Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 2

Tài liệu Văn

 

 CHUYÊN ĐỀ

RÈN KỸ NĂNG PHÂN TÍCH TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

 

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.. 2

    1. Lí do chọn đề tài 2
    2. Mục đích của đề tài 2
    3. PHẦN NỘI DUNG.. 3
    4. Khái quát chung về đọc, hiểu văn bản văn chương. 3
    5. Khái niệm.. 3
    6. mục đích của việc đọc, hiểu tác phẩm văn chương. 3
    7. Các bước đọc, hiểu tác phẩm văn chương. 4
    8. Khái quát chung về đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình. 4
    9. Khái niệm.. 4
    10. Kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình theo thể loại 5

III. Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn  13

    1. Rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm thơ. 13
    2. Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm truyện. 21
    3. PHẦN KẾT LUẬN.. 28
  1. mục đích và yêu cầu

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 29

 

 PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

Ngữ văn là một môn học có vị trí đặc biệt trong hệ thống giáo dục của nước ta. Đứng trước nhu cầu phát triển của thời đại, xã hội; gắn liền với công cuộc phát triển và hội nhập của đất nước; môn Ngữ văn đã và đang có những sự đổi mới căn bản, toàn diện. Cùng với đó, việc dạy và học môn Ngữ văn đối với đối tượng là học sinh chuyên văn cũng đưa ra những đòi hỏi mới. Dưới góc độ chuyên môn, chương trình Ngữ văn hiện nay đòi hỏi học sinh chuyên văn không chỉ có những hiểu biết về những tác phẩm trong chương trình mà đòi hỏi các em cần phải có kiến thức phong phú cả về những tác phẩm ngoài chương trình. Cùng với việc nắm bắt kiến thức, học sinh chuyên văn còn cần phải có kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình, để từ đó bồi dưỡng, tích lũy thêm những kinh nghiệm học văn và viết văn. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đổi mới kiểm tra đánh giá; xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn ôn luyện học sinh giỏi môn Ngữ văn …, chúng tôi cho rằng việc rèn luyện cho học sinh chuyên văn kĩ năng đọc, hiểu tác phẩm văn chương ngoài chương trình là việc làm hết sức cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học học sinh chuyên văn.

  1. Mục đích của đề tài

Qua chuyên đề “Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn”, chúng tôi mong muốn:

– Giúp các em học sinh chuyên văn nắm vững các kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm văn chương ngoài chương trình. Điều này sẽ giúp các em tự tin hơn mỗi khi tiếp cận với các tác phẩm văn chương ngoài chương trình cũng như nâng cao chất lượng các bài viết văn của các em khi nghị luận về các tác phẩm đó.

– Đưa ra được những ý kiến đề xuất đóng góp vào công tác ôn luyện, bồi dưỡng học sinh chuyên văn; từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo học sinh giỏi môn Ngữ văn.

  1. PHẦN NỘI DUNG
  2. Khái quát chung về đọc, hiểu văn bản văn chương
  3. Khái niệm

1.1. Khái niệm đọc, hiểu

Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng và phản hồi lại trước một văn bản viết nhằm đạt được mục đích phát triển tri thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội.

1.2. Khái niệm đọc, hiểu tác phẩm văn chương

Khái niệm đọc hiểu tác phẩm văn chương cần được hiểu là phương thức đọc văn nhằm mục đích cảm thụ và hiểu biết chính xác và cặn kẽ tác phẩm văn chương, khám phá và chiếm lĩnh những giá trị văn chương (văn hóa xã hội) mới mẻ sâu sắc lớn lao và hữu ích. Hiểu như vậy đọc văn thực chất là một quá trình trực cảm thẩm mĩ đồng thời phân tích giải mã văn bản để tiếp nhận chiếm lĩnh những giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn chương và định hướng hiệu quả tác động về nhận thức và thẩm mĩ nơi người đọc. Vì vậy đọc hiểu tác phẩm văn chương phải chú ý đến phương diện quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể đọc văn và đối tượng thẩm mĩ là tác phẩm văn chương.

  1. Mục đích và yêu cầu của việc đọc, hiểu tác phẩm văn chương

2.1. Mục đích

Đọc, hiểu tác phẩm văn chương nhằm thực hiện việc tiếp nhận các giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Thông qua việc đọc, hiểu tác phẩm văn chương, người đọc tiến hành việc giao lưu về mặt tư tưởng, tình cảm với tác giả và với những người đã đọc tác phẩm trước đó. Từ đó, người đọc được bày tỏ thái độ, chính kiến, quan điểm của cá nhân trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm.

2.2. Yêu cầu

– Thông qua việc đọc, hiểu ngôn từ, ý nghĩa của hình tượng đến hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả, người đọc phải hình thành được sự đánh giá đối với tác phẩm; biết thưởng thức các giá trị của tác phẩm. Thường xuyên đọc nhiểu tác phẩm văn học; biết cách tra cứu, học hỏi; biết tưởng tượng, suy ngẫm, tạo thành thói quen phân tích, thưởng thức văn học. Đối với học sinh chuyên văn, việc đọc hiểu tác phẩm văn chương vừa là sở thích, thói quen vừa là nhiệm vụ thiết yếu để qua đó giúp học sinh bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và tư duy học văn.

  1. Các bước đọc, hiểu tác phẩm văn chương
  2. 1. Đọc, hiểu ngôn từ

Đọc thông suốt toàn văn bản, hiểu các từ khó, lạ, các điển cố, các phép tu từ,….. Với tác phẩm thơ người học phải thuộc lòng văn bản thơ. Với tác phẩm văn xuôi, phải nắm được cốt truyện và các chi tiết trong tác phẩm. Phải hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt mạch văn đặc biệt là mạch văn ngầm – hàm ẩn, từ đó phát hiện những điểm đặc sắc, khác thường, thú vị.

  1. 2. Đọc, hiểu hình tượng nghệ thuật

Phải biết tưởng tượng, biết “cụ thể hóa” các tình cảnh để hiểu những điều mà ngôn từ chỉ có thể biểu đạt khái quát. Phát hiện những mâu thuẫn tiềm ẩn trong hình tượng nghệ thuật và tìm hiểu logic bên trong của chúng.

  1. 3. Đọc, hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong tác phẩm văn học

Tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản thường không được trực tiếp nói ra bằng lời mà thường được gửi gắm gián tiếp thông qua ngôn từ, hình tượng nghệ thuật. Do đó, người đọc phải có khả năng phán đoán, khái quát chính xác. Đó là một biểu hiện của sáng tạo.

  1. 4. Đọc, hiểu và thưởng thức văn học

Thưởng thức văn học là trạng thái tinh thần vừa bừng sáng với sự phát hiện chân lí đời sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của tác giả, vừa hưởng thụ ấn tượng sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm.

  1. Khái quát chung về đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình
  2. Khái niệm

Tác phẩm ngoài chương trình là khái niệm được dùng để phân biệt với tác phẩm trong chương trình. Tác phẩm ngoài chương trình được hiểu là những tác phẩm văn chương (tác phẩm văn học) không thuộc chương trình dạy và học (cả chính khóa và đọc thêm), không được in ấn trong sách giáo khoa của các cấp học.

 

  1. Kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình theo thể loại

2.1. Kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm thơ

2.1.1. Quan niệm về thơ

Thơ là một trong những thể loại cơ bản của văn học. Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về thơ, nhưng rất hiếm định nghĩa đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của thể loại này. Quan niệm dưới đây của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).

2.1.2. Đặc trưng của thơ

Về nội dung:  Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú; thơ được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả. Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”. Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc sống, không có thơ” (theo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương, sđd). Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy.

Về nghệ thuật: Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu… Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.

Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu…làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ. Bàn về đặc điểm này, nhà thơ Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường “.

Về cấu trúc, mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng (câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.

2.1.3. Các bước đọc, hiểu tác phẩm thơ

– Cần có những hiểu biết cơ bản về tác giả (cuộc đời, sự nghiệp, phong cách nghệ thuật, thành tựu nổi bật,…), về tác phẩm (thời gian, hoàn cảnh và cảm hứng sáng tác, xuất xứ và vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp văn chương của tác giả,…). Đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.

– Đọc, quan sát để có những hiểu biết ban đầu về tác phẩm. Qua việc đọc, học sinh phải xác định được chủ đề tác phẩm, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn), hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo của bài thơ. Đây là bước cơ bản tiếp theo giúp học sinh hiểu tác phẩm thơ. Để nắm bắt được những khía cạnh trên, ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm thơ, học sinh cần có thái độ đọc một cách chú tâm, nghiêm túc, vừa đọc vừa chú ý quan sát về mặt hình thức cũng như nội dung của văn bản vừa đặt ra cho bản thân những câu hỏi như: Tác phẩm này đề cập đến vấn đề gì? Chủ thể trữ tình của tác phẩm là ai (là tác giả hay là đối tượng nào khác)? Hình tượng nghệ thuật của tác phẩm là gì (cảnh vật thiên nhiên, con người hay thế giới loài vật,…)? Giọng điệu tác phẩm bộc lộ ra sao (buồn thương, giận hờn, oán trách, căm phẫn hay vui tươi, hào hứng,…)?

– Cảm nhận về nội dung, ý nghĩa bài thơ thể hiện qua câu, chữ, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ,… Sau khi đọc xong tác phẩm, học sinh cần phân tích, chỉ ra ý nghĩa biểu hiện của các yếu tố trên để từ đó đưa đến những ý kiến lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt là phải chỉ ra được giá trị giáo dục của tác phẩm và những đóng góp của tác giả (thể hiện qua tác phẩm) cho văn học và cho cuộc sống con người.

2.2. Kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm truyện

2.2.1. Quan niệm về thể loại truyện

Trong văn học trung đại Việt Namtruyện là khái niệm được văn học mượn từ sử học, là thể loại trước thuật được các sử gia dùng để ghi chép tiểu sử, hành trạng, công tích của các nhân vật lịch sử. Bên cạnh các tác phẩm văn xuôi dạng truyện truyền kỳ, trong văn học trung đại các tác phẩm thơ có cốt truyện tự sự cũng được gọi là các truyện, hoặc truyện thơ, như các tác phẩm thơ Nôm (Truyện Kiềutruyện Lục Vân Tiên v.v.).

Trong văn học hiện đại, truyện là khái niệm không được định tính rõ rệt. Bên cạnh việc sử dụng khái niệm truyện để chỉ mọi tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung, bao gồm cả truyện tiểu thuyết, khái niệm còn được dùng như một thuật ngữ chỉ dung lượng tác phẩm (truyện dàitruyện vừatruyện ngắntruyện trong lòng bàn tay hay truyện siêu ngắn). Khái niệm truyện cũng thường lẫn lộn với khái niệm tiểu thuyết[, đặc biệt khi nhà văn dùng thuật ngữ này hay thuật ngữ kia để gọi tên thể loại của tác phẩm mình chấp bút. Trong thực tế có tác phẩm dạng truyện là tiểu thuyết và có tiểu thuyết là truyện, tuy không phải bao giờ truyện cũng là tiểu thuyết hay ngược lại.

2.2.2. Đặc trưng của truyện

Truyện có những đặc trưng cơ bản: “tính khách quan trong sự phản ánh; cốt truyện được tổ chức một cách nghệ thuật; nhân vật được miêu tả chi tiết, sống động gắn với hoàn cảnh; phạm vi miêu tả không bị hạn chế về không gian và thời gian; ngôn ngữ linh hoạt, gần với ngôn ngữ đời sống” (Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 1, Nxb GD, H. 2007. tr 152).

Như vậy khi đọc, hiểu các tác phẩm truyện, giáo viên cần bám sát vào những đặc trưng này để giúp học sinh khám phá, tìm hiểu văn bản trong chương trình đồng thời cũng yêu cầu học sinh vận dụng để tìm hiểu một số văn bản không nằm trong chương trình.

2.2.3. Các bước đọc, hiểu tác phẩm truyện

– Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm để có cơ sở cảm nhận các tầng lớp nội dung và ý nghĩa của truyện. Mỗi tác phẩm văn học nói chung đều hình thành trong một hoàn cảnh cụ thể, trong đó các yếu tố: lịch sử, xã hội, văn hoá đều ít nhiều chi phối tới nội dung tư tưởng của tác phẩm. Có những vấn đề trong tác phẩm từ thời trung đại nhưng đến nay còn nguyên giá trị. Nhưng cũng có những truyện đề cập tới những vấn đề lịch sử, một đi không trở lại mà nếu không hiểu được hoàn cảnh xã hội lúc đó thì không thể nào nắm bắt được cái thần thái, dụng ý mà nhà văn muốn đề cập. Muốn tìm hiểu được những điều trên, học sinh cần vận dụng tích hợp kiến thức về lịch sử,tra cứu thông tin liên quan đến thời điểm tác phẩm ra đời, luồng ý kiến phản hồi về tác phẩm của độc giả và xã hội.

– Phân tích cốt truyện với các bước diễn biến:

+ Tóm tắt cốt truyện.

+ Phân tích tình huống truyện. Tình huống  là “cái tình thế nảy ra truyện”, là “lát cắt” của đời sống mà qua đó có thể thấy được cả trăm năm của đời thảo mộc, là “một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm chí cả một đời nhân loại” (Nguyễn Minh Châu). Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng tình huống là hạt nhân của truyện ngắn, “chọn được tình huống hấp dẫn coi như việc viết truyện đã xong” (Nguyễn Minh Châu).

+ Tìm hiểu điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật có vai trò dẫn dắt người đọc quan sát các chi tiết và diễn biết có ý nghĩa đặc biệt của truyện. Điểm nhìn trần thuật hay chọn cách trần thuật (ngôi kể) như thế nào cũng là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn, điều đó đòi hỏi học sinh phải nhận diện được điểm nhìn trần thuật của từng tác phẩm và tác dụng của nó.

+ Cảm nhận giọng điệu lời văn. Giọng điệu là một yếu tố thuộc về ngôn ngữ trong tác phẩm truyện. Khi phân tích ngôn ngữ văn xuôi cần chú ý cách sử dụng các kiểu câu, chủ thể phát ngôn, cách xưng hô, giọng điệu kể, sự cá thể hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thể chia ngôn ngữ văn xuôi thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiểu thuyết, thể hiện đậm đặc trong văn xuôi hiện thực phê phán  những năm đầu thế kỉ XX. Ngược lại là giọng điệu sử thi thể hiện đậm đặc trong văn xuôi cách mạng. Như vậy giọng điệu chính là một yếu tố quan trọng góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của nhà văn.

– Phân tích nhân vật theo diễn biết cốt truyện, tức là theo các tình tiết, sự kiện, biến cố đang diễn ra.

+ Phân tích ngoại hình nhân vật. Ngoại hình, hình dáng của nhân vật thường có mối quan hệ chặt chẽ với tính cách, bản chất của nhân vật. Người xưa đã dạy “Trông mặt mà bắt hình dong”, như vậy ngoại hình là yếu tố đầu tiên khi xem xét nhân vật. Tuỳ theo dụng ý nghệ thuật mỗi nhân vật thường được tác giả phác hoạ những nét đậm nhạt về ngoại hình:

+ Phân tích hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật. Hành động, hành vi, cử chỉ của nhân vật là những tín hiệu quan trọng cung cấp thêm những thông tin cho bức tranh toàn diện về nhân vật.

+ Phân tích mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh. Quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh chi phối tình cảm, tính cách nhân vật.

+ Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật thường được xây dựng theo dụng ý của nhà văn. Để thực hiện dụng ý đó, tác giả phải sử dụng các chi tiết nghệ thuật. Muốn phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật, trước hết là chú đến chi tiết. Khi đọc, hiểu tác phẩm truyện, học sinh cần bám vào những chi tiết: tên nhân vật; các chi tiết góp phần miêu tả tâm lí nhân vật; cách tạo tình huống để khám phá bản chất nhân vật.

– Phân tích kết cấu của tác phẩm. Mỗi tác phẩm có những kết cấu riêng theo định hướng ngòi bút của nhà văn. Phân tích kết cấu cũng là một phương diện để hiểu toàn cảnh nội dung và nghệ thuật tác phẩm.

– Xác định giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật thường được thể hiện qua cuộc đời và số phận các nhân vật.

3.3. Kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm kịch (kịch bản văn học)

3.3.1. Khái niệm về kịch

Theo cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, TRần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, thuật ngữ kịch được hiểu theo hai cấp độ:

Ở cấp độ loại hình: “Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn
học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu lại vừa thuộc văn học.
Kịch bản vừa dùng để diễn tả là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là
phương  diện văn học của kịch. Theo đó tiếp nhận kịch bản chính là phương
diện của văn học kịch”

Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn
học – sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này
kịch còn được gọi là chính kịch”

Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những đặc điểm của kịch bản văn học.

3.3.2. Đặc trưng của tác phẩm kịch

– Xung đột kịch. Kịch bắt đầu từ xung đột. “Xung đột là cơ sở của kịch” (Pha – đê – ép). Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm  kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng… Do tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằngTình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”.

– Hành động kịch. Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi là hành động xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Qua hàng loạt các hành động của các tính cách, các xung đột của vở kịch được bộc lộ.

– Nhân vật kịch: được xây dựng bằng chính ngôn ngữ của họ. Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt… Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.

– Ngôn ngữ kịch. Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến ba dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại (lời của các nhân vật nói với nhau), độc thoại (lời nhân vật tự bộc lộ tâm sự của mình) và bàng thoại (lời nhân vật nói riêng với người xem). Các dạng ngôn ngữ của kịch đòi hỏi phải mang tính khấu ngữ, động tác hóa và tính cách hóa. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch đòi hỏi phải gắn liền mật thiết với động tác, điều này giúp người xem hiểu được những suy nghĩ, tâm tư nhân vật.

3.3.3. Các bước đọc, hiểu tác phẩm kịch

– Trong kịch có nhân vật, cốt truyện, lời trữ tình và đặc biệt là xung đột gay gắt. Vì thế, đọc kịch cần chú ý: phân tích cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, xung đột kịch.

–  Kịch ít lời kể, chủ yếu là lời thoại nên đọc kịch phải chú ý đến lời thoại của nhân vật. Lời thoại biểu hiện xung đột kịch và tính cách nhân vật. Qua lời đối thoại (hoặc độc thoại), nhận vật bộc lộ tính cách và tâm trạng. Cùng với hành động, lời thoại của nhân vật cũng là nơi thể hiện tư tưởng của vở kịch. Lời thoại của nhân vật kịch chứa đựng nhiều cảm xúc, thường có tính chất triết lí và thể hiện rất rõ mức độ gay gắt của xung đột kịch. Khi phân tích cần chú ý đến đặc điểm này của lời thoại trong kịch.

– Đọc kịch bản văn học cần phải đặc biệt chú ý đến ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ kịch biểu đạt hành động thực tế và hành động nội tâm của nhân vật. Ngôn ngữ thúc đẩy hành động, khắc sâu mâu thuẫn và xung đột giữa các nhân vật. Ngôn ngữ kịch có những đặc trưng riêng nên cần phải chú ý phân tích.

 

III. Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn

Để góp phần rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn, chúng tôi sẽ minh họa bằng một số tác phẩm văn chương cụ thể. Do tác phẩm kịch chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ trong chương trình dạy học môn Ngữ văn cho nên chúng tôi sẽ tập trung nhiều hơn vào việc rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm thơ và truyện.

  1. Rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm thơ

Minh họa: Hướng dẫn đọc, hiểu bài thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu

NGUYỆT CẦM

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần!

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

 

Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh,

Linh lung bóng sáng bỗng rung mình.

Vì nghe nương tử trong câu hát,

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

 

Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận,

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

 

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê;

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở,

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

(“Gửi hương cho gió, 1945)

– Bước 1: Tìm hiểu những thông tin về tác giả và tác phẩm

  1. Về tác giả Xuân Diệu:

+ Xuân Diệu tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu; bút danh khác là Trảo Nha. Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Bình Định và mất ngày 18 tháng 12 năm 1985 tại Hà Nội. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 – 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình Việt Nam”. Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà vănnhà báonhà bình luận văn học.

+ Nghệ thuật thơ Xuân Diệu: đặc sắc là cảm hứng, thi tứ, bút pháp. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không bị diễn tả một cách bóng gió, ước lệ, tượng trưng mà cụ thể đầy đủ với ý nghĩa tình yêu bao gồm cả tâm hồn và thể xác. Xuân Diệu thưởng thức thiên nhiên bằng cả xúc giác và vị giác,đặc biệt thiên nhiên được nhân hoá làm cho thiên nhiên cói những tâm tư hành động rất người.

  1. Về bài thơ Nguyệt Cầm:

+ Xuất xứ: thi phẩm nằm trong tập “Gửi hương cho gió” xuất bản năm 1945. Hiện chưa xác định rõ bài thơ được sáng tác năm nào, chỉ đoán định là trong khoảng năm 1940,1941.

+ Những ý kiến nhận định về tác phẩm: Xuân Diệu đã từng quả quyết như sau: Nếu chọn bài tiêu biểu nhất của mình, Xuân Diệu chọn Biển; còn chọn bài hay nhất, Xuân Diệu sẽ chọn Đây mùa thu tới, Thơ duyên và đặc biệt là Nguyệt Cầm. Thanh Thảo, một thi sĩ có nhiều cách tân về hình thức thơ, cũng trầm trồ ngưỡng mộ: “Nguyệt Cầm thuộc dạng siêu thơ”… và không ngần ngại khi cho đó là một kiệt tác. Ts. Chu Văn Sơn cho rằng: “Thời gian có thể còn sàng lọc tước bỏ nhưng “Nguyệt Cầm” sẽ vẫn cứ là cái đỉnh chóp của sự nghiệp thi ca của nhà thơ “mới nhất trong những nhà Thơ Mới”. Bầu “Nguyệt Cầm” vào hàng tinh hoa của Thơ mới và thơ Việt hẳn không phải là lá phiếu vội vàng”. Còn Ts Phan Huy Dũng thì khẳng định: “Trong toàn bộ thi phẩm của Xuân Diệu, Nguyệt Cầm thuộc số bài thơ hay nhất. Không những hay mà còn… ma quái nhất, hoặc hay một cách ma quái chừng như không hiểu nổi”.

– Bước 2: Đọc, quan sát và cảm nhận về bài thơ

+ GV hướng dẫn HS đọc diễn cảm văn bản: giọng chậm rãi, trầm buồn, chú ý cách ngắt nhịp câu thơ.

HS nêu cảm nhận ban đầu của bản thân về bài thơ có thể không hoàn toàn giống nhau, song cần đi đến một cảm nhận chung: Đọc bài thơ Nguyệt Cầm, người đọc như lạc vào một đêm trăng sáng có tiếng đàn, âm nhạc và ánh trăng như hòa quyện vào nhau. Trong không gian âm nhạc đó, chủ thể trữ tình ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự buồn sầu, cô đơn.

+ Chủ đề của bài thơ: mối thâm giao giữa Thơ và Nhạc – một trong những chủ đề quen thuộc trong thơ ca.

+ Chủ thể trữ tình của tác phẩm:cái “Tôi” cô đơn, buồn sầu của thi sĩ Xuân Diệu.

+ Đại ý của tác phẩm: Bài thơ Nguyệt Cầm bao quát 2 ý lớn: Một không gian thiên nhiên tràn ngập ánh trăng và tiếng đàn; Nỗi sầu cô đơn của thi nhân trong cảnh đàn trăng

+ Kết cấu tác phẩm: Bài thơ gồm 4 khổ, được tổ chức theo logic tăng tiến. Về thời gian: ngày một khuya khoắt; về không gian: càng lúc càng tràn đầy với mọi bề cao – rộng – sâu theo sự toả lan của nhạc; về cảm giác: mỗi lúc một ghê lạnh, rợn ngợp; về cảm xúc: càng đêm càng buồn sầu, nhung nhớ, đơn côi… Tất cả những mạch đó của thi tứ xe quyện với nhau và thống nhất trong một thể sống động bởi cùng một thi pháp giao thoa – cộng hưởng.

+ Ý nghĩa nhan đề bài thơ: Bài thơ có tên gọi là Nguyệt  Cầm: một nhạc khí, loại đàn tròn, hai dây (tên là dây văn và dây ) có âm thanh và hình dáng gần giống đàn tì bà. Nhan đề bài thơ có thể hiểu: là một bản đàn (đàn khúc nguyệt cầm); là tiếng đàn trong đêm trăng; là cuộc giao duyên giữa trăng và đàn,… Các làn nghĩa này khi đọc tác phẩm, học sinh chuyên văn có thể nhận thấy được không mấy khó khăn. Nhưng cái kỳ diệu của hồn thơ là cảm nghe được mối giao tình của bản thân ngôn ngữ và mối tương giao giữa ngôn ngữ với nhạc. Về từ tố, đó đơn giản chỉ là sự cộng ghép nguyệt (trăng – ánh sáng) và cầm (đàn – âm thanh). Nhưng bản thân tính dạng Nguyệt Cầm đã là cuộc giao duyên về ngữ âm của ngôn từ. “Nguyệt” và “Cầm” đều là những âm gốc Hán, nghiêng về sắc thái  trầm đục, âm u. Cho nên chúng lập tức gắn bó với nhau thành hợp thể để cùng cất giữ sâu trong ngữ âm của mình một thế giới huyền bí. Đồng thời, chúng còn là mối giao tình về ngữ nghĩa. “Nguyệt” và “Cầm” là khởi nguyên cho một thế giới làm bằng ánh sáng và âm thanh: gồm cả âm thanh của ánh sáng (nhạc của trăng), cả ánh sáng của âm thanh (trăng của nhạc).

– Bước 3: Cảm nhận về nội dung, ý nghĩa bài thơ thể hiện qua câu, chữ, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ,…

  1. Đọc, hiểu khổ 1

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần!

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

– Câu 1:                 “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh”

Động từ “nhập” chỉ sự xâm nhập của ánh trăng vào dây đàn. Kết hợp với hình ảnh “nguyệt lạnh” đem đến cho người đọc liên tưởng thú vị. Cây đàn nguyệt lúc đầu chỉ lạnh lẽo như một cái xác không hồn, chỉ đến khi ánh trăng khuya nhập vào dây cung thì mới có hồn đàn. Đó cũng là giây phút thăng hoa của cảm xúc. Mỗi nốt đàn là sự kết hợp giữa âm thanh và ánh sáng; mỗi nốt nhạc sẽ sinh thành từ sự giao duyên kì bí của nguyệtcầm. Âm tiết “lạnh” đứng ở cuối câu là một thanh trắc có độ khép tạo nên điểm nhấn cảm xúc cho cả câu thơ, thậm chí chi phối cả bài thơ. Gam lạnh bao trùm lên cả bài thơ nhưng khung cảnh tràn ngập ánh trăng và tiếng đàn vẫn tạo ra một không gian lung linh và huyền ảo.

– Câu 2 và 3:

 “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần!

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,”

Hai câu thơ  này tả không gian trăng nhạc bằng các cung bậc của tình đàn. Trong cái nhìn truyền thống, câu 2 và câu 3 trên đây chỉ là một cặp đối ngẫu. Nhưng cần thấy các nhịp thơ được ngắt khá đặc biệt. Câu thơ thất ngôn bị ngắt rời thành ba nhịp, mỗi nhịp là một tiết tấu của câu lớn vừa là một câu nhỏ có tính độc lập. Ba chủ từ ở câu trên đều là “trăng”, còn ba chủ từ của câu dưới đều là “đàn”. Còn vị từ đều là các động thái của trăng, của đàn (hay trạng thái của con người): thương, nhớ, buồn, lặng. Điều này, xét về mặt tuyến tính, nó tạo ra một chuỗi giai điệu nối tiếp nhau; nốt sau cao hơn, tha thiết hơn nốt trước. Âm nhạc như lan tỏa khắp không gian. Hai tính từ đặt ở cuối câu: “ngần” (chỉ màu sắc trắng ngần của ánh trăng) và “chậm” (chỉ âm thanh chậm rãi buông của bản đàn) tạo nên những rung ngân nhẹ nhàng trong lòng người.

– Câu 4:

“Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Cụm từ “giọt rơi tàn” có thể hiểu là giọt ánh sáng, giọt âm thanh đang loãng dần, tan dần trong không gian. Cụm từ “lệ ngân” có sự góp mặt của hai âm tiết: “lệ” và “ngân”. Chữ “lệ” khiến ta liên tưởng tới giọt đàn và giọt trăng như giọt lệ của người. Chữ “ngân” vừa là danh từ (nghĩa là bạc; từng giọt đàn rơi màu sắc như ánh bạc), vừa là động từ (tiếng ngân của giọt lệ) có sự hài hòa về thanh điệu với chữ “ngần” ở câu 2 tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong hình ảnh thơ.

Các biện pháp tu từ: Phép nhân hóa: trăng nhập, trăng thương, trăng nhớ, đàn buồn, đàn lặng; Phép so sánh: “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” có tác dụng nhấn mạnh, tạo sự liên tưởng sinh động, ánh trăng và cung đàn như một sinh thể có linh hồn, có cảm xúc. Từ đó gợi ra những liên hệ tới chủ thể trữ tình – cái tôi đầy tâm trạng của thi nhân.

  1. Đọc hiểu khổ 2.

“Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh,

Linh lung bóng sáng bỗng rung mình.

Vì nghe nương tử trong câu hát,

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.”

Không gian trữ tình tiếp tục được nhà thơ mô tả bằng những hình ảnh cụ thể, sinh động. Đó chính là là không gian của bầu trời đêm “Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh”. Không gian ấy tuy có trăng nhưng vắng những đám mây lại gợi ra một không gian bị thu hẹp; “trời trong” vừa gợi ra độ sâu, vừa gợi ra độ trong của bầu trời, khi ấy, không gian buổi đêm như “thủy tinh”. Và ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời ánh chiếu xuống không mang cảm giác yên bình như thường thấy mà nó sáng “linh lung”.

Từ láy “linh lung” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu trong việc vận dụng từ ngữ khi đã cố tình đảo ngược trật tự hai thành tố “linh” và “lung” trong một từ láy khá quen thuộc “lung linh”. Ngôn từ phải vặn mình lạ đến vậy là do nhu cầu bộc lộ những cảm giác tinh vi. “Lung linh” chỉ có nghĩa là sự lay động, nhún nhảy, rung rinh của những làn ánh sáng, một cảm giác thuần túy thị giác. Còn chữ “linh lung” trong Nguyệt Cầm của Xuân Diệu lại chỉ ánh sáng rợn lên tê tái, huyễn hoặc và làm sống dậy cả một luồng run rẩy gồm cả cảm giác, xúc giác và thị giác.

Hai câu 3,4 của khổ 2 là sự cắt nghĩa, lí giải: vì sao ánh sáng đẹp nhưng lại mang đến sự rung mình cho người nhìn, người đón nhận nó. Tiếng đàn buồn rơi trong đêm trăng làm cho thi sĩ liên tưởng đến những con người bạc mệnh, những con người ấy cũng đã từng sống trong cảnh buồn thương, rơi rụng. Số phận của họ mỏng manh như tiếng đàn nhưng không dễ dàng làm cho người đời quên đi mà ngược lại, luôn in dấu trong cảnh vật, con người. Họ là ai? Họ là những người phụ nữ tài sắc nhưng “hồng nhan đa truân”, cuộc đời họ bất hạnh, buồn thảm như tiếng đàn của họ. Câu thơ rất “Tây” của Xuân Diệu đã tái hiện rất chân thực cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Chiêu Quân. Đêm rằm chết dần, tàn dần theo nước xanh hay người con gái ấy gói cuộc đời mình lại trong tiếng đàn, câu hát rồi để mặc chảy trôi vĩnh viễn theo dòng nước xanh – dòng đời hoang lạnh? Câu thơ có sự lụi tàn của cái đẹp, có cái vô tình của tạo hoá, có cái nhẫn tâm của cuộc đời. Cái sự thật phù phàng ấy đã bao lần được nói tới trong văn thơ trung đại, nay đến lượt Xuân Diệu.

 

  1. Đọc hiểu khổ 3

“Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận,

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…”

Trong hai câu thơ đầu, không gian của “Nguyệt Cầm” ngày càng khuya khoắt, thanh vắng hơn; dường như cái lạnh của đêm thu càng làm tăng thêm độ ngời sáng của ánh trăng. Mùa thu và tiếng đàn đều lạnh: cái lạnh của tiết trời thu hòa cùng cái lạnh của cảm xúc và tâm hồn con người. Âm thanh tiếng đàn trở nên ghê rợn, đem lại cảm giác sợ hãi đến mức phải bật thốt lên “trời ơi” trước sự lạnh lẽo của nó. Cả bài thơ có đến ba từ “lạnh” nhưng phải đến từ thứ ba do được ngăn cách quyết liệt bởi hai dấu phẩy mới thấy hết được cái lạnh toát ra mạnh mẽ nhất; cách chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang xúc giác đến độ như thế đã là tuyệt đối!

Ở câu 3 “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận”, ta thấy rõ tính hợp âm: vế trước là hình ảnh ánh sáng “long lanh” (thị giác), vế sau là âm thanh “vang vang” (thính giác). Tuy nhiên, “tiếng sỏi” không muốn đứng yên ở vế bên này; nó đã ngầm giao kết với vế bên kia để phát sinh ra một nghĩa tương giao khác: “tiếng sỏi vang vang hận”.  Ta cảm / nghe tiếng sỏi va xiết đang long – lanh – sáng, đồng thời đang vang vang lên một mối hận nào đó giữa canh khuya. Nhìn sâu vào ngay trong một vế cũng thấy lạ lùng: tiếng sỏi vốn trầm đục, đâu có trong trẻo mà có thể có một cảm giác tương ứng của thị giác là “long lanh”. Phải chăng đó là những viên sỏi đọng trăng trên lối khuya? Những viên sỏi long lanh nơi lòng bến Tầm Dương? Hay là các nốt đàn cứ từng giọt rơi long lanh, tròn vo như dáng sỏi? Ta không thể nói quyết được nó nghiêng về nghĩa nào. Trong âm nhạc của Nguyệt Cầm, nó cứ long lanh một chất thơ như thế, khước từ mọi sự lý giải bằng lý tính của người đọc thơ. Nhờ cách ấy, nó đã tạo ra cái linh lung kỳ ảo của ngôn từ. Đến câu thơ thứ tư, tính đối ngẫu còn rõ hơn nữa. Hai vế vừa là sự song tấu: Văn – Vũ, vừa là sự cộng hưởng: trăng nhớ (ánh sáng) và nhạc nhớ (âm thanh). Ấy là hai phía thị giác và thính giác hợp nên từng âm giai Nguyệt Cầm. Tất cả cứ làm cho không gian nhạc tràn ngập những “linh lung” của đàn và trăng.. Nhà thơ đã nghe tiếng đàn bằng toàn bộ sự sống của mình. Còn ta, ta nghe tiếng đàn thơ bằng các giác quan của mình. Tất cả nằm trong sự cộng hưởng đến tuyệt vời. Thế mới biết năng lực tạo hình bằng âm thanh của Xuân Diệu đạt đến mức tài hoa như thế nào.

  1. Đọc hiểu khổ 4

“Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê;

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở,

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.”

Ở khổ thơ cuối này, ta có thể thấy cách mô tả của nhà thơ Xuân Diệu rất độc đáo, bởi nhà thơ một lần nữa lấy cái hình ảnh để đặc tả cái âm thanh “Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê”. Tiếng đàn và ánh trăng hòa quyện, âm thanh của đàn mang theo ánh sáng của trăng, tạo nên “ánh nhạc”. Với cách dùng từ này tạo ra được sức hấp dẫn cũng như các cung bậc cảm xúc mà tiếng nhạc đó mang lại, sự đẹp đẽ của tiếng nhạc đó được Xuân Diệu liên tưởng đến vẻ đẹp của “biển pha lê”, cái đẹp mênh mông, trong sáng.

Đến câu thơ thứ 2 “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…” nhân vật trữ tình mới xuất hiện trong sự suy tư bộn bề. Số từ “chiếc” (một, chỉ số ít) đối với “bốn” (chỉ số nhiều) như nhấn mạnh thêm nỗi niềm cô đơn, lẻ loi của thi nhân trước cuộc đời. Không gian xung quanh cũng như đồng cảm với thi nhân, như cảm nhận được nỗi buồn, sự cô đơn ấy mà “làm thinh”, “nín thở”. Âm thanh tiếng nhạc vẫn réo rắt, không chỉ đánh động tâm can con người mà còn đánh động đến cả sao Khuê “Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.

– Bước 4: Rút ra những đánh giá về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Nguyệt Cầm

Nguyệt Cầm” của nhà thơ Xuân Diệu là một thi phẩm mang những cảm xúc rất đặc biệt của nhà thơ, bởi độc giả thường quen với hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ dạt dào cảm xúc tươi mới, sự hối hả, vội vàng đầy đắm say với tình yêu, với cảnh sắc, vẻ đẹp của “thời tươi”. Thế nhưng, đến với bài thơ này tuy cảm xúc của thi nhân vẫn dạt dào song lại mang âm vị trầm buồn, chất chứa những nỗi suy tư, những bí mật không thể giãi bày, không thể tâm sự. “Giữa rất nhiều bài thơ rất có giá trị của Xuân Diệu trước 1945, “Nguyệt Cầm” là một sáng tạo đột xuất, độc đáo, ảnh hưởng thuyết tương ứng của Baudelaie đã thấm vào bề sâu chứ không còn dừng lại ở việc hấp thụ một số thủ pháp bề nổi như ghép loại cảm giác này với loại cảm giác khác. Nhà thơ đã ghi lại một cách hết sức chân thực cảm giác của mình trong giây phút xuất thần giao cảm với tiếng đàn, với vũ trụ.” (Ts. Phan Huy Dũng)

  1. Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm truyện

Minh họa: Hướng dẫn đọc, hiểu truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.

– Bước 1: Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm

Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” rút từ tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau”, xuất bản năm 1970. Tác phẩm ra đời đúng vào thời điểm cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đang bước vào giai đoạn cam go, ác liệt. Thế nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tìm thấy chất thơ giữa sự trần trụi tàn khốc của chiến tranh. Trong cuộc chiến huỷ diệt, giữa chết chóc đạn bom, tình yêu lứa đôi vẫn như sợi chỉ xanh óng ánh nối qua không gian và thời gian quấn riết làm thành mối tình bền chặt. Chính điều ấy tạo nên sự độc đáo của thiên truyện tạo ra sức hấp dẫn và ám ảnh.Vẻ đẹp lãng mạn trong Mảnh trăng cuối rừng đậm sắc màu lý tưởng nhưng nó vẫn hoàn toàn có thật, như bông hoa nở trên sa mạc như cánh diều bay cao vẫn gắn bó với mặt đất bằng một sợi dây.

“Mảnh trăng cuối rừng” tiêu biểu cho những đặc điểm bút pháp của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn trước năm 1975 và mang những đặc điểm chung của văn học giai đoạn ấy. Đó là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Với chủ đề: vẻ đẹp tiềm tàng như những hạt ngọc còn ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam ở thời kì chống Mĩ mà nhà văn đang khao khát tìm kiếm và có lúc đã nhận ra cái ánh sáng trong trẻo rạng rỡ của nó.

– Bước 2: Phân tích cốt truyện với các bước diễn biến:

+ Tóm tắt cốt truyện: Chuyến xe đêm ấy đưa hàng ra tiền tuyến, chiến sĩ lái xe Lãm được chỉ huy cho phép trả hàng xong sẽ rẽ vào đơn vị thanh niên xung phong thăm chị gái và gặp mặt cô gái được người chị mai mối làm người yêu. Thật phiền hà, trên đường đi Lãm lại gặp một cô gái đi nhờ lên ngầm Đá Xanh. Cô gái xinh đẹp ấy tên là Nguyệt, cũng đang trên đường đi gặp người yêu chưa biết mặt. Quá nửa đêm, xe đến ngầm. Cô gái không xuống xe đi về đơn vị, cô đã giúp Lãm đưa xe vượt ngầm. Máy bay giặc từng đàn ào tới ném bom thả pháo sáng, bắn 20 li đỏ lừ. Cô gái bị hơi bom xô ngã, nhưng cô đã dũng cảm đẩy chàng lái xe vào chỗ nấp còn mình đứng che chắn phía ngoài. Chiếc xe bén lửa. Hai người vừa dập lửa vừa cho xe phóng lên phía trước. Nguyệt phải dò đi trước dẫn đường. Vượt khỏi trọng điểm, Lãm mới biết Nguyệt bị thương, máu chảy đỏ cả cánh tay áo xanh. Cô ướt như một con công vừa tắm thế mà vẫn cười rất tươi. Trong lòng anh lái xe trẻ dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục. Cô gái chia tay Lãm đi ngược lại phía ngầm… Chuyến ấy giao hàng xong, đã quá muốn, Lãm lỡ hẹn. Chuyến xe sau, anh mới vào thăm chị gái. Khi đó anh mới biết cô gái đi nhờ xe đêm ấy chính là người yêu từng hẹn ước…

+ Tình huống truyện của tác phẩm: “Mảnh trăng cuối rừng” kể về cuộc gặp gỡ của Lãm – một chiến sĩ lái xe quân sự – với một cô công nhân giao thông đi nhờ xe anh trên đoạn đường chiến tranh. Điều thú vị ngẫu nhiên là cô gái ấy chính là Nguyệt – người đã hẹn ước vắng mặt với anh (qua sự giới thiệu của người chị gái của Lãm ở cùng đội với Nguyệt). Hai người cùng đi đến chỗ hẹn để gặp nhau. Nhưng vốn họ chưa một lần gặp nhau nên qua câu chuyện, Lãm chỉ có thể phỏng đoán cô gái đi nhờ xe là người đã hẹn ước với mình. Suốt dọc đường đi, trải qua nhiều khó khăn nguy hiểm, Nguyệt đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp, làm thay đổi sự nhìn nhận về cô của Lãm. Vì những trắc trở của chiến tranh, họ đã không gặp được nhau ở chỗ hẹn; nhưng cô gái đã để lại những tình cảm sâu sắc và niềm tin tưởng lớn lao cho chàng trai.

Tình huống truyện mang tính ngẫu nhiên nhưng sự sắp đặt của tác giả khá tự nhiên, không giả tạo. Cái ngẫu nhiên ở đây cũng mang tính quy luật: trong chiến tranh từng có biết bao tình huống lạ lùng, những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Hơn nữa, các tình tiết xếp đặt của tác giả đều khá hợp lý (về nguyên do của những cuộc gặp gỡ: bức thư của người chị, chuyến đi công tác kết hợp việc riêng của anh chiến sĩ lái xe). Tác giả cũng giữ cho người đọc và người kể chuyện ở trong tâm  trạng  phấp  phỏng, dự đoán không biết cô gái đi nhờ xe của Lãm có phải là người đã được hẹn ước với anh không. Chính tình trạng có vẻ mơ hồ không rõ ràng ấy lại là yếu tố tạo nên cái hấp dẫn riêng của câu chuyện.

+ Nhan đề tác phẩm: “Mảnh trăng cuối rừng”, ở đây chỉ là “mảnh trăng” thôi chứ không phải là vầng trăng. Vẻ đẹp của vầng trăng là vẻ đẹp toàn vẹn, trong sáng, rõ ràng và viên mãn, còn mảnh trăng thì chỉ lấp lóe một chút ánh sáng, khi ẩn khi hiện, chập chờn mở ảo gợi bao sự tò mò. Mảnh trăng lại được xác định rõ không gian, ở tận “cuối rừng” khiến cho ánh sáng càng như xa hút, gợi lên sự khát khao kiếm tìm và vươn tới. Đây là một tựa đề mang tính biểu tượng rất cao. Trong bom đạn chiến tranh ác liệt, dưới ánh trăng khi ẩn khi hiện, khi gần khi xa, vẻ đẹp của nhân vật chính – Nguyệt – dần hiện ra với những tính cách, phẩm chất cao đẹp. Đó là nét đẹp trong tâm hồn của cả thế hệ trẻ thời chống Mĩ, là hạt ngọc ẩn giấu mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tìm kiếm bấy lâu.

– Bước 3: Phân tích nhân vật trung tâm – Nguyệt.

Định hướng: Khi phân tích nhân vật Nguyệt, cần làm rõ được những vẻ đẹp như: vẻ đẹp ngoại hình; vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn.

  1. Vẻ đẹp ngoại hình của Nguyệt

– Lần đầu tiên, Nguyệt xuất hiện trong ánh đèn gầm hắt xuống mặt đường, ngay trước mũi xe của Lãm với “đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá”. Đó quả là một vẻ đẹp hiếm thấy trong chiến tranh. Trong bom đạn ác liệt nơi chiến trường nguy hiểm, người con gái ấy vẩn biết làm đẹp cho mình. Một vẻ đẹp giản dị thôi nhưng nó thật tinh khiết và nhẹ nhàng.

(Lưu ý: Để giúp HS có thể cảm nhận và đánh giá đúng vẻ đẹp này của nhân vật Nguyệt, GV cần cung cấp thêm cho các em những kiến thức về văn hóa đời sống, về trang phục của người Việt Nam thời chiến tranh chông Mĩ như thế nào,.. Và cũng cần lưu ý HS rằng đó là bộ quần áo Nguyệt mặc trên đường đi gặp gỡ chàng trai mà cô đã hẹn ước để thấy được sự nét nữ tính duyên dáng của Nguyệt; tránh dẫn đến sự đánh giá sai lầm mang tính chủ quan)

– Vẻ đẹp của Nguyệt đọng lại trong tâm hồn Lãm mỗi lúc một sâu hơn, đậm hơn. “Qua làn ánh đèn tù mù của đoàn xe xích lao đi ầm ầm bên cạnh,tôi kịp nhận thấy vẻ xinh đẹp của cô gái, một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà. Cô ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải…”. Dường như vẻ đẹp của Nguyệt mang một điều gì đó thật trong trẻo, thuần khiết, mát lành. Sự so sánh đối lập thân hình mảnh dẻ của Nguyệt với thân hình đẫy đà của hầu hết các cô công nhân giao thông khác càng khiến vẻ đẹp của Nguyệt hiện lên với một vẻ riêng, trọn vẹn, toàn bích.

– Dưới ánh trăng, vẻ đẹp ngoại hình của Nguyệt càng tỏa sáng: “Chốc chốc, tôi lại đưa mắt liếc về phía Nguyệt, thấy từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm sao!… Trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt làm chokhuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường!”. Nguyệt đẹp quá! Vẻ đẹp ấy rực rỡ trong đêm tối, làm choáng ngợp tâm hồn của Lãm, khiến anh không còn nhận ra ý nghĩa của lời nói và đôi mắt anh đã choáng ngợp “như vừa trông thấy ảo ảnh”.

–  Nhà văn tiếp tục khai thác vẻ lộng lẫy và rực rỡ của nhân vật, ngay cả khi cô bị thương: “Nguyệt nhìn vết thương, cười. Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp. Từ đầu đến chân, cô ta ướt như một con công vừa tắm”. Đây là một nét độc đáo trong bút pháp của nhà văn. Cả lúc bị thương, Nguyệt vẫn thật đẹp, khuôn mặt vẫn tươi tỉnh. Điều đó khiến người đọc cảm nhận được một nét gì đó thật lạc quan bình thản và cứng cỏi trong tâm hồn cô.

Tóm lại, Nguyệt là một cô gái mang vẻ đẹp ngoại hình thật trẻ trung, tươi mát, trong sáng và rạng ngời. Vẻ đẹp ấy vượt lên khung cảnh đạn bom, vượt lên cái chết, mang đến cho chúng ta một cảm giác thật bình yên và ngọt ngào. Rõ rang, Nguyệt là nhân vật đầy tính lãng mạn, mang màu sắc lí tưởng hóa, một nhân vật tiêu biểu cho bút pháp trữ tình của nhà văn Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975.

 

  1. Vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn của Nguyệt

Qua việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của Nguyệt, Nguyễn Minh Châu đã bước đầu hé lộ chất ngọc ẩn giấu nơi cô, đó là vẻ đẹp tâm hồn. Vẻ đẹp ấy giống như mảnh trăng cuối rừng, càng đến gần càng thấy rõ. Trên tuyến đường dài đầy gian nan, thử thách đi cùng Lãm, những phẩm chất cao đẹp của Nguyệt hiện ra mỗi lúc một rõ hơn, đẹp hơn.

– Trước hết, Nguyệt là một cô gái giàu lòng yêu nước, sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước. Là một cô học sinh miền xuôi mới rời ghế nhà trường, Nguyệt cũng như bao thanh niên khác đã tình nguyện đi thanh niên xung phong, vào nơi tuyến lửa. Cô luôn được đồng đội yêu mến vì tâm hồn trong sáng, vì sự ngoan ngoãn và dũng cảm của mình.

– Không chỉ có vậy, Nguyễn Minh Châu còn cho người đọc thấy một đức tính thật đáng quý trong nhân vật Nguyệt, cũng là trong tâm hồn của biết bao con người trong thời kỳ chồng Mỹ. Đó là lòng dũng cảm, gan góc một cách lạ thường.

+  Khi máy bay địch ném bom tọa độ, Nguyệt tỏ ra rất dũng cảm và bình tĩnh: “Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. Tiếng máy bay ầm ầm. Tôi vứt vòng dây sắt nặng trĩu trên tay, chạy nhào về phía xe. Vừa chạy được hai bước, tôi đã bị Nguyệt túm trở lại, nhanh và khỏe hết sức. Nguyệt đẩy tôi ngã  vào giữa một vật gì rất cứng và sâu. Nghe hơi thở và tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh…”. Nhưng hành động của Nguyệt cho thấy cô không quản ngại hy sinh thân mình vì đồng đội, sẵn sàng chịu đựng hiểm nguy qua hành động nhường chỗ an toàn cho Lãm. Bởi một lẽ đơn giản: “Anh bị thương thì xe cũng mất”. Lời nói của Nguyệt nghe thật dứt khoát và mạnh mẽ; thật ít ai có thể nghĩ ẩn giấu bên trong tấm thân mảnh dẻ của cô lại là một tinh thần dũng cảm, vững vàng, hy sinh vì đồng đội lớn lao đến thế.

+ Cùng Lãm trải qua chặng đường gian nan, qua bao hiểm nguy rình rập, Nguyệt luôn sát cánh bên người chiến sĩ lái xe, cùng anh tháo gỡ mọi tình huống. Khi xe bị cháy, cô cùng Lãm dập lửa, bảo vệ an toàn cho xe. Khi xe qua một quãng đường khó đi và tối, Nguyệt sẵn sàng nhảy xuống đi trước dò đường; Lãm cứ “nhằm cái bóng trắng nhờ nhờ của Nguyệt trước mặt mà lái theo”. Một lần nữa, Nguyệt lại trở thành cọc tiêu sống giúp người chiến sĩ lái xe vượt qua vùng lửa đạn, đưa xe đến chỗ an toàn. Trong chớp lửa, đạn bom, hình ảnh Nguyệt càng rạng rỡ, tươi đẹp, cao cả.

+ Nguyệt bị thương, “vết máu chảy xuống đỏ cả cánh tay áo xanh”, nhưng không một lời kêu rên, một tiếng than thở. Cô “nhìn vết thương, cười. Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp”. Một lần nữa, sự bình tĩnh, gan dạ, cứng cỏi của Nguyệt lại được tô đậm thêm ở chi tiết tưởng chừng rất nhỏ này. Nụ cười tươi của Nguyệt lúc bị thương càng làm sáng lên mảnh trăng tâm hồn nơi cô.

– Song vẻ đẹp kì diệu nhất ở tâm hồn người con gái mang tên vầng trăng này chính là tình yêu thủy chung và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Đó là mối tình Nguyệt ấp ủ với một người con trai cô chưa hề gặp gỡ và chưa hứa hẹn một điều gì. Chiến tranh, bom đạn và thời gian khắc nghiệt đằng đẵng mấy năm trời đều không làm phai nhòa đi tình cảm tốt đẹp mà Nguyệt đã dành cho Lãm. Cô vẫn nguyện chung thủy đợi chờ anh (dù có rất nhiều người tốt, kể cả những “cán bộ khá” ngỏ lời nhưng Nguyệt đều từ chối) và chủ động đi đến ngày hai người được gặp nhau. Điều đó khiến Lãm, một người chiến sĩ lái xe nay đây mai đó hết sức ngỡ ngàng, xúc động, biết ơn. “Trong lòng cô ta, cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn, vẫn không phai nhạt, không hề đứt ư?”. Tác giả đã mượn suy nghĩ của Lãm ở cuối tác phẩm để nói lên thiện cảm sâu sắc của mình đối với người con gái xinh đẹp và cao thượng ấy: “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư?”. Hình ảnh sợi chỉ bé nhỏ không bao giờ phai nhạt, không bị đứt rời được đặt cạnh hình ảnh chiếc cầu lớn bắc qua sông, bị bom Mĩ cắt gọn làm đôi, biểu tượng cho sự chiến thắng của tình yêu, của niềm tin vào cuộc sống trong chiến tranh, của sự sống trước cái chết mà kẻ thù gieo rắc. Đây phải chăng cũng chính là phần sáng nhất của hạt ngọc ẩn giấu mà Nguyễn Minh Châu muốn kiếm tìm trong tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ?

– Nhân vật Nguyệt có tính điển hình rất cao. Cô điển hình cho những cô gái Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ nói riêng và cho những người phụ nữ Việt Nam nói chung – những con người đẹp đẽ, cao cả, anh dũng, kiên cường. Nhân vật điển hình là nhân vật có đặc điểm chung, tiêu biểu cho một giai cấp, một tầng lớp trong xã hội nhưng đồng thời phải là con người cụ thể, riêng biệt. Nguyễn Minh Châu đã rất chú ý đến tính cách riêng độc đáo ấy nên nhân vật Nguyệt hiện lên rất sinh động. Ở Nguyệt vừa hội tụ những phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ vừa mang những nét riêng, đậm chất lý tưởng. Đó là vẻ đẹp thiêng liêng cao quý về phẩm chất, tính cách, về tình yêu của cả một thế hệ đã dũng cảm dâng hiến đời mình cho đất nước.

– Bước 4: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật Nguyệt. Tác giả Nguyễn Minh Châu không phải là người trực tiếp miêu tả nhân vật của mình. Từ đầu cho đến cuối tác phẩm, vẻ đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn của Nguyệt đều được miêu tả một cách gián tiếp thông qua lời trần thuật của các nhân vật khác trong truyện như chị Tính, chị Nguyệt “lão” và Lãm. Đó là cách soi ngắm, chiếu rọi từ mọi góc độ của cái nhìn nghệ thuật mà tác giả không giữ độc quyền.

Chọn cách miêu tả như vậy, vẻ đẹp của Nguyệt hiện lên chân thực và tự nhiên, có sức tác động mạnh hơn đến độc giả. Bút pháp trữ tình và cảm hứng lãng mạn bay bổng cũng quán xuyến ngòi bút của Nguyễn Minh Châu khi miêu tả vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt (sự song hành của Nguyệt và trăng; sự tương phản giữa một bên là sức mạnh vật chất của những trận mưa bom bão đạn và một bên là vẻ đẹp, sức mạnh ngời sáng của tình yêu, lòng dũng cảm). Chính điều này khiến vẻ đẹp của Nguyệt hiện lên lung linh, huyền ảo như trong thế giới cổ tích; vẻ đẹp ấy vừa gần gũi vừa xa vời, như không thể với tới khiến người đọc càng thêm yêu thích.

– Bước 5: Xác định giá trị tư tưởng của tác phẩm: Thông qua câu chuyện về Nguyệt, một cô công nhân giao thông trên tuyến đường Trường Sơn, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn của cả một thế hệ trẻ Việt Nam sẵn sàng cống hiến đời cho công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Đồng thời, “Mảnh trăng cuối rừng” cũng là một khám phá, phát hiện của nhà văn trong hành trình đi tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

 

 

  1. PHẦN KẾT LUẬN

Những tác phẩm văn chương ngoài chương trình rất đa dạng, phong phú về thể loại, đề tài, phong cách văn chương,… và mang nhiều giá trị về mặt tư tưởng, nghệ thuật. Do những điều kiện khách quan như: khuôn khổ chương trình sách giáo khoa hạn hẹp; sự đổi mới của chương trình dạy học qua từng thời kì giáo dục; sự tác động của yếu tố văn hóa,đời sống xã hội,… mà những tác phẩm đó chưa được đưa vào trong chương trình dạy học. Qua tìm hiểu, triển khai chuyên đề “Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn”, chúng tôi xin đi đến một vài kết luận như sau:

Thứ nhất, đây là vấn đề quan trọng và bổ ích, cần được tiếp tục xem xét và nghiên cứu sâu sắc và kỹ lưỡng hơn nữa trong quá trình dạy học cho học sinh chuyên văn. Bởi thông qua chuyên đề này, cả GV và HS đều có được những hiểu biết một cách có hệ thống những kiến thức và kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm văn chương ngoài chương trình. Điều này sẽ giúp cho cả người dạy lẫn người học sẽ bớt lúng túng khi giải quyết các đề bài văn lấy tác phẩm ngoài chương trình làm tư liệu.

Thứ hai, chuyên đề của chúng tôi đã cung cấp một cái nhìn có tính khái quát chung về kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho HS chuyên văn. Bên cạnh đó, phần minh họa bằng những tác phẩm cụ thể, có chọn lọc sẽ giúp HS có được hình dung ban đầu về kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm văn chương ngoài chương trình; là cơ sở cho các em tiếp cận với các tác phẩm khác tương tự.

Thứ ba, chuyên đề được hoàn thành trong khoảng thời gian có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, sẻ chia, rút kinh nghiệm để chúng tôi tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện nhằm phục vụ tốt hơn cho quá trình bồi dưỡng học sinh chuyên văn.ÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao, tập Một, NXB Giáo dục, 2006
  2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Nâng cao, tập Hai, NXB Giáo dục, 2007

Nhiều tác giả, Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, NXB Giáo dục, 2004

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên Ngữ văn 10 Nâng cao, tập Một, NXB Giáo dục, 2006
  2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2007
  3. Thái Quang Vinh, Thạch Ngọc Hà, Đặng Đức Hiền, Bồi dưỡng Ngữ văn Năng khiếu lớp 12, NXB Đà Nẵng, 2001
  4. Thái Quang Vinh, Thạch Ngọc Hà, Đặng Đức Hiền, Bồi dưỡng Ngữ văn Năng khiếu lớp 12, NXB Đà Nẵng, 2001
  5. Một số bài viết trên các trang điện tử.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *