nàng Kiều:

+ Tài sản: không giàu, không nghèo.

+ Dung mạo: không đẹp, không xấu, không sắc, không duyên, không ngây thơ mà chỉ ngây ngây, thơ thơ.

+ Y phục: rất thanh đạm và nhạt nhẽo.

+ Tính cách: không dữ, không hiền ngơ ngác như hai hột cơm; không làm gì, không đi chơi, hết vào lại ra như chờ đợi một dự gì xảy đến một cách mơ hồ và vu vơ…

– Phan: khó hiểu, mập mờ, không buồn hẳn, không vui hẳn (1/6 nụ cười)

àNhận xét: Các nhân vật đều không bộc lộ hành vi, trạng thái cảm xúc mãnh liệt để khuấy động cuộc sống đơn điệu tẻ nhạt của họ. Họ sống mà như không sống, như không hề có mặt ở đời, như là hư vô.

b) Suy nghĩ của nhân vật tôi – người thương vay

– Trước những đối tượng cụ thể: hai Kiều và Phan.

+ Hai Kiều:

/Không kiều diễm để thương xót cho vẹn toàn.

/Trông hai Kiều như một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý thì tôi như cảm nghe sự mờ nhạt của cuộc đời.

+ Trước sự lặng lẽ của Phan: Tôi cảm như không có anh Phan.

à Nhận xét: Những từ chỉ ý phán đoán: có vẻ, có lẽ, cảm như, dường như,… xuất hiện khá nhiều à Nỗi thương vay của nhân vật tôi xuất phát chủ yếu từ chính trong lòng anh ta.

– Từ đối tượng cụ thể, nỗi buồn thương được mở rộng ra với sự liên tưởng đến nhiều đối tượng khác, trong nhiều hoàn cảnh không gian, thời gian khác.

+ Hai cô như hai con vật ngẫn ngơ trong rừng lạnh khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cày.

+ Hai cô gợi nhớ không khí chán nản của những buổi chiều nơi tro tán, bếp lạnh ngày xưa, có đôi con ruồi thỉnh thoảng bay lên, hoặc nhịp sống đơn điệu trong gia đình tôi: Hết cơm mai rồi lại cơm chiều,…

+ Từ những liên tưởng ấy, cảm nghĩ ấy, nhân vật tôi đã khái quát đối tượng thương vay rộng lớn hơn và sâu sắc hơn: Cái đáng thương và cái đáng buồn là cái Ao Đời bằng phẳng của cả chúng ta.

+ Ta nhảy múa, gào khóc, quay cuồng để cho có việc, cho quên đi cái thực chất của đời ta chỉ là một vũng ao tù bế tắc.

+ Ta thương những cô Kiều và những anh Phan nọ chẳng qua là ta bắt gặp cái thực chất của đời ta ở họ. à Xét đến cùng là ta thương chính ta, và buồn chung cho cả chúng ta, cả xã hội ta (trước CMT8) – cái xã hội mà những con người giàu sinh lực, đầy tâm huyết không biết làm gì, không biết sống thế nào cho có ý nghĩa thực sự.

à truyện ý tưởng giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.

Hoạt động nhóm:

*Bước 1: GV tiếp tục giao nhiệm vụ cho các nhóm. Bầu lại trưởng nhóm và thư kí.

GV giao nhiệm vụ cho các nhóm: Trả lời câu hỏi:

+Mong ước của nhân vật tôi là gì?

+Nhận xét của em về nguyên nhân dẫn đến lối sống, nhịp sống của hai Kiều và Phan.

+Thái độ của tác giả được bộc lộ như thế nào ?

*Bước 2:

-Từng nhóm trình bày.

-Các nhóm tranh luận, bổ sung ý kiến.

*Bước 3: GV nhận xét, chốt lại kiến thức.

GV giúp HS củng cố lại kiến thức

 

3. Phần 3: Nỗi mong ước không thành của nhân vật tôi

– Tôi định tâm đến gây sự, chọc ghẹo hai cô, mong hai cô dữ tợn à Kết quả hoàn toàn ngược lại: hai cô lại thêm hiền lành, cái hiền hậu làm tôi khó chịu.

– Tôi thật sự sung sướng khi thấy Phan có thể có tình yêu nhưng rồi cũng chỉ là mong ước không thành vì Phan đã đổi chỗ ở.

à Nhận xét:

– Cuộc sống trì trệ, tù túng đã, đang và tiếp tục dìm nghỉm các nhân vật.

– Thái độ của tác giả: Phủ nhận kiếp sống bằng phẳng, mờ nhạt, vô nghĩa. Sống mà như không sống. Đây là những kiếp người không được sống thật sự  và cũng không biết sống thực sự, sống hết mình cho cuộc sống của mình.

– Quan niệm của Xuân Diệu: Mỗi cá nhân phải biết sống sâu sắc, mãnh liệt, sống hết mình để tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình.

Hoạt động 3: GV hướng dẫn HS chốt lại kiến thức cơ bản

 

III. Tổng kết

1. Nội dung

Câu chuyện giàu giá trị hiện thực và nhân đạo

– Giá trị hiện thực: Tác giả phản ánh sinh động cuộc sống tù đọng, mờ nhạt mỏi mòn của con người trước CMT8.

– Giá trị nhân đạo: Nhà văn thức tỉnh niềm khát khao khẳng định cái tôi trước vũ trụ của mỗi người. Mỗi cá nhân không nên bằng lòng với cuộc sống xam xám, đơn điệu, nhàm chán.

2. Nghệ thuật

– Thể loại: Truyện ý tưởng. Truyện bộc lộ cảm xúc, cảm nghĩ của tác giả.

– Người kể chuyện: Ngôi thứ nhất xưng tôi.

– Cách quan sát, mô tả cảnh vật thiên nhiên, con người của tác giả hết sức tinh tế và tài hoa. Nhà văn sử dụng hệ thống từ ngữ bộc lộ cảm xúc buồn bực đến khó chịu trước hiện thực từ cảnh vật đến con người đều lỡ cỡ, lưng chừng…

 

Ví dụ 4:

Đọc hiểu:                              MỢ DU

Nguyên Hồng

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức:

– Hiểu được tình mẫu tử, hiểu được tình yêu thương con sâu nặng đặt trong hoàn cảnh éo le của nhân vật mợ Du, qua đó thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

– Thấy được một số nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm như nghệ thuật tạo tình huống để  khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật; nghệ thuật trần thuật…

  1. Về kĩ năng: Đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn.
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu chung về văn bản

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

GV chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu HS đọc, mỗi nhóm thảo luận và cử hai HS lên thực hiện nhiệm vụ đóng vai phỏng vấn :

-Về tiểu sử

-Về con người

-Về cuộc đời

-Về sự nghiệp

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc nhóm, cử học sinh lên đóng vai phỏng vấn.

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

HS đóng vai, tiến hành phỏng vấn để trình bày những nét cơ bản về tác giả.

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

– Hoạt động 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu chung  tác phẩm

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

HS đọc văn bản, nêu xuất xứ và chia bố cục.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm cá nhân

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

HS trình bày những nét cơ bản về tác phẩm

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả (1918- 1982)

* Quê: Nam Định

* Là nhà văn lớn của nền Văn học Hiện đại Việt Nam

* Thời thơ ấu: trải qua nhiều cay đắng, đau khổ. Đó chính là nguồn cảm hứng trong các sáng tác của ông

* Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976.

2. Tác phẩm

– Xuất xứ: Đăng một phần trên Tiểu thuyết thứ bảy số 277 ra  ngày 23-9-1939.

-Thể loại: truyện ngắn

– Đề tài: Viết về người mẹ- đề tài quen thuộc trong sáng tác của Nguyên Hồng và trong văn học.

– Bố cục:

+ Đoạn 1: Từ đầu -> như cái bàng bạc của đêm thu đầy trăng: Mợ Du trong kí ức của nhân vật tôi

+ Đoạn 2: Từ … Bẵng đi 17, 18 năm -> hết: Cái chết của mợ Du trong hiện tại.

Hoạt động 3: Hướng dẫn HS đọc hiểu đoạn 1 của văn bản.

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

GV chia lớp thành 4 nhóm, làm việc theo kĩ thuật khăn trải bàn để tìm hiểu đoạn 1.

+ Nhóm 1+3:

Tìm những chi tiết, hình ảnh miêu tả ngoại hình của nhân vật mợ Du và nhận xét?

Tìm những chi tiết kể và tình cảm của mợ Du dành cho Dũng, con trai của mợ và nhận xét?

+ Nhóm 2+4:

Tìm những chi tiết nói về hoàn cảnh của nhân vật mợ Du và nhận xét?

Nhận xét về thái độ của nhân vật tôi?

Đề trả lời câu hỏi của nhóm 1+3, GV gợi ý HS những câu hỏi nhỏ.

Mợ Du gặp con trong hoàn cảnh như thế nào?

Khi gặp Dũng mợ có hành động như thế nào?

Khi chia tay Dũng mợ có thái độ ra sao?

Đề trả lời câu hỏi 2+4, GV gợi ý HS những câu hỏi nhỏ.

Ban đầu khi chưa chứng kiến cuộc gặp mặt giữa mợ Du và Dũng nhân vật tôi có thái độ ntn?

Khi được chứng kiến cuộc gặp mặt giữa mợ Du và Dũng nhân vật tôi có thái độ ra sao?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc nhóm: có nhóm trưởng, thư ký; có giấy A0, có bút dạ

HS thảo luận, ghi ra ý kiến cá nhân  vào từng góc của tờ giấy A0 sau đó trao đổi thống nhất ý kiến chung và trình bày.

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Mối nhóm cử nhóm trưởng trình bày kết quả. Các nhóm khác nghe, ghi và nhận xét

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

GV nhận xét, nhấn mạnh những ý cơ bản.

GV bình: Mợ Du khao khát có được hạnh phúc cho riêng mình nhưng tiếng gọi của đứa con thơ cứ níu kéo, khiến cả cuộc đời người mẹ sống trong dằn vặt đau đớn, không có lấy một phút thanh thản.

 

 

II. Đọc hiểu văn bản

1. Mợ Du trong kí ức của nhân vật tôi

a. Nhân vật mợ Du

* Ngoại hình

– Gương mặt: gương mặt trắng mát, gò má hơi cao, mắt có quầng thâm, ướt át, lờ đờ,

-> Gương mặt của một người suy nghĩ đến héo hon, mòn mỏi.

 – Giọng nói: tiếng nói của mợ nhẹ và ấm.
-> Giàu tình cảm

* Hoàn cảnh

– Phải bỏ nhà, bỏ chồng chồng vì mẹ chồng và em chồng bắt được quả tang tình tự với anh thợ may trẻ có duyên

-> bị gia đình nhà chồng hắt hủi.

-> bị mọi người bêu riếu, khinh ghét

– Sinh hạ được một người con trai tên là Dũng nhưng mợ Du không được nuôi con, thăm con và phải sống xa con.

=> Người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã xuất giá là phải tòng phu, là bị trói buộc trong giáo điều, hà khắc, luẩn quẩn. Thế nhưng mợ Du trót đa mang. Tâm hồn mợ không chịu nằm yên gò bó giữa tam tòng, vì thế mợ Du buộc phải sống xa con bởi gia đình chồng không chấp nhận một người đàn bà lệch chuẩn, đa đoan.

* Tình cảm dành cho con

Bị gia đình chồng ngăn cẩm không cho gặp cậu con trai –  thằng bé Dũng, mợ Du tìm mọi cách để gặp mặt nó:

– An! An! Con giúp mợ việc này rồi mợ cho một xu nhé.

Mợ Du giọng ngọt ngào van lơn:

– Con chịu khó một chút mà! Chóng ngoan! Đây mợ cho con hai hào đây.

– > Mỗi lần gặp con trai mợ Du phải lén lút vụng trộm như có tội và chỉ được gặp mặt con trong giây phút -> Tội nghiệp: mợ Du khao khát được  gặp con, mỗi lần muốn được gặp Dũng mợ phải năn nỉ thậm chí là van nài một đứa trẻ, và cho nó hai hào.

– Khi gặp Dũng:

+Mợ bế xốc Dũng lên, đẩy cánh cổng chạy vào trong cùng vườn. Tôi theo vào. Mợ Du đặt Dũng xuống đất, mợ quỳ hẳn đầu gối, hai tay choàng lấy người Dũng

+Mợ Du hôn hít vào má, vào trán, vào cằm Dũng rồi khóc nức nở

-> Mợ Du hôn hít vào má, vào trán, vào cằm Dũng rồi khóc nức nở cho thỏa nỗi nhớ thương mong ước.

– Khi phải chia tay con: Mắt người mẹ khốn nạn, mắt đứa con đầy đọa và mắt tôi đắm vào nhau không biết trong bao nhiêu phút, yên lặng và tê mê…

-> Mợ Du quyến luyến không muốn rời khỏi đứa con, mợ đau lòng khi phải xa nó vì thế ánh mắt mợ cũng trở nên u tối và đau khổ. Giây phút chia tay của hai mẹ con đau khổ và đẫm nước mắt.

=> Nhận xét:

+Sự khao khát gặp lại đứa con của người mẹ được nhà văn đặt trong tình huống đầy cảm động và éo le: người mẹ gặp lại đứa con một cách lét lút, vội vã, hốt hoảng trong một đêm trăng vằng vặc, ngát hương hoa cau, hoa lý. Từ đó thấy được tình yêu con vô bờ bến của người mẹ.

+Người đàn bà đau khổ: có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa 2 con người: 1 bên là người đàn bà muốn kiếm tìm hạnh phúc; 1 bên là người mẹ yêu con hết lòng, không thể rồi xa con.

b. Thái độ của nhân vật tôi

– Lúc đầu: Và, như những người lớn, tôi đã ghét và khinh mợ mỗi khi nghe nhắc đến mợ với cái tội không thể tha thứ ấy.

-> Giống như bao người hàng xóm tác giả cũng tỏ thái độ ghét và khinh mợ Du.

– Sau đó, khi chứng kiến toàn bộ những cuộc gặp gỡ giữa mợ Du và Dũng:

+Tôi dần thấy nghẹn ở cổ. Tôi phải bưng lấy mặt và quay đi chỗ khác: “Mợ ơi! Mợ ơi!”.

+ Nhìn sự chia lìa đau xót của hai mẹ con Dũng, tôi đã có cảm tưởng chính tôi là Dũng, và tôi đã có ý muốn ôm ghì lấy mợ Du, ôm ghì mãi mãi, ôm ghì lấy rồi dù bị chết cũng cam tâm…

-> Thái độ đã thay đổi từ lạnh lùng, khinh ghét thành lòng thương mến, thậm chí xúc động như chính người trong cuộc.

-> Bởi tình cảm của mợ Du dành cho Dũng  đã đánh thức trong nhân vật tôi những cảm xúc về tình mẫu tử. Những tiếng kêu: Mợ ơi… đứt quãng trong tiếng nấc như chính trái tim nhà văn nức nở từng hồi.

Hoạt động 4: Hướng dẫn HS đọc hiểu đoạn còn lại của văn bản.

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

Về cái chết của mợ Du

Cái chết của mợ Du được nói đến qua những chi tiết nào? Cái chết của mợ gợi cho em suy nghĩ gì?

Những vật mang theo bên mình  mợ Du đến lúc trút hơi thở cuối?

Những vật đó thể hiện được tình cảm của mợ Du đối với người con như thế nào?

Về nhân vật tôi

Gặp lại mợ Du trong một hoàn cảnh như thế nào?

Trước những lá thư và tấm hình mợ Du mang theo bên mình đến lúc chết, nhân vật tôi đã có  suy nghĩ gì?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc cá nhân để trả lời câu hỏi:

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

GV bình:  Hầu hết hình ảnh người mẹ trong các sáng tác của Nguyên Hồng đều là những phụ nữ bất hạnh, nạn nhân của đói nghèo, lễ giáo nghiệt ngã, tình đời đen bạc như: người mẹ phải đồng sàng nhưng dị mộng với người chồng tuổi nhiều gấp đôi, rồi chồng cờ bạc, nghiện ngập, chết, khiến người mẹ phải tha phương cầu thực kiếm sống (Những ngày thơ ấu) hoặc người mẹ vì lỗi lầm mà bị ruồng rẫy phải bỏ nhà, xa con, gặp con trong đau khổ, lén lút (Mợ Du), chỉ hiện về trong ký ức của người con bất hạnh (Huệ Chi trước lễ cưới). Phải chăng khi viết về những người mẹ này, Nguyên Hồng đã dứt khoát đứng về phía những con người bất hạnh để cảm thông, bênh vực, yêu thương bằng chủ nghĩa nhân đạo thống thiết

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2. Cái chết của mợ Du trong hiện tại

a. Cái chết của mợ Du

– Mợ Du chết đột nhiên và cô độc không ai thân thích ma chay; …không tiếng kèn tỉ tê, không tiếng khóc kể lể rên rỉ,…

-> Mợ Du đã trút hơi tàn với một bộ xương hốc hác, gồ ghề, xám xịt không người thân nơi đất khách quê người.

– Vật mang theo bên mình đến lúc trút hơi thở cuối cùng là mấy tờ giấy đã nhầu nát, nhòe nhoẹt và tấm hình nhỏ tí bà cụ đưa cho…là bốn bức thư. Bức, chữ viết ngòng ngoèo, bức đã thẳng dòng, bức đã có những câu chấm gẫy gọn và những dấu chấm than và bức, chữ lại nguệch ngoạc, nhưng rắn rỏi và lời lẽ gay gắt như trong một bài báo tranh biện. Tất cả, dưới đều kí tên Dũng…

-> Những bức thư mợ để lại, tất cả đều gắn với đứa con trai bé bỏng của mợ – là Dũng. Phải có tình yêu thương sâu nặng lắm người mẹ mới chăm chút, gìn giữ những bức thư nhỏ qua tháng năm.

-> Mợ Du nhắm mắt, xuôi tay rồi nhưng tình mẫu tử  từ mợ vẫn tỏa sáng. Tiếng gọi cũng như câu hỏi đau buồn không có câu trả lời ở góc bức hình: Dũng ơi! Con của mẹ ơi! Biết đến bao giờ mẹ mới gặp con? như xoáy vào tâm can người đọc, vang lên đầy ám ảnh của một kiếp ười bất hạnh, nghiệt ngã. Mợ Du nằm đó và ngọn lửa ấm nóng của tình mẹ vẫn tỏa sáng mãi. Tấm lòng người mẹ lúc nào cũng lớn lao, cao cả như vậy, sẵn sàng hi sinh thân mình chịu đựng những vất vả khổ đau vì con.

b. Nhân vật tôi

– Khi nghe tin có người đàn bà bất hạn vừa qua đời: Đứng ở trong này, tôi đã thấy lòng run run. … -> có trái tim nhân hậu và giàu tình yêu thương, xót xa cho những số phận của những con người nhỏ bé, tội nghiệp, những thân phận bất hạnh, cô đơn.

– Nhân vật tôi  vô tình gặp lại mợ Du trong một hoàn cảnh éo le: cái chết của người đàn bà tha phương ở nhờ người hàng xóm và là một cái chết là kết thúc vô cùng bi kịch và đầy đau thương, lặng lẽ của mợ Du: Tôi hồi hộp nhắc cái vuông khăn tay dòng dọc đỏ phủ mặt người đàn bà lên. Tôi lặng đi, tê tái nhìn cái bộ xương hốc hác, gồ ghề, xám xịt.

-> Cảm xúc xót thương thấm thía, tê tái trong lòng.

Hoạt động 5: Hướng dẫn HS tổng kết về nội dung và nghệ thuật của  tác phẩm

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

HS rút ra những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

HS rút ra những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc cặp đôi

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

Lối viết văn bình dị, giản đơn như chính cuộc đời đi vào tác phẩm.

– Tác phẩm không hấp dẫn người đọc bỏi những câu chữ cầu kì mới lạ, những biện pháp nghệ thuật độc đáo mà là da cái tình rất mạnh, nó chi phối toàn bộ mạch truyện.

– Nghệ thuật tạo tình huống để  khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật: Hoàn cảnh gặp gỡ giữa mợ Du và Dũng càng éo le, tình mẫu tử càng tỏa sáng…

2. Nội dung

– Tác phẩm đã khắc hoạ hình ảnh người mẹ trong cảnh ngộ gặp con thương cảm đến rơi lệ. Người mẹ ấy dù lầm lỡ, nhưng vẫn yêu thương con đến thắt lòng và cuối cùng người mẹ ấy chết trong bất hạnh, đau khổ và thương nhớ.

Mợ Du là khúc hát của tình mẫu tử thiêng liêng và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.

 

Ví dụ 5:

Đọc hiểu:                

KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU

Tố Hữu

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức:

– Sự cảm thông, lòng trân trọng và biết ơn của Tố Hữu với Nguyễn Du.

– Hồn thơ dân tộc qua bút pháp trang trọng cố điển, đặc biệt là hình thức tập Kiều.

  1. Kĩ năng:

– Đọc hiểu, tác phẩm trữ tình.

– Sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt, thưởng thức, cảm thụ văn học.

  1. Đọc hiểu
Hoạt động của GV & HS Nội dung cần đạt
Bước 1: Tìm hiểu về tác giả tác phẩm

Dựa trên sự chuẩn bị của học sinh, giáo viên đặt câu hỏi để học sinh trả lời.

Nêu ngắn gọn những hiểu biết về Tố Hữu?

Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?

GV hướng dẫn HS đọc văn bản (nhịp điệu, giọng, cảm xúc).

Gọi HS đọc.

Bài thơ chia làm mấy phần? Nội dung từng phần?

 

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

2. Tác phẩm

* Hoàn cảnh sáng tác: 1965.

– Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ lan rộng: miền Trung trở thành tuyến lửa ác liệt.

– Tháng 10,11/1965, Tố Hữu có chuyến đi vào các tỉnh miền Trung. Ông qua quê hương Nguyễn Du vào dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh của đại thi hào.

* Bố cục:

– Khổ 1: Cảm xúc chủ đạo.

– Khổ 2-3: Sự cảm thông với Nguyễn Du.

– Khổ 4,5,6: Lòng trân trọng và biết ơn với Nguyễn Du.

– Khổ 7: Gạch nối giữa quá khứ và hiện tại.

Bước 2.  Tìm hiểu văn bản

– HS đọc.

– HS Tìm hiểu, thảo luận.

+ Thời gian, không gian nảy sinh cảm xúc.

+ Cảm xúc chủ đạo.

(Thời gian: Nửa đêm ® Thời gian sâu lắng của tâm tương không gian Nghi Xuân ® Đặc biệt – Quê hương của đại thi hào. Cảm xúc: Bâng khuâng, nhớ, thương)

HS trả lời

GV chốt ý.

– HS đọc phần 2.

* GV nhận xét đọc.

* Chia nhóm để hs tự thảo luận tìm hiểu.

Chia làm 4 nhóm: 2 nhóm tìm hiểu 1 khổ thơ. Sau đó 1 nhóm trình bày, 1 nhóm nhận xét.

Các nhóm khác bổ sung.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Cảm xúc chủ đạo (khổ 1)

– Thời gian, không gian: Mang tính khách quan mà đã ngầm chứa những tiền đề cảm xúc của chính nhà thơ.

– Cảm xúc:  Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều. Câu thơ diễn đạt cô đọng cảm xúc chủ đạo bao trùm bài thơ

(Nhà thơ đang đi giữa lòng cuộc sống hôm nay nhưng nỗi nhớ thương đã bắc cầu để hiện tại nối vào quá khứ. Đường biên lịch sử bỗng chốc được xóa nhòa bởi sức cảm thông kì lạ của con người).

* Khổ 2.

– Học sinh cần nêu một số ý sau:

+ Cuộc đời  Kiều như cánh bèo chìm nổi giữa dòng đời, bán mình chuộc cha: ngổn ngang giữa hiếu và tình. Từ Hải chết, nàng tự vẫn ở sông Tiền Đường.

+ Khi Nguyễn Huệ  kéo quân ra Bắc lòng Nguyễn Du ngổn ngang trăm mối giữa tư tưởng phù Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn. Ngẩn ngơ với Kiều là nỗi niềm trước cờ đào Từ Hải, với Nguyễn Du là nuối tiếc bất lực trước cờ đào Nguyễn Huệ? Không  hiểu hướng đi của lịch sử, bế tắc về tư tưởng, xung đột giữa lí trí và tình cảm, Nguyễn Du buông mình phó mặc cho số phận đẩy đưa Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường.

– Giáo viên nhận xét, bổ xung, chốt ý.

* Khổ 3

– HS cần phân tích chỉ ra được nét đặc sắc:

+ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng . ẩn dụ diễn tả mối tình không dứt của Kiều với Kim Trọng được Tố Hữu mượn lại để diễn tả nỗi lòng Nguyễn Du Nhân tình nhắm mắt chưa xong – dù chết vẫn  vấn vương tình thương con người.

+ Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như: Được thêm một chữ cùng rất sáng tạo: Không chỉ khóc thương riêng Nguyễn Du mà cùng Nguyễn Du khóc cả cuộc đời khổ đau® Cảm xúc thơ được mở rộng tầm vóc.

+ Mai sau dù có …. hôm nay (Phân tích tương tự…)

– GV gọi học sinh đọc phần 3

(Lưu ý giọng thay đổi so với phần 1,2).

– Tiếp tục chia nhóm để học sinh tự tìm hiểu, thảo luận những nét chính về nghệ thuật, nội dung của 3 khổ thơ.

2. Sự cảm thông với Nguyễn Du (khổ 2-3)

* Khổ 2:

– Tái hiện hình ảnh Thúy Kiều – Một số phận đầy bi kịch. Nàng Kiều với những bước ngoặt khổ đau gây mối thương cảm cho người đọc.

– Cảm thông với Nguyễn Du.

Đành như thân gái ®Phép so sánh ® Những dòng thơ chủ yếu làm hiện lên số phận Nguyễn Du. Thúy Kiều không chỉ   là một hình tượng mà còn là một kí thác. Nguyễn Du muốn mượn Thúy Kiều để kí thác tâm sự của chính mình.

® Phát hiện một Nguyễn Du ẩn trong hình tượng Thúy Kiều vừa là một phát hiện trí tuệ vừa là năng lực cảm thông sâu sắc của Tố Hữu với bi kịch cuộc đời của đại thi hào: Bế tắc, bất lực không tìm được đường đi ( Đây cũng là bi kịch của nhiều trí thức Việt Nam thế kỉ XVIII, XIX: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát).

* Khổ 3:

– Tái hiện Nguyễn Du bằng chính thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du (Sử dụng khá triệt để giọng điệu, từ ngữ thậm chí cả những  câu thơ nguyên vẹn trong Truyện KiềuĐộc Tiểu Thanh kí)

– Niềm cảm thông của Tố Hữu trước tình yêu thương con người da diết nhưng  bất lực của Nguyễn Du.

* Nhận xét chung:

– Tố Hữu đã hiểu đúng, hiểu sâu  và cảm thông với hai bi kịch lớn của đại thi hào: Bi kịch chính trị (không tìm ra lối thoát lịch sử) và bi kịch tình đời (yêu thương con người nhưng bất lực).

– Nghệ thuật diễn tả đậm tính cổ điển mà đầy sáng tạo.

* Khổ 4:

– Cần lưu ý để học sinh phát hiện và hiểu đúng các từ ngữ, câu thơ Hai trăm năm, say, gió dập sóng dồi, Đau đớn thay phận đàn bà.

– Cảm nhận về câu thơ Gớm quân Ưng Khuyển ghê bầy Sở Khanh.

+ Tách từ láy ghê gớm để ném về hai đầu vế thơ nhằm nhấn sâu nỗi căm uất của con người trước lũ  lưu manh tham tàn, lừa lọc.

+ Ưng Khuyển Sở Khanh, trở thành ẩn dụ.

– HS đọc khổ 6

GV định hướng: Đây là khổ thơ tập trung thể hiện sự tôn vinh bậc đại thi hào.

Biện pháp tu từ được Tố Hữu sử dụng?. Tác dụng?

(vừa gần gũi, thân thiết, vừa cao cả thiêng liêng, vừa tỏa ra không gian rộng lớn, vừa vươn theo độ dài thời gian).

Cảm nhận về âm thanh tiếng trống ở khổ cuối?

– Tiếng trống:

+ Thuở Nguyễn Du vọng về/ Tiếng trống gọi quản thời đánh Mỹ.

+ Gợi không khí  vừa cổ kính vừa hiện đại.

 

3. Lòng trân trọng và biết ơn với Nguyễn Du (khổ 4-5-6)

* Khổ 4.

– Lòng thương người làm nên giá trị nhân văn cao cả trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du. Điều này làm cho những tác phẩm  của đại thi hào bất diệt, trong lòng người và trường tồn cùng thời gian.

– Tiếp tục sử dụng lối tập Kiều.

* Khổ 5:

Ưng Khuyển, Sở Khanh ® từ chỗ là  những nhân vật trong Truyện Kiều trở thành ẩn dụ ám chỉ lũ người độc ác hôm nay.

® Thơ Nguyễn Du còn có một giá trị khác giá trị hiện tại, thời sự góp phần chiến đấu chống lại cái xấu cái ác trong cuộc sống hôm nay.

* Khổ 6:

– Nói quá: Tiếng thơ, động đất trời.

– So sánh: Tiếng thơ Nguyễn Du với non nước vọng lời nghìn thu; tiếng mẹ ru.

®Tiếng thơ Nguyễn Du có sức mạnh lay động lòng người và thấu cả trời đất, là sự kết tinh  của ngàn năm đất nước từ ngàn xưa và còn mãi với nghìn năm sau.

®Đây là tôn vinh rất cao, chưa từng có về Nguyễn Du từ xưa đến nay. Nó bộc lộ lòng trân trọng biết ơn sâu sắc với bậc thiên tài.

4.  Gạch nối giữa quá khứ và hiện tại (khổ 7).

– Âm thanh tiếng trống trận cổ kính và giục giã như đưa tác giả (và độc giả) ra khỏi tâm trạng bâng khuâng để nhập hẳn vào không khí của thời đại mình.

® Nguyễn Du và tác phẩm của ông cũng tích cực tham gia vào cuộc ra trận lớn của dân tộc hôm nay.

Bước 3: Tổng kết

Giáo viên dùng phương pháp vấn đáp để hướng dẫn HS nắm khái quát nội dung cần đạt của bài học.

Nhận xét khái quát về giá trị nghệ thuật và nội dung của bài thơ?

– HS trả lời.

– GV  đánh giá, chốt ý.

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

– Thể thơ lục bát, hình thức tập Kiều được sử dụng nhuần nhi và sáng tạo.

– Bút pháp cổ điển.

® Phong cách thơ Tố Hữu: Đậm đà tính dân tộc.

2. Nội dung

Sự cảm thông, trân trọng và lòng biết ơn với đại thi hào Nguyễn Du.

 

Ví dụ 6:

Đọc hiểu:

TỜ HOA

                       Nguyễn Tuân

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức: Từ cái nhìn, suy ngẫm, cảm hứng của Nguyễn Tuân về cái Đẹp, cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc… thấy được một cái tôi Nguyễn Tuân với tài và tâm rất đáng quý, một phong cách rất mực tài hoa, uyên bác…
  3. Kĩ năng: Đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại, phân tích, khái quát, lí giải…
  4. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS đọc, tìm hiểu chung về tác phẩm

– GV gọi HS nêu vị trí; thời gian, hoàn cảnh sáng tác; xuất xứ.

→ HS trả lời.

→ GV nhận xét, nhấn mạnh.

– GV gợi nhắc HS củng cố kiến thức cơ bản về đặc điểm của thể tùy bút.

 

 

 

 

 

– GV đặt câu hỏi: Em hiểu như thế nào về nhan đề tác phẩm?

→ HS trả lời.

→ GV nhận xét và định hướng.

– GV gọi HS đọc tác phẩm và hướng dẫn đọc, chia bố cục.

I. Tìm hiểu chung

1. Vị trí: Thể hiện những nét tiêu biểu của tài nghệ và phong cách Nguyễn Tuân

2. Thời gian, hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ

– Thời gian, hoàn cảnh sáng tác: năm 1966 vào những ngày xuân, trên một công trường làm đường Tây Bắc.

+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ đang bước vào giai đoạn quyết liệt và giành những thắng lợi ban đầu rất đáng phấn khởi.

+ Không khí lao động, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống ngoại xâm náo nức…

– Xuất xứ: đăng trên tuần báo Văn nghệ số 143, in lại trong tập Cảnh sắc và hương vị đất nước.

3. Thể loại: Tùy bút

4. Nhan đề: Có hai hàm nghĩa:

Hoa là các loại hoa hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng.

– Những trang viết đẹp, văn trau chuốt đầy màu sắc và hương thơm – những dòng chữ như gấm như hoa.

5. Bố cục: 3 phần:

–  Phần 1 (Từ đầu đến… đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn): Từ chuyện con ong làm mật, hạt cát hóa thành ngọc trai, nhà văn suy ngẫm về quá trình tạo ra cái đẹp.

– Phần 2 (Từ Phát xít Đức làm cỏ… đến với cái chiều của lich sử): Từ bài thơ về hoa hồng, bức tranh hoa hồng, cái đồng hồ hoa thủy tiên đến đế quốc Mĩ xâm lược mang cái tên Hoa Kì, Nguyễn Tuân ca ngợi sức mạnh chiến thắng của cái đẹp.

– Phần 3 (Còn lại): Niềm vui chào đón hoa mai mùa xuân và niềm tin vào thắng lợi ngày mai.

Hoạt động 2: Hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản

GV gọi HS nhắc lại chuyện ong làm mật, trai tạo ngọc, bông hoa nở từ đó nhận xét về sự ra đời của cái Đẹp.

→ GV nhận xét, định hướng.

GV đặt câu hỏi: Em hãy chứng minh rằng viết tùy bút này Nguyễn Tuân đã cho thấy sức mạnh của cái Đẹp và bộc lộ niềm tin tha thiết vào chiến thắng của dân tộc?

→ HS trả lời, nhận xét và bổ sung.

→ GV nhận xét, giảng giải.

GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm (tên nhóm được đặt theo những hình ảnh có trong tác phẩm do GV gợi ý)

+ GV giao nhiệm vụ:

/2 nhóm tìm hiểu những quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Tuân được phát biểu trong tác phẩm.

/2 nhóm tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật.

+ GV quan sát, hướng dẫn HS thảo luận nhóm.

+ Đại diện hai nhóm trình bày những quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Tuân được phát biểu trong tác phẩm.

→ 2 nhóm còn lại nhận xét, bổ sung.

→ GV nhận xét, rút kinh nghiệm và chốt kiến thức.

Các bước làm tương tự khi hướng dẫn HS tìm hiểu những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Cái Đẹp – sự ra đời và sức mạnh chiến thắng

a. Sự ra đời của cái Đẹp

– Giọt mật ong: Để kết được một giọt mật, con ong phải bay đi, bay về tới 2.700.000 chuyến  khắp quanh vùng có hoa….

– Hạt ngọc trai: Để có hạt ngọc trai tròn trặn ánh ngời nơi cổ, nơi tay con người, những con trai dưới biển cả phải lấy máu, lấy dãi mình ra mà bao phủ cái hạt đau, hạt xót, cái hạt khối tình con rơi vào lòng trai.

– Bông hoa nở: Để những bông hoa tập kết nở trên đất Bắc, cần biết bao nhiêu rễ cái, rễ con, những cái rễ náu mình đang thọc sâu ở rừng Tây Nguyên, rừng U Minh và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn…

→ Sự ra đời của cái Đẹp là một quá trình đầy khó khăn, gian khổ. Nhà văn thật sâu sắc và trí tuệ khi nhìn nó không phải ở chặng thành tựu chót cùng… mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình dài, đầu kia quá trình là một vết thương lòng và đầu này quá trình là một niềm vui…

→ Cảm hứng trân trọng cái Đẹp.

b. Sức mạnh của cái Đẹp và niềm tin chiến thắng

– Từ vùng Liđixê nước Tiệp, nơi xưa kia phát xít Đức thảm sát con người, nay bừng nở một vườn hoa hồng và lừng thơm lên những bài thơ hoa hồng trong đó có một cành của R.Swingler…

–  Câu chuyện em bé Nga phải sống chật hẹp, thiếu những bông hồng thực, phải vẽ những bông hoa xanh vuông theo khoảng trời chật hẹp đã khiến lãnh tụ Lênin rơi nước mắt, ra một nghiêm lệnh…

– Những bông hoa thủy tiên ở đình Bạch Mã nở đúng giao thừa có thể giúp nhà văn vặn lại kim đồng hồ năm mới mà không sợ lệch thời gian…

– Khi thời gian ở trong tay con người, do những con người tài hoa sáng tạo ra bằng muôn ngàn sáng kiến, thì thời gian ủng hộ con người. Bánh xe thời gian bao giờ cũng quay theo chiều xuôi, nghĩa là quay theo cái Đẹp, theo tình yêu thương giữa những con người. Do đó đế quốc Mĩ tất yếu không được thời gian ủng hộ, sẽ thất bại. Máy móc Hoa Kì mặc dù tinh xảo, cái đồng hồ Hoa Kì kia đứng rồi… Nguyễn Tuân nghĩ đến tính chất chính nghĩa của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước được nhân loại tiến bộ đồng tình, ủng hộ. Vì thế hình như nhiều chiếc đồng hồ thượng hảo hạng trên thế giới đang vặn lại theo giờ Hà Nội. Ông tin vào chiến thắng tất yếu của dân tộc, cho nên lắng nghe cái bước tới của năm mới 1966 mà càng thêm nhận rõ là thời gian ra chỉ có ủng hộ mình...

2. Một tuyên ngôn nghệ thuật tinh tế

– Bản chất của nghệ thuật là cái Đẹp, người nghệ sĩ là người sáng tạo ra cái Đẹp.

– Trách nhiệm của nhà văn mình cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì… Sự tích lũy ở mình cũng ngày ngày có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo cho sự sống… Theo Nguyễn Tuân nhà văn phải khổ luyện, miệt mài…

– Nguyễn Tuân phê phán những thứ văn chương, những nhà văn thích sáo ngữ ồn ào như đàn bướm tốt mã, chẳng đem chút mật ngọt nào cho đời, những nghệ sĩ xa rời thực tế, bị trói hoặc tự trói mình trong một khung trời chật hẹp, những kẻ có gai mà không có hoa gì

→ Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Sự tài hoa, uyên bác. Vốn tri thức uyên bác về cổ kim, Đông Tây, chuyện đời thường, chuyện văn chương, chuyện chiến đấu, xây dựng… đều được trình bày cụ thể, xác thực… Một cái tôi Nguyễn Tuân với những ý tưởng thẩm mĩ thật sâu sắc, đầy trách nhiệm, rất quý trọng sự nghiệp, yêu cuộc sống, yêu tha thiết sự nghiệp đấu tranh của dân tộc, không ngừng đấu tranh cho sự chiến thắng của hòa bình, chính nghĩa, nhất là sự chiến thắng của cái Đẹp…

  3. Một áng văn đẹp

– Bố cục phóng túng nhưng mạch suy nghĩ và những hình ảnh, chất liệu thực tế vẫn gắn kết tự nhiên, lôi cuốn. Các tư liệu sử dụng vô cùng phong phú, chính xác, vừa khoa học vừa văn chương.

– Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, viết câu văn: rất giàu có, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ.

+ Từ ngữ: Những từ ghép gợi nhiều liên tưởng, đa nghĩa: tờ hoa, hạt cát khối tình con, ngọn hoa sáng chói, cái rễ náu mình...; những từ đồng nghĩa đa sắc, đa thanh: một hạt cát, một hạt bụi biển, cái bụi bặm khách quan, cái hạt buốt sắc, hạt đau, hạt xót

+ Câu văn: Sở trường ở những câu dài, nhiều nhịp, nhiều tầng, khoan thai trầm lắng. Có đoạn văn mang âm hưởng như thơ, một thứ thơ – văn – xuôi đậm phong cách Nguyễn Tuân…

 Hoạt động 3: Hướng dẫn HS tổng kết

GV chốt lại những kiến thức cơ bản của bài học

 

 

III. Tổng kết

1. Nội dung tư tưởng

– Sự hình thành, sức mạnh của cái Đẹp và niềm tin ở cái Đẹp.

– Tuyên ngôn về nghề viết văn, nghề sáng tạo cái Đẹp.

– Tài và tâm của Nguyễn Tuân.

2. Nghệ thuật: Đặc điểm của tùy bút, nghệ thuật dùng từ, viết câu…

 

Ví dụ 7:

Đọc hiểu:               THÁNG BA RÉT NÀNG BÂN

                                                                                                 Vũ Bằng

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức:

– Cảm nhận được nét đặc sắc riêng của cảnh sắc tháng ba của Hà Nội và miền Bắc được tái hiện trong bài bút kí.

– Thấy được tình quê hương đất nước thiết tha, sâu nặng của tác giả được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc và hình ảnh.

  1. Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của thầy – trò Nội dung kiến thức
Hoạt động 1: Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm

Thao tác 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu về tác giả

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

– Hãy giới thiệu một vài nét về tác giả Vũ Bằng qua các tư liệu tìm được?

– Bằng hiểu biết của  mình, em hãy giới thiệu những nét cơ bản về xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, thể loại và giá trị của tác phẩm Thương nhớ mười hai?

GV định hướng những nét cơ bản.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS thảo luận cặp đôi và trả lời câu hỏi

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

GV gọi đại diện một nhóm trình bày, các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung.

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thao tác 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn trích

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

– GV yêu cầu HS đọc: Giọng chậm rãi, sâu lắng, mềm mại, hơi buồn

– GV đưa ra một số câu hỏi gợi ý HS đọc hiểu khái quát:

+ Trình bày xuất xứ đoạn trích?

+ Đoạn trích viết về cảnh sắc và không khí tháng Ba ở đâu ? Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả khi viết bài này như thế nào ?

+ Văn bản có thể chia thành mấy đoạn? Nội dung của mỗi đoạn?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc cá nhân

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

GV gọi HS trình bày, HS khác nhận xét, bổ sung

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

Vũ Bằng (1913-1984)

– Sinh ra tại Hà Nội, quê gốc ở Hải Dương.

– Vũ Bằng hiện lên là một nghệ sĩ có trái tim nhạy cảm, tinh tế với những biến động của cuộc đời, thiết tha yêu say cái đẹp, ngợi ca nó và cũng yêu ghét rạch ròi; một Vũ Bằng luôn tha thiết hướng về đất, người, cảnh sắc và văn hóa của quê hương xứ sở với tình cảm chân thành, nồng hậu…

– Có sở trường về tr.ngắn, tuỳ bút, bút kí.

– Dù sáng tác ở thể loại nào đi nữa thì về cơ bản, ngòi bút Vũ Bằng luôn có sự kết hợp giữa cảm xúc tinh tế và vốn văn hóa dồi dào.

– Vài nét về tác phẩm Thương nhớ mười hai

+ Xuất xứ: Nằm trong tập tuỳ bút-bút kí Thương nhớ mười hai

+ Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ – ngụy, xa cách quê hương đất Bắc trong khoảng những năm (1960-1971), được xuất bản năm 1972

+ Thể loại: Kí – tuỳ bút mang tính chất hồi kí.

+ Giá trị:

/ Nội dung:

*Thương nhớ mười hai là nhớ thương, nhớ tất cả những gì của Hà Nội, của miền Bắc: nhớ từ đồng lúa con gái màu xanh mơn mởn, nhớ tiếng mẹ ru trưa hè, nhớ hoa sấu rụng đầu phố hàng trống, nhớ quả bàng trụng xuống bờ sông Đào…Đó là một nỗi nhớ rất cụ thể, biểu hiện của một tình yêu Hà Nội, yêu quê hương chân thành, tha thiết. Bên cạnh đó còn là nỗi nhớ về những tình cảm gia đình mang tính truyền thống của người Việt để giữ gìn nền nếp gia phong, để quá khứ hài hòa, sống trong cái hiện tại

*Qua tập tùy bút, tác giả bộc lộ một cái tôi yêu thích khám phá, sành ẩm thực, một cái tôi tài hoa, có duyên, chân thực và tinh tế.

/ Nghệ thuật: Ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, tài hoa, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm chất thơ,…

2. Đoạn trích Tháng ba rét nàng Bân

Xuất xứ: Trích trong chương III của tác phẩm Thương nhớ mười hai

– Chủ đề: Đoạn trích viết về cảnh sắc và không khí vào tháng Ba của miền Bắc qua nỗi nhớ da diết của một người xa quê đang sống ở SG trong vùng kiểm soát của Mĩ-nguỵ, khi đất nước còn bị chia cắt.

Bố cục: 2 phần

+ Phần 1 (từ đầu đến Đố ai cướp được!): Cảm nhận về cảnh sắc thiên nhiên tháng Ba

+ Phần 2 (Còn lại): Cảm nhận về không khí lễ hội của tháng Ba

Hoạt động 2: Hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản

GV hướng dẫn HS đọc hiểu theo đặc trưng của thế kí với phần kí ghi chép và cái tôi tác giả

Thao tác 1: Hướng dẫn HS đọc hiểu cảnh sắc thiên nhiên và không khí lễ hội tháng Ba

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

– Hs đọc đoạn 1 để cảm nhận

– GV hướng dẫn HS đọc hiểu

+ GV chia lớp thành 4 nhóm

/ Nhóm 1: Sự kỳ ảo của đất trời tháng Ba được tác giả hồi tưởng và cảm nhận như thế nào? Qua đó, nhà văn khẳng định đặc điểm gì của tháng Ba?

/ Nhóm 2: Rét nàng Bân trong cảm nhận của Vũ Bằng khác gì với quan niệm xưa nay của cha ông? Hãy nhận xét về đắc sắc nghệ thuật và vẻ đẹp tâm hồn tác giả qua cách cảm nhận ấy?

/ Nhóm 3: Những loài cây nào xuất hiện đậm nét trong hồi tưởng về tháng Ba của nhà văn? Đặc điểm của những loài cây đó?

/ Nhóm 4: Để tái hiện lại không khí và vẻ đẹp của các lễ hội, tác giả đã sử dụng những nghệ thuật gì? Hãy Phân tích tác dụng của các yếu tố nghệ thuật đó.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc theo nhóm. Nhóm trưởng điều hành chung, phân công công việc cho các HS khác trong nhóm, thư kí ghi chép cho phần thảo luận.

Bước 3, 4: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ -> GV nhận xét đánh giá

– Đại diện nhóm 1 trình bày kết quả thảo luận, các nhóm khác bổ sung -> GV nhận xét, chốt ý

– Đại diện nhóm 2 trình bày, các nhóm còn lại bổ sung -> GV chốt ý

– Đại diện nhóm 3 trình bày, các nhóm còn lại bổ sung -> GV nhận xét, chốt ý.

– Đại diện nhóm 4 trình bày, các nhóm còn lại bổ sung -> GV nhận xét, chốt ý.

 

II. Đọc hiểu văn bản

1. Đoạn 1: Cảnh sắc thiên nhiên và không khí lễ hội của tháng Ba

a. Cảnh sắc thiên nhiên

* Sự kỳ ảo của đất trời tháng Ba

Trời trong như ngọc, đất sạch như lau

Buổi sáng: những đám mây hồng…giữa một nền trời xanh ngắt một màu; chim hót ríu ran; lá cây sạch bong, lóng lanh như ở một bộ phim ảnh màu tuyệt đẹp

– Buổi trưa: nắng thực; tiếng reo của gió, của mây, của lá, trời đã chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, trong khoảnh khắc, rét của cuối Chạp, đầu xuân đã trở về trên cánh gió…

-> Với cách cảm nhận rất tinh tế bằng cả thị giác và thính giác, lối so sánh gợi cảm, những liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, đầy chất thơ, diễn tả được vẻ đẹp trong sáng, mát mẻ, sạch sẽ của tháng Ba. Đây là một tháng có thời tiết đặc biệt ở Bắc Bộ – một tháng có sự giao mùa giữa mùa xuân và mùa hạ.

– Sự huyền ảo ấy được ví von với một cô gái có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước, có quyền làm nũng, và khi làm nũng thì lại càng đẹp hơn, gợi tác giả nhớ đến câu chuyện của Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng

-> Khẳng định sức quyến rũ mê say của tháng Ba mà người Bắc lại rất yêu, rất quý. Bản thân nhà văn không thể nào quên được.

* Cái rét tháng Ba

Đó là một cái rét thơ mộng, cái rét của một trời đầy hương và ngát hoa bởi:

Cái tên mà người ta đặt cho cái rét ấy đã thơ mộng rồi: Gợi đến câu chuyện của nàng Bân, người chinh phụ thương chồng, may áo rét gửi cho chồng nhưng vì quá buồn, quá thương nhớ mà ba tháng trời mới xong một cái cửa tay, không kịp gửi áo đi, nàng cầu Trời Phật cho nàng chết quách…Và không chỉ có một nàng Bân mà có rất nhiều nàng Bân như thế

– Cái rét ấy còn chứa đựng một cái gì đẹp hay hơn thế. Rét nàng Bân làm cho đàn bà, con gái đẹp hơn: màu da, con mắt, miệng cười…

-> Rét tháng Ba trong cảm nhận của Vũ Bằng đầy thơ, đầy mộng. Cái đẹp được cảm nhận ở cả nỗi buồn và niềm vui, khác hẳn với quan niệm của dân gian Rét tháng Ba bà già chết cóng. Sự cảm nhận ấy cho thấy một cái tôi rất tài hoa, lãng mạn, tinh tế.

* Cây cỏ tháng Ba

– Cây bàng:

+ đầu tháng Ba, lá nở bung ra, lá xanh non màu cốm giót dún dẩy đu đưa một cách đa tình… Đến cuối tháng ba, lá bàng sum xuê che kín đường đi;

-> Lá bàng ấy đâu còn là thực nữa mà trong hoài niệm của tác giả, lá bàng mang hơi thở của một khách đa tình và làm say lòng người đa cảm. Trong miền ký ức xa xôi, lá bàng của quê hương luôn vẫy gọi anh về với chính anh.

+ những cây bàng đứng soi bóng xuống sông đào chạy dài tít tắp hàng chục cây số, trông như thể một cái tàn bất tuyệt, khổng lồ;

+ Từ các giống bàng liên tưởng đến việc bắt chim, rồi sâu kén, quả bàng và hương vị

– Cây sầu đâu

+

+ Hoa sầu đâu nở như cười…

– Rau cần: xanh ngăn ngắt, tươi hơn hớn…

-> Đây đều là những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, tiêu biểu ở vùng quê Bắc Bộ được Vũ Bằng hồi tưởng và miêu tả rất cụ thể,  sinh động. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ngôn ngữ giàu hình ảnh, sự liên tưởng độc đáo đã tái hiện được cảnh sắc thiên nhiên tháng Ba đẹp đẽ, đầy sức sống, nên thơ và tình tứ

-> Tình yêu, nỗi nhớ và một trái tim đa sầu, đa cảm đã giúp Vũ Bằng làm sống lại không gian miền quê Bắc Bộ trong hồi tưởng với những gì tươi tắn, đẹp đẽ nhất.

b. Lễ hội của tháng Ba

– Nghệ thuật liệt kê các địa danh cụ thể nổi tiếng gắn liền với những lễ hội truyền thống: Đó là mùa tế thần, tế thánh, mùa rước kiệu của cả Phật giáo lẫn Công giáo, mùa đánh cờ người, cở bỏi, mùa rước sắc, mùa chọi gà, chọi cá nhưng quyến rũ nhất và đặc biệt nhất là những cuộc đấu vật ở Hà Lạng, Trà Lũ, Hoành Nhân, Mai Động…

– Lối so sánh độc đáo khi ví các đô vật với những anh hùng thần thoại như thần Dớt, Hách Cưu. Động tác biến hóa như thần, qua đó ngợi ca vẻ đẹp và tinh thần thượng võ của người Việt.

– Những câu hỏi tu từ được sử dụng khá nhiều trong đoạn cuối bộc lộ cảm xúc nhớ thương da diết của tác giả. Nỗi nhớ trào ra khi hồi tưởng về không khí vui tươi, ấm áp của các lễ hội truyền thống, nỗi nhớ khắc khoải hướng về vợ con trong tết Hàn Thực, hội tung còn. Đó là nơi từng ghi dấu chân của em nhưng giờ không biết em ở đâu?

=> Nhận xét

– Nghệ thuật viết kí: kết hợp giữa khả năng quan sát tinh tế, tỉ mỉ với sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo, sử dụng dày đặc nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, câu văn giàu hình ảnh, ngôn ngữ thấm đẫm cảm xúc,…

– Cảnh sắc thiên nhiên và lễ hội tháng Ba trong hồi tưởng của Vũ Bằng hiện lên với vẻ đẹp giản dị, trong sáng, quyến rũ, thơ mộng, làm say lòng người.

– Vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn: nỗi nhớ da diết và tình yêu thiết tha dành cho quê hương, đất nước

Thao tác 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu cái tôi tác giả

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

GV đặt câu hỏi:

– Qua đoạn trích, em hiều gì về cái tôi của tác giả?

– Cái tôi ấy được thể hiện như thế nào trong bài văn?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

HS làm việc cặp đôi, thảo luận và tìm ra đặc điểm của cái tôi Vũ Bằng.

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

GV gọi HS trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến

Bước 4: GV nhận xét đánh giá

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 2. Cái tôi của tác giả

– Một cái tôi với tình yêu thiết tha và niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.

+ Bao trùm lên Tháng ba, rét nàng Bân là không gian cố hương – không gian tâm tưởng – không gian của tình yêu và nỗi nhớ. Chính niềm thương nhớ vời vợi đã tạo ra không gian trang trọng, không gian trìu mến, ôm ấp, vỗ về. Trong ký ức về một quãng đời êm đẹp, người ta thường giữ những gì tươi tắn, đáng yêu nhất. Và hiện lên trong tâm tưởng, trong niềm yêu nỗi nhớ, vẻ đẹp của những kỷ niệm bao giờ cũng được thăng hoa.

+ Tác giả nhiều lần thể hiện tình yêu của mình qua cách nói trực tiếp: Tôi yêu tháng Ba đất Bắc…; Anh cứ muốn lạc bước đi như thế mãi để uống cái hương thơm của quê hương vào tận tâm can tỷ phế; Chúng ta tự hào về điểm đó…; Ấy đất nước này chỉ đẹp giản dị thế thôi, hiền lành thế thôi, ai muốn nói thế nào thì nói chớ dân nước chúng tôi vẫn nhận là đẹp nhất thế giới, đáng yêu nhất trần hoàn….

– Một cái tôi nhạy cảm, dễ rung động trước cái đẹp, một tâm hồn đa sầu, đa cảm và cũng rất đa tình

+ Trong đoạn trích Tháng ba, rét nàng Bân, với cảm hứng lãng mạn, Vũ Bằng tái hiện, mô tả một miền quê, một thế giới nghệ thuật hội tụ những vẻ đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam: vẻ đẹp của cảnh sắc, vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của di sản tinh thần tổ tiên truyền lại. Đoạn trích là một mạch cảm xúc kéo dài xuyên suốt tái hiện khung cảnh, thiên nhiên, bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng. Chưa ở đâu và chưa bao giờ chúng ta lại bắt gặp một thế giới nghệ thuật tập trung mô tả, tái hiện toàn cái đẹp như thế. Và điều đáng lưu ý là thế giới nghệ thuật ấy mang đậm dấu ấn riêng độc đáo của nhà văn Vũ Bằng – con người luôn mang nặng nỗi ưu tư về việc lưu giữ những nét đẹp của văn hóa dân tộc.

+ Chất đa tình thể hiện rất rõ qua cách cảm nhận về vẻ đẹp của tháng Ba lúc nào cũng quy về vẻ đẹp của một giai nhân: sự kì diệu của tháng Ba được ví với cô gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, cái rét tháng Ba được mang tên một người đàn bà đó là nàng Bân. Vẻ đẹp của tháng Ba dịu dàng, tinh khôi, thẳm sâu như tâm hồn của người đàn bà đất Việt…Và tác giả tựa như một người tình nhân đa sầu đa cảm, dù xa nhau đã lâu nhưng trái tim lúc nào cũng cùng một nhịp đập với người mình yêu.

– Cái tôi ham hiểu biết, khám phá với vốn văn hóa phong phú, giàu có:

+ Vũ Bằng là người thích tìm tòi thể nghiệm, không bao giờ chịu bằng lòng với những gì đang có. Điều này cho thấy ông là người luôn đam mê học hỏi những điều mới mẻ. Có thể nói, đến với đoạn trích này, chúng ta được đến với những cảnh đẹp thiên nhiên trong một không gian nghệ thuật rộng lớn, phong phú đa dạng

+ Vốn là người con của vùng đất Hà Nội giàu truyền thống, thừa hưởng tinh hoa văn hóa của đất trời, lại luôn có ý thức trau dồi, Vũ Bằng đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc về những giá trị cổ truyền: từ cảnh sắc thiên nhiên, hoa lá, các món ăn, món quà bình dị đến các lễ hội dân gian,…tất cả đều thấm đẫm màu sắc văn hóa dân tộc.

– Một cái tôi tài hoa thể hiện qua cách viết rất tinh tế, sử dụng nhiều ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, ngôn ngữ chọn lọc, giàu cảm xúc…

  III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

+ Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc

+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh…gắn liền với những liên tưởng bất ngờ, thú vị

2. Nội dung

– Dòng hồi ức kết hợp với sự quan sát, miêu tả tinh tế, chân thực đã tái hiện được hình ảnh quê hương miền Bắc cụ thể, mang vẻ đẹp thơ mộng, tươi tắn, sống động của tháng Ba

– Cái tôi tài hoa, ham hiểu biết, khám phá và tình yêu thiết tha dành cho miền quê thân thương của mình

– Đặt trong hoàn cảnh ra đời, tác phẩm có ý nghĩa tích cực giúp con người gắn bó hơn với quê hương, đất nước

 

Ví dụ 8:

Đọc hiểu:

BỨC TRANH

                                                Nguyễn Minh Châu

  1. I. Mục tiêu cần đạt
  2. Về kiến thức:

Nắm được đặc sắc trong nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện, xây dựng kiểu nhân vật tư tưởng.

Hiểu được cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng, gay gắt của người họa sĩ để thoát khỏi ích kỉ, nhỏ nhen vươn tới cái đẹp, cái thiện.

Thấy được cái nhìn đa diện, đầy chiều sâu về con người của nhà văn.

  1. Về kĩ năng: đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của GV & HS Nội dung cần đạt
Hướng dẫn HS tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

* Mục tiêu: HS nắm được kiến thức khái quát về tác giả, tác phẩm.

* Nhiệm vụ: Tìm hiểu SGK (Ngữ văn 12 – tập 2, tài liệu sưu tầm bổ sung), trả lời câu hỏi.

* Phương thức thực hiện: thuyết trình, hỏi đáp.

* Sản phẩm: Kiến thức khái quát về tác giả, tác phẩm.

* Tiến trình thực hiện:

Chuyển giao nhiệm vụ: GV chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu HS đọc SGK Ngữ văn 12- tập 2 và tài liệu sưu tầm bổ sung, mỗi nhóm thảo luận và cử hai HS phát biểu, học sinh nhóm còn lại có thể nhận xét, bổ sung.

GV hướng dẫn HS trong quá trình thảo có thể sử dụng một số câu hỏi với nội dung:

+ Những hiểu biết cơ bản về tác giả Nguyễn Minh Châu: cuộc đời, sự nghiệp (vị trí trong nền văn học, hành trình sáng tác và đặc điểm phong cách nghệ thuật)?

+ Bức tranh được sáng tác trong hoàn cảnh như thế nào?

+ Tác phẩm viết về đề tài gì?

+ Tác phẩm có vị trí như thế nào trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và văn học Việt Nam thời kì đổi mới?

+ Tóm tắt cốt truyện?

Thực hiện nhiệm vụ học tập

HS làm việc nhóm, cử 2 HS lên trả lời (5phút).

Báo cáo kết quảHS hai nhóm trả lời, trình bày những nét cơ bản về tác giả và tác phẩm.

– Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chốt kiến thức

I. Tìm hiểu chung

1.Tác giả

a. Cuộc đời

+ Nguyễn Minh Châu, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

+ Suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của người cầm bút.

+ Là người nghệ sĩ có tâm huyết, khát vọng sáng tạo và bản lĩnh dũng cảm.

+ Là nhà văn từng trải, có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, văn chương, nghệ thuật.

b. Sự nghiệp

* Vị trí: NMC thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

* Hành trình sáng tác và phong cách:

Trước thập kỉ tám mươi: ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn.

Từ đầu thập kỉ tám mươi về sau: chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh.

1.2. Truyện ngắn Bức tranh

* Xuất xứ: rút từ tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)

* Vị trí: tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác thứ hai của NMC, mở đầu sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của nhà văn với cảm hứng thế sự đời tư và cái nhìn đa chiều về con người, cuộc sống.

* Đề tài: những góc tốicủa con người trong và sau chiến tranh.

* Tóm tắt cốt tryện

Hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản Bức tranh

* Mục tiêu: HS nắm kiến thức cụ thể về tình huống truyện và cuộc đấu tranh nội tâm đi đến lời “tự thú” của nhân vật họa sĩ.

* Nhiệm vụ: Đọc thật kĩ tài liệu sưu tầm về văn bản truyện Bức tranh, trả lời câu hỏi để nắm kiến thức quan trọng.

* Phương thức thực hiện: đọc, thuyết trình, hỏi đáp, làm việc nhóm.

* Sản phẩm: Kiến thức cụ thể về tình huống truyện, cuộc đấu tranh đi đến lời “tự thú” của họa sĩ.

* Tiến trình thực hiện:

–  Chuyển giao nhiệm vụ, thực hiện nhiệm vụ và báo cáo kết quả, đánh giá kết quả: GV chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu HS đọc tài liệu sưu tầm, mỗi nhóm thảo luận một nội dung:

+ Nhóm 1 (tổ 1 + tổ 2): Thảo luận về tình huống truyện.

Em hãy xác định diện mạo của THT trong tác phẩm

HS suy nghĩ, thảo luận, trả lời: cuộc gặp họa sĩ – người lính năm xưa: TH bất ngờ, gây khó xử, dằn vặt, đấu tranh…

Phân loại THT?

HS: tình huống nhận thức

Chỉ ra ý nghĩa của THT

HS: + tạo sức hấp dẫn

+ Phản ánh hiện thực

+ Khắc họa nhân vật

+ Thể hiện chủ đề tư tưởng

GV định hướng

2. Đọc hiểu văn bản

2.1. Đặc sắc của tình huống truyện

a. Diện mạo: Cuộc gặp tình cờ giữa ông họa sĩ và người lính năm xưa. Sau khi chiến tranh đã đi qua, cuộc sống trở lại hòa bình, những người lính trở về giữa giữa muôn mặt đời thường. Do sự tình cờ của số phận, họa sĩ gặp lại anh lính vốn là ân nhân của mình năm xưa, nay là thợ cắt tóc bình thường. Cuộc gặp đã khiến ông họa sĩ rơi vào tình thế khó xử, dằn vặt bởi nhớ ra vẫn còn nợ ân nhân một lời hứa.

b. Phân loại: từ tình huống bên ngoài đã chuyển thành tình huống bên trong, tình huống tự nhận thức, giúp nhà văn khám phá con người trong con người.

c. Ý nghĩa

Tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm, tạo nên hạt nhân cấu trúc của thể loại truyện ngắn, là yếu tố nền để các yếu tố khác châu tuần xung quanh và phát huy hiệu quả nghệ thuật.

+ Miêu tả hiện thực cuộc sống trong và sau chiến tranh…

Xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật:

+ Số phận của con người trong và sau chiến tranh, những con người bình thường giữa biến động của lịch sử.

+ Tính cách, tâm hồn:

/ Ông họa sĩ: có lúc ích kỉ, nhỏ nhen, còn những góc tối bên trong danh tiếng, sự hào nhoáng bên ngoài nhưng có ý thức tự trọng, biết dằn vặt và đấu tranh với chính mình để vươn lên, thoát khỏi sự tầm thường…

/ Người lính: nhân hậu, vị tha, độ lượng,…

+ Làm sáng lên chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Bức tranh đặt ra vấn đề phải nhìn con người ở chiều sâu để thấy những góc tối, sự nhỏ nhen, từ đó trân trọng những nỗ lực tự đấu tranh để vươn đến cái đẹp, cái thiện của con người.

+ Nhóm 2 (tổ 3 + tổ 4): Thảo luận về cuộc đấu tranh nội tâm của họa sĩ.

Cuộc đấu tranh nội tâm của họa sĩ diễn ra như thế nào khi đứng trước đau khổ mình đã gây ra cho gia đình người lính?

HS thảo luận, trả lời

HS nhóm khác nhận xét, bổ sung

GV định hướng

Nhận xét về cuộc đấu tranh nội tâm của người họa sĩ?

HS suy nghĩ trả lời

GV định hướng

Gặp lại họa sĩ, người lính năm xưa có nhận ra không? Anh có phản ứng như thế nào?

HS suy nghĩ, thảo luận, trả lời

GV định hướng

Em nhận xét gì về người lính?

HS trả lời

GV định hướng

Trước thái độ người lính, diễn biến tâm trạng của họa sĩ ra sao?

HS suy nghĩ, thảo luận và trả lời.

Nhóm khác nhận xét, bổ sung

GV định hướng

Nhận xét gì về  lời tự thú của nhân vật?

HS trả lời

GV định hướng

Những chi tiết nào được khắc họa đậm nét trong bức chân dung họa sĩ?

HS thảo luận, trả lời

GV định hướng

Dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua chân dung tự họa của người họa sĩ?

HS suy nghĩ, thảo luận, trả lời

GV định hướng

Qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của họa sĩ em rút ra được điều gì?

HS trả lời

GV định hướng

2.1. Cuộc đấu tranh nội tâm của ông họa sĩ

a. Khi đối diện với đau khổ mà mình gây ra cho gia đình người lính

* Đau khổ của gia đình người lính: người mẹ già tưởng con đã hi sinh ngoài chiến trường, khóc thương đến lòa hai mắt.

* Cuộc đấu tranh nội tâm của họa sĩ: một mặt ân hận day dứt, mặt khác có ý định trốn chạy hoặc dùng tiền để thoát khỏi mặc cảm tội lỗi nhưng cuối cùng phải theo sự mách bảo của lương tâm:

Ân hận, day dứt, tự trách mình: Nếu tôi là một người tử tế thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?

Có ý định trốn chạy, có cơ hội “tẩu thoát” khi anh thợ cắt tóc dời cái quán đến phố khác.

Nghĩ đến việc bí mật cho anh thợ một khoản tiền lớn để chuộc lại lỗi lầm của mình nhưng không làm được.

Lương tâm con người đã chiến thắng: tự bắt mình đạp xe đi tìm quán mới mở của người thợ cắt tóc giống như hành động tự nguyện đến nạp mình, cho lương tâm.Không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cái mặt mình.

=>Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra căng thẳng giữa phần con và phần người, giữa những suy nghĩ tầm thường và suy nghĩ cao đẹp…

b. Khi đối diện với người lính năm xưa

* Người thợ cắt tóc vẫn làm công việc hàng ngày của mình, có thể đã nhận ra họa sĩ nhưng không có lời nói hay dấu hiệu ǵ chứng tỏ nhận ra người quen ngay cả khi họa sĩ gợi ý, thăm dò, càng không có bất cứ lời lẽ xúc phạm nào. Anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm.

=> Anh là con người điềm đạm, bao dung, độ lượng, anh giống như một tấm gương để họa sĩ tự soi mình, nhận ra sai lầm khuyết điểm.

* Cuộc đấu tranh nội tâm của họa sĩ: tâm trạng giằng co nhiều mâu thuẫn, một mặt nhận ra tội lỗi, mặt khác vẫn cố thanh minh, bao biện cho mình, cuối cùng tự thú:

Nhận ra tội lỗi, xấu hổ:

+ Chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như hạt đậu.

+ Tự vấn lương tâm: tại sao ngày ấy không đưa tấm ảnh đến cho gia đình anh? Tại sao không giữ lời hứa với anh và với chính lòng mình?

+ Cảm thấy như mình không còn nơi trú nấp, không thể né tránh tội lỗi, vừa mong anh không nhận ra mình vừa chắc chắn anh đã nhận ra mình, thấy như cặp mắt anh đang nhìn xói vào mặt mình. Da mặt tự nhiên dày lên, cảm giác như đã ngồi trên cái ghế cắt tóc một nửa thế kỉ. Cố thanh minh bao biện cho mình:

+ Tưởng tượng ra cuộc đối thoại với người lính, tìm cách thanh minh, bào chữa cho hành động không giữ lời hứa của mình bằng những lí lẽ có vẻ cao cả: người nghệ sĩ không thể vì một cá nhân mà phải vì cái chung, bức tranh về người lính mà ông họa sĩ gửi đi triển lãm đã giúp cho thế giới hiểu thêm về cuộc kháng chiến của chúng ta

Tự thú:

/ Trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ

/ Tôi xin nhận đã gây nên đau khổ cho bà mẹ anh. Tôi đã lừa dối anh. Tôi đã lừa dối anh. Tôi đã thu thêm được tiền của và tiếng tăm trên sự đau đớn của anh. Bây giờ anh cứ trừng phạt tôi. Anh xử tôi thế nào cũng được!

=> Lời tự thú thể hiện sự dũng cảm, dám nhìn thẳng vào sự thật và những góc tối, xấu xa tầm thường trong con người mình, hối hận và nhận lỗi thành thực => sự tự ý thức sâu sắc, lương tâm và lòng tự trọng.

c. Khi đối diện với lương tâm: người họa sĩ tự vấn nghiêm khắc bằng cách tạo ra bức chân dung tự họa của chính mình: một cái mặt người rất lớn: những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đàu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc màu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ (…) Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.

=> Bức chân dung tự họa giống như một cuộc giải phẫu tâm hồn, được láy lại hai lần, ở mở đầu và kết thúc tác phẩm, tạo kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng như hành động sám hối, thú tội thành thực, thể hiện sự dũng cảm và khả năng tự tri sâu sắc của nhân vật.

Nhận xét chung: Cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng, gay gắt của nhân vật họa sĩ cho thấy:

Đặc điểm của họa sĩ: có lúc nhỏ nhen, ích kỉ nhưng dũng cảm đấu tranh với chính mình để vươn tới cái đẹp, cái thiện.

Cái nhìn hiện thực và con người đầy chiều sâu, hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người của nhà văn => Giá trị nhân đạo của tác phẩm

Nghệ thuật phân tích nội tâm con người sắc sảo.

GV hướng dẫn HS tổng kết, nắm đặc sắc về 2 phương diện: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. 2.3. Kết luận

a. Nội dung: thông qua cuộc tự vấn căng thẳng, quyết liệt và nghiêm khắc của nhân vật họa sĩ, nhà văn thể hiện cái nhìn hiện thực tỉnh táo song cũng đầy nhân văn về con người: con người vốn phức tạp, có thiên thầnác quỷ, có rồng phượng lẫn rắn rết nhưng điều đáng quý là con người biết hướng thiện. Tác phẩm cũng chính là một đề xuất mới mẻ của nhà văn về cách tiếp cận hiện thực và con người trong văn học thời kì đổi mới.

b. Nghệ thuật

Xây dựng tình huống truyện độc đáo, giàu ý nghĩa

Miêu tả, phân tích nội tâm nhân vật tài tình

Hình ảnh mang tính chất biểu tượng: bức tranh

Kết cấu đầu cuối tương ứng

Chất triết lý…

 

Ví dụ 9:

Đọc hiểu:

MỘT CHIỀU DÔNG GIÓ

Ma Văn Kháng

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức:

–  Nắm được những nét cơ bản về thân thế và sự nghiệp của nhà văn Ma Văn Kháng, vị trí của truyện ngắn Một chiều dông gió trong đời văn của ông.

– Hiểu được cuộc sống cực khổ của một đội công nhân đường sắt, đặc biệt là đời sống không có hi vọng, ước mơ để hướng tới nhưng các anh vẫn cam chịu để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

– Cảm thụ được những đặc sắc nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả không gian tâm trạng – một phương diện thành công của Ma Văn Kháng ở truyện ngắn này.

  1. Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản truyện theo đặc trưng thể loại.
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung

Bước 1: GV giao nhiệm vụ:

GV yêu cầu HS thông qua phần chuẩn bị bài ở nhà thảo luận cặp đôi, thảo luận nhóm và trả lời theo một số câu hỏi gợi ý để tìm hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm:

+Nêu những hiểu biết về cuộc đời của nhà văn Ma Văn Kháng?

+Cây bút này có vị trí thế nào trong văn học Việt Nam hiện đại nói chung giai đoạn sau 1975?

+Nêu xuất xứ của truyện Một chiều dông gió?

+Nêu nội dung chính của truyện?

– Sản phẩm nhóm (do HS ghi vào giấy trong quá trình thảo luận và chuẩn bị bài ở nhà; hai HS đại diện cho nhóm lên đóng vai).

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ (ở nhà)

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

1 HS trả lời, các HS khác nhận xét, bổ sung.

Bước 4: GV nhận xét đánh giá, bổ sung và chốt kiến thức.

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội.

– Trong kháng chiến chống Mĩ ông đến với vùng cao của miền Bắc để dạy học.

– Năm 1976 ông chuyển về Hà Nội và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành báo chí, văn học nước nhà, từng nhận nhiều giải thưởng văn chương có giá trị.

– Ma Văn Kháng thuộc thế hệ những người cầm bút giàu nhiệt huyết với lí tưởng hào hùng của thời đại.

– Ông là một trong những nhà văn đi tiên phong, đóng vai trò quan trọng vào quá trình đổi mới văn xuôi sau 1975.

– Các tác phẩm tiêu biểu: Mùa lá rụng trong vườn, Ngày đẹp trời, Đám cưới không có giấy giá thú,…

2. Tác phẩm

–  Xuất xứ: Hoàn thành tháng 7 năm 2007, rút trong tập truyện cùng tên, được tặng giải thưởng đặc biệt 10 năm văn học công nhân (1999 – 2009)

– Nội dung: truyện phản ánh đời sống cực khổ của một đội cung đường, đội trưởng là anh Tua, các anh là những chàng trai đồng quê vào công nhân đường sắt, đời sống nơi làm việc của các anh tách biệt với cuộc sống xung quanh: Karaoke là gì không biết. Đĩa CD là cái chi không hay. Bãi biển ngày hè quán nhậu là thế giới ngoài ta. Ngày hè lễ tết không. Cả năm không một tấm ảnh chụp, báo chí không. Liên hệ với cộng đồng chỉ một cái đài bán dẫn chạy pin.  Khi một cô gái như hoa xuất hiện làm cho mọi sinh hoạt của các anh đảo lộn…

Hoạt động 2: GV hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản.

Thao tác 1: GV hướng dẫn HS đọc và tóm tắt văn bản.

Bước 1: GV giao nhiệm vụ

GV hướng dẫn cách đọc và đọc mẫu vài đoạn.

GV yêu cầu HS thông qua phần chuẩn bị bài ở nhà tóm tắt truyện ngắn.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ (ở nhà)

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

1 HS tóm tắt, các HS khác nhận xét, bổ sung (nếu có)

Bước 4: GV nhận xét đánh giá, bổ sung (nếu có)

II. Đọc hiểu

1. Đọc và tóm tắt

Đọc.

– Tóm tắt.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thao tác 2: GV hướng dẫn HS tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản.

Bước 1: GV giao nhiệm vụ:

GV yêu cầu HS làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm để trả lời các câu hỏi sau:

-Tìm các chi tiết và nhận xét hình ảnh những chàng trai công nhân đường sắt  trước, trong và sau khi cô gái xuất hiện. Từ sự thay đổi đó nhà văn muốn thể hiện điều gì?

-Cảm nhận của em về những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ

-HS cử nhóm trưởng, thư kí, nhóm trưởng giao nhiệm vụ cho từng thành viên.

-HS làm việc cá nhân, làm việc nhóm, trao đổi với nhau thống nhất kết quả.

GV: Theo dõi, quan sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của HS, giúp đỡ đối với những HS (nhóm) gặp khó khăn; nhắc nhở đôn đốc những cá nhân (nhóm) chưa chú ý, tiến độ hoàn thành chậm.

Bước 3: Báo cáo kết quả:

-Nhóm trưởng các nhóm cử đại diện trình bày.

-Các nhóm khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung (nếu có).

+GV nhận xét, chốt kiến thức.

 

 

 

2. Giá trị nội dung và nghệ thuật

a) Những chàng trai công nhân đường sắt

– Trước khi cô gái xuất hiện: Cuộc sống lao động vất vả, sinh hoạt giản đơn không cần ý tứ, rất bộn bề tuỳ tiện. Các anh làm việc nặng nhọc nhưng đời sống vật chât Ở trên mức khổ cực nhưng cái khổ hơn nữa là nỗi cô đơn, và cái khổ hơn nữa là đời sống không có hy vọng, ước mơ để hướng tới Không có tình yêu không có gia đình. Đây là nỗi đau lớn nhất của con người nhưng các anh phải cam chịu để hoàn thành nhiệm vụ của mình vậy thì hãy nghiến răng lại mà sống mà làm việc hỡi anh em.

– Khi cô gái xuất hiện: Mọi sinh hoạt của các anh thay đổi từ việc ăn mặc đến tóc tai quần áo… từ cẩu thả tuỳ tiện chuyển qua nề nếp. Đặc biệt là cách nghĩ cách làm cũng khác Con người luôn có khả năng biến thành kẻ khác với chính nó.

– Khi cô gái biến mất:

+ Làm xáo trộn đời sống ngay trong ý nghĩ, sinh hoạt thường ngày của các anh Tua mới nhận ra nỗi thống khổ đối với sự mất mát một hy vọng, sự thuyết vắng niềm vui giao tiếp với cái đẹp còn muôn lần dai dẳng đớn đau hơn nếu so với cơn đói khác của dạ dày cơn mệt nhọc của cơ bắp.

+ Con người trở nên thô lỗ cộc cằn…,nếp sống tuỳ tiện bừa bãi lập lại như cũ, xung đột xảy ra giữa anh Tua và anh Hợi họ tranh luận dằn co rồi đấm đá quyết liệt… Anh Hợi đánh giá con người vội vàng không xác thực Nói trắng ra hạng ấy giỏi lắm cũng chỉ là cave hoặc gái bia ôm. Ngược lại anh Tua tin tưởng vào cô gái, vào cái đẹp trong đời đang tồn tại mà mọi người ở đây không nhận ra Các người có mắt mà không có con ngươi! Các người mù loà cả rồi.

Þ Qua câu chuyện nhà văn đã phản ánh một hiện thực cuộc sống cô lập với cộng đồng xã hội; đồng thời là niềm khát khao hạnh phúc âm ỉ trong tâm hồn những người công nhân. Dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn luôn có khát vọng sống đúng nghĩa với con người bản thể của mình.

2. Đặc sắc nghệ thuật

– Tác giả đã xây dựng một không gian, thời gian nghệ thuật vừa cụ thể vừa khái quát biểu hiện được cái vốn có là hiện thực cuộc sống và cái cần có là ước mơ khát vọng  một cuộc sống luôn hiện hữu bao điều tốt đẹp.

+  Đó là cơn dông gió xoáy đảo, dữ dội như tâm trạng của Tua – cung trưởng cung đường 580: Giờ thì cơn dông gió xoáy đảo đất trời chiếm trọn hồn Tua. Giờ thì chính Tua đã biến thành cơn hưng phấn có kích tấc khổng lồ nọ. Tưởng như Tua cứ nguyên vẹn như thế , với nỗi hoan lạc thần bí không thể giải thích được, phăm phăm như ngựa  băm vó, ngược xuôi trên con đường tàu xuyên Việt chạy qua dải đất miền Trung dằng dặc này. Nhà văn đã thật tài tình khi kết hợp miêu tả ngoại cảnh (cơn dông chiều) với việc miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Cơn dông chiều chao đảo như tâm trạng bức bối, ngột ngạt của Tua. Và khi cơn dông qua đi, xua tan sự oi bức cũng là lúc Tua nhận ra khát vọng sống đúng nghĩa trong bản thể người đàn ông của mình.

+ Hình ảnh một con bướm dịu dàng thơ mộng đã thể hiện một cách nhìn lạc quan về cuộc sống, dẫu cuộc đời biến động đổi thay cái đẹp luôn xuất hiện luôn tồn tại. Chính sự tốt đẹp đó làm cho con người vươn lên trong khó khăn thử thách, khi cô gái xuất hiện thì đời sống của các anh công nhân cung đường thay đổi rõ rệt.

– Xây dựng hệ thống nhân vật từ ngoại hình đến diễn biến của thế giới nội tâm; ngôn từ bình dị chính xác …

Giọng điệu triết lí (chẳng hạn: nhà văn triết lí về thiên thức của người phụ nữ: Vả chăng làm vợ làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời nhưng cũng là một khổ ải nhân thế người phụ nữ phải đơn độc gánh vác suốt một đời người rồi.)

 

Ví dụ 10:

Đọc hiểu:                                MUỐI CỦA RỪNG

                                                                             Nguyễn Huy Thiệp

  1. Mục tiêu của bài học
  2. Kiến thức: Giúp học sinh nắm được

– Những kiến thức cơ bản về thời đại, sáng tác và vị trí của Nguyễn Huy Thiệp trong văn học đương đại Việt Nam.

– Đề tài, cốt truyện, những giá trị hiện thực, giá trị triết lí nhân sinh to lớn và những thành tựu nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.

– Đóng góp và ảnh hưởng của Nguyễn Huy Thiệp đổi với việc đổi mới văn học

  1. Kĩ năng: đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại và phong cách nhà văn…
  2. Đọc hiểu
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Thao tác 1

*Mục tiêu: Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

*Phương pháp: thảo luận nhóm, dạy học dự án…

Kĩ thuật: chia nhóm

Hình thức: Hoạt động cả lớp – nhóm – cá nhân.

*Nội dung hoạt động:

Bước 1: GV giao nhiệm vụ cho HS

– Chia nhóm để học sinh làm việc ở nhà với hai nội dung:

+ Tìm hiểu khái quát về tác giả Nguyễn Huy Thiệp.

+ Tìm hiểu cốt truyện của tác phẩm Muối của rừng.

– Yêu cầu 1 HS đại diện của nhóm 1 lên trình bày phần đã tìm hiểu và thảo luận của nhóm.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: đã thực hiện ở nhà

Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

Bước 4: GV nhận xét đánh giá và chốt kiến thức

Nếu đơn vị kiến thức nào HS trình bày chưa đầy đủ thì GV sẽ bổ sung thêm.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp

a. Con người và cuộc đời

– Sinh ngày 29/4/1950, là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịchtruyện

ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo.

– Quê Thanh TrìHà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc.

– Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ (nay là Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội)

– Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và theo ông bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp, cho nên lý lịch ông vì vậy bị xếp vào loại không sạch.

– Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu.

b. Sự nghiệp sáng tác

– Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là tiểu thuyết đầu tay.

– Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

+ In dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại.

+ Thấm đượm trên ngòi bút sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là tư tưởng triết học tự nhiên, một thứ triết học nguyên sơ, bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực sâu xa của nền văn hóa cổ Đông Nam Á.

+ Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ những người nghèo khổ, hay những người mang hình dạng kì dị,..tuy mang dáng dấp cổ tích, nhưng lại chất chứa những cảm giác thời hiện đại. Họ luôn luôn dấn thân trên con đường đi tìm hạnh phúc, đi tìm cái Chân, Thiện, Mỹ để rồi nhận được những bài học cay đắng, xót xa.

+ Với tuyên ngôn Tôi căm ghét sâu sắc những kết thúc có hậu, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều kết thúc không có hậu. Nó mở ra những dự cảm, những cảm xúc tái tê đằng sau khối cô văn lạnh lùng của một cây bút tỉnh táo, sắc nhạy, khiến cho người đọc cứ thế ngấm dần, ngấm dần và xoáy theo luồng xúc cảm cùng những nhân vật.

+ Hầu hết những truyện ngắn của ông đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý cá nhân về văn chương.

– Ngoài ra ông còn viết kịch và tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí trong nước.

– Các tác phẩm tiêu biểu: Tướng về hưu, Kiếm sắc, Phẩm tiết…

  2. Tác phẩm Muối của rừng

* Tóm tắt cốt truyện: Muối của rừng kể về cuộc đi săn vào một ngày xuân rất đẹp của ông Diểu. Ông Diểu nhắm bắn một con khỉ đực. Nhưng câu chuyện về gia đình nhà khỉ (khỉ bố, khỉ mẹ, khỉ con) đã khiến ông Diễu thay đổi nhận thức của mình về thế gới tự nhiên và với chính mình. Ông quyết định phóng sinh cho con khỉ đực về với gia đình của nó. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh hoa tử huyền (hoa này màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng) và ông Diểu ra về nhẹ nhõm trong làn mưa xuân, một hình ảnh tuyệt đẹp.

* Đại ý: Thông qua cuộc đấu tranh tâm trạng của ông Diểu trong một chuyến đi rừng, câu chuyện thực sự đã thanh lọc tâm hồn con người, gợi cho con người những suy nghĩ, những trăn trở về cuộc sống bề bộn hiện nay.

Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết văn bản.

* Phương pháp: phát hiện và giải quyết vấn đề, hoạt động nhóm

* Cách thức:

– GV định hướng để học sinh xác định các vấn đề quan trọng của văn bản -> có 4 vấn đề:

+ Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác

+ Cái thiện: ca khúc khải hoàn

+ Một vấn đề nhân sinh phổ quát

+ Nghệ thuật kể chuyện độc đáo.

– GV chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm thảo luận một trong 4 vấn đề đã được phát hiện

– HS làm việc theo nhóm trên tinh thần có những định hướng để giải quyết 4 vấn đề quan trọng trên.

– GV tổ chức cho HS trình bày ý kiến đã thảo luận theo từng nhóm, các nhóm khác có ý kiến đóng góp bổ sung

– GV chốt lại những kiến thức quan trọng, cơ bản của văn bản

II. Đọc hiểu chi tiết

1. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác

* Không gian, thời gian: một cuộc hành trình đầy chất thơ.

– Đó là một sớm xuân: Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm.  

Khung cảnh thanh bình ấy lại chính là dịp để nhân vật ông Diểu bắt đầu cuộc đi săn. Nhân vật đi vào rừng mang theo bao hệ lụy trần thế ám ảnh.

* Cuộc đấu tranh nội tâm của ông Diểu

– Ông nhìn thiên nhiên cũng như cách ông đánh giá về cuộc đời. Ông tự gán những suy nghĩ cay đắng về con người cho loài vật: Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn hay bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm -> Ở đây tác giả đã cố tình tạo ra tình huống nhân vật bị nhầm lẫn giữa những bản thể, giữa con người và loài vật để hợp lí hóa cho sự thay đổi tâm trạng và các hành động kế tiếp.

– Từng cung bậc của tâm trạng của ông Diểu có sự thay đổi.

+ Bắt đầu từ lúc tiếp cận đàn khỉ không buồn, không vui, không lo lắng cũng không tính toán đến mỉm cười và chăm chú nhìn.

+  Rồi và cuối cùng là niềm vui nhen lên từ khi ở nhà ra đi trong ông vơi đi một nữa. Ông quyết định bắn hạ con khỉ đực với một tiếng súng dữ dội. Ông Diểu làm điều ác và tại thời điểm đó ông vẫn hài lòng với kết quả dù có chút run lênnhư người vừa mới làm xong việc nặng.

+ Nhưng khi nhìn đôi mắt con khỉ đực, người đàn ông ấy bổng dấy lên một niềm thương hại và mủi lòng. Hành động tránh nhìn vào đôi mắt con vật như là một điềm báo hiệu về xung đột bắt đầu nảy sinh trong quá trình chinh phục và chiếm đoạt của con người.

-> Để từ cái điềm báo ấy, ông Diểu chuyển từ tâm trạng hài lòng khi làm điều ác sang trạng thái hoảng loạn, bối rối. Ông tìm cách hái lá đắp cho con khỉ hay loay hoay cởi chiếc quần lót – mảnh giáp cuối cùng trên cơ thể để băng bó cho nó.

-> Trải qua một hành trình vất vả, chứng kiến và suy nghiệm nhiều thứ, đặc biệt là hình ảnh con khỉ con rơi xuống vực sâu thăm thẳm và con khỉ cái cứ kiên trì lẽo đẽo theo ông đi xuyên rừng, người đàn ông ấy chợt cảm thấy cay cay sống mũi và thức nhận một nỗi buồn tê tái đến tận đáy lòng.

-> Những tâm trạng và hành động không nhất quán ấy biểu hiện cho một sự giằng xé nội tâm giữa tham vọng và tình thương, giữa khả năng của một ông già và sức mạnh của thiên nhiên, giữa phần con và phần người cũng chính là cái ác và tính thiện trong nhân vật.

=> Trong cảm quan hậu văn học hậu hiện đại, con người không còn là một lát cắt nguyên phiến với những mặt tốt đẹp đáng ngợi ca. Thế giới tâm hồn người luôn tiềm ẩn những điều kỳ lạ, những góc tối khuất lấp cần khám phá.  Điều đó đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khai thác các khía cạnh nội tâm để khắc họa tính chất đa nguyên của con người. Nhưng dù khai thác con người ở mức độ nào, nhà văn vẫn phải hướng đến bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội và phải luôn có sự hài hòa giữa thực thể sinh học – xã hội.

=> Ở Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn con người như một phần khăng khít của đời sống tự nhiên, và cũng chính ông ngầm chỉ ra rằng tự nhiên như một phẩm chất của con người, như bản chất Người.

  2. Cái thiện: ca khúc khải hoàn

– Tâm trạng ông Diểu, từ khi đi qua một chặng đường dài vào rừng săn thú cho tới khi cay đắng hiểu ra rằng hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng sinh vật quả thật nặng nề thể hiện một sự thức tỉnh của lương tâm con người. Như Bielinsky đã nói: Người cao thượng không phải là người không bao giờ đê tiện. Người cao thượng là người biết mình có những lúc đê tiện.

-> Nhân vật sau một hành trình dài chợt nhận ra mình đang làm điều ác và quyết định buông bỏ tất cả. Nhận thức được cái ác có nghĩa là đã chiến thắng được cái ác. – Ông Diểu quyết định phóng sinh cho con khỉ.  Dù cho con người tham vọng ban đầu tưởng như đã chiếm ưu thế, nhưng người đàn ông ấy vẫn biết mủi lòng trước những sinh linh, thức nhận những giá trị của yêu thương khi chứng kiến tình cảm của giống loài – ở đây là loài khỉ cũng không hề xa lạ với con người -> Ông trở về cùng hai bàn tay trắng và con người trần truồng với phần người trỗi dậy và thắng thế.

– Ông bắt gặp loài hoa tử huyền, biểu tượng của hạnh phúc, của cái thiện và những trận mưa bụi mùa xuân đã che chở cho thân thể ông suốt quảng đường về.

-> Hình ảnh hoa tử huyền đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng, tô đậm thêm ý nghĩa về giá trị khởi nguyên, giá trị cội nguồn và ý niệm về con người hướng thiện.

=> Con người ra đi với ý định huỷ hoại thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống, khi trở về lại trong tâm thế hòa vào lòng thiên nhiên, vào lòng cuộc sống: Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông đã nhòa vào màn mưa. 

=> Ông Diểu trở lại hình hài ban đầu của con người tưởng như chưa từng phạm tội và trong sạch trước cuộc đời. Đúng như những hình ảnh rất đẹp của nhà phê bình PGS- TS Nguyễn Thị Minh Thái khi viết về Muối của rừng: Ra khỏi rừng, được chính cuộc đi săn tẩy rửa, chỉ mang theo tấm thân rày đã nhẹ nhàng, với độc trọi cảm giác phóng sinh trong trẻo, lâng lâng đốn ngộ.  Nhân vật Muối của rừng cuối cùng đã thực hiện khúc ca khải hoàn của cái thiện trong một cuộc đấu tranh khốc liệt, dằng xé.

  3. Một vấn đề nhân sinh phổ quát

Muối của rừng đã đưa ra một vấn đề nhân sinh phổ quát đó là mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện trong mỗi một con người. Con người trong thời đại nào cũng thế, luôn luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa phần bản năng sinh vật đê tiện thấp hèn và phẩm chất người cao quý. Đó không chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng mà còn là câu chuyện muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người trong cuộc đấu tranh bền bĩ và dai dẳng cho việc hoàn thiện nhân cách con người.

– Nguồn gốc của mọi tội lỗi, của những điều ác suy cho cùng cũng do con người đang bị mất niềm tin vào các giá trị. Họ trở nên tách rời nhau, tách rời với tình yêu và cội nguồn của sự sống. Từ đó con người luôn có cảm giác sợ hãi và thiếu an toàn. Cũng từ nỗi sợ hãi, con người trở nên tham lam với khát vọng muốn sở hữu, muốn chiếm đoạt (những thứ như vật chất, sự ca tụng, sự quan tâm của người khác…) để làm mình có giá trị hơn. Con người trong hành trình mải miết tìm cách khỏa lấp nỗi sợ đó đã quên đi tính thiện luôn ẩn chứa bên trong của mình. Chúng ta để nỗi sợ lấn át tiếng gọi của trái tim, của thiên lương thuần khiết và cứ thế chạy theo trò chơi cuộc đời.

– Ranh giới giữa cái thiện và cái ác trở nên rất mong manh và nhiều thách thức hơn bao giờ hết. Nếu con người chỉ sơ sẩy bước chệch chân đã lao ngay vào hố sâu thăm thẳm của cái ác mà khó lòng thoát ra được. Lúc ấy chỉ có cái đẹp xuất hiện mới đủ sức cứu rỗi và nâng đỡ con người thoát khỏi vòng bủa vây của cái ác. Nhân vật  Muối của rừng may mắn có được điều đó.

=> Đọc Muối của rừng để thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ có cái ác, cái xấu xa, cái ti tiện. Bức tranh về số phận con người trong những tác phẩm của ông không chỉ toàn màu đen. Ở đó vẫn ngời sáng những nhân cách đẹp, những tâm hồn thuần khiết, sáng trong tựa suối nguồn.

=> Nhờ đó mà người đọc vẫn cảm thấy tin yêu cuộc đời, tin vào thiên lương, vào con người bản nguyên thuần phác. Đó là giá trị nhân văn đích thực của truyện.

  4. Nghệ thuật kể chuyện độc đáo

– Xây dựng nhiều những hình ảnh ước lệ mang triết lý sâu sắc trong một giọng văn lạnh lùng, kiêu bạc thấm đẫm con chữ. Vẫn lối viết cực ngắn trong một cốt truyện đơn giản. Đi săn, trang bị đầy đủ, cuối cùng cởi truồng trở về. Nhưng nét hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp là ở đó. Ngay trong cái hữu hạn của từng từ, từng chữ lại chứa đựng cái vô hạn về ý nghĩa mà độc giả hậu thế vẫn cứ mải mê kiếm tìm cái hay cái đẹp trong mỗi câu văn, trong tầng tầng lớp nghĩa của những hình ảnh đầy ẩn ý.

– Cách xây dựng nhân vật và tình huống truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã được lạ hóa, chẳng giống bất kỳ ai. Một ông lão, cô độc, vào rừng đi săn trong một sớm xuân. Tên nhân vật cũng mang dụng ý của tác giả, thậm chí khó phát âm để tạo ấn tượng cho người đọc. Diểu theo từ điển Hán – Việt (Thiều Chửu) có nghĩa là sâu thẳm, mờ mịt khó xác định. Phải chăng đây là một yếu tố mà tác giả tạo ra để phù hợp tính chất huyền ảo của truyện ngắn.

 

 

 

 

PHẦN KẾT LUẬN

Đọc hiểu là hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa. Khái niệm đọc hiểu (comprehension reading) có nội hàm khoa học phong phú có nhiều cấp độ gắn liền với lí luận dạy học văn, lí thuyết tiếp nhận tâm lí học nghệ thuật, lí thuyết giao tiếp thi pháp học, tường giải học văn bản học… Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe. Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào? Đọc, hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng- sai về logic, nghĩa là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt. Mục đích trong tác phẩm văn chương, đọc, hiểu là phải thấy được: Nội dung của văn bản; mối quan hệ ý nghĩa của văn bản do tác giả tổ chức và xây dựng; ý đồ, mục đích.

Như vậy, đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua khả năng tiếp nhận của học sinh. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là quá trình thâm nhập vào văn bản với thái độ tích cực, chủ động. Đây là một năng lực cần thiết mà người học nói chung và học sinh THPT cần quan tâm. Nếu chúng ta không có trình độ, năng lực đọc thì không hiểu đúng, đánh giá đúng văn bản. Không nắm vững, đánh giá được văn bản thì không thể tiếp thu, bồi đắp được tri thức và cũng không có cơ sở để sáng tạo. Vì thế vấn đề đọc, hiểu môn Ngữ văn trong nhà trường là rất cần thiết.

Với quan điểm phát huy vai trò chủ thể của học sinh, xuất phát từ đặc thù của văn chương (nghệ thuật ngôn từ), mà vấn đề đọc, hiểu văn bản ngày càng được quan tâm. Vấn đề này còn được quan tâm hơn nữa đối với học sinh lớp chuyên Văn. Với các em học Văn là để cảm thụ Văn bằng nhận thức và tâm hồn. Mỗi tác phẩm văn học mà các em tiếp cận sẽ là một mảnh đất mới để các em thỏa sức khám phá. Bởi vậy, kĩ năng đọc và kĩ năng hiểu những tác phẩm văn học ngoài chương trình luôn là những kĩ năng các em đang hướng tới và tự rèn luyện mình. Điều đó không chỉ bồi đắp thêm ở các em tình yêu văn chương mà còn là nền tảng vững chắc để các em tiến xa hơn trên con đường chinh phục những đỉnh cao tri thức tâm hồn nhân loại.

Tóm lại, với chuyên đề này, chúng tôi hi vọng trước hết giới thiệu được khái niệm đọc, hiểu văn bản văn học và đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc, hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn. Xa hơn, chúng tôi mong muốn, đọc, hiểu sẽ trở thành một thói quen nghiên cứu văn chương của các em và là hành trang để các em tiến xa hơn nữa trong học tập và trong cuộc sống. Tuy nhiên, do những giới hạn về điều kiện nghiên cứu, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi kính mong nhận được những góp ý của các bạn đồng nghiệp để chuyên đề của chúng tôi đầy đủ, hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11, 12 nâng cao (tập 1, tập 2) – Nxb Giáo dục.
  2. Sách giáo khoa Văn 10, 11, 12 phân ban (tập 1, tập 2) – Nxb Giáo dục
  3. Phân phối chương trình THPT môn Ngữ văn, phân phối chương trình môn Ngữ văn chuyên – Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam.
  4. Giáo dục học – Nguyễn Viết Vượng – Nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội.
  5. Giáo dục học đại cương – Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê – Nxb Giáo dục 6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THPT môn Ngữ Văn – Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Long, Phạm Thu Yến – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia.
  6. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông môn Ngữ Văn – Nxb Giáo dục
  7. Bài viết: Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay – GS. TSKH Trần Đình Sử
  8. Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hoàng Phê (chủ biên), năm 2006
  9. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, Nxb Giáo dục
  10. Dạy và học nghị luận xã hội, Nxb Giáo dục, Đỗ Ngọc Thống (2007)

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *