Viết bài văn (khoảng 600 chữ) thuyết minh về lễ hội Đền Thượng ở tỉnh Lào Cai

Đề thi khối 11

Đề bài

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

       Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu:

       Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.

       Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng chờ lệnh hạ cánh xuống. Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ liền xông tới đốt. Rồi ong cũng lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to, vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó một bài học về kiên nhẫn, về cần lao, về tích lũy, chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến (bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa quanh vùng. Và trong một nửa lít mật ong đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.

      Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong chính mình là dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích lũy ở mình cũng ngày ngày có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đồi hoa xuân lắng ong mật mà thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo ngữ ồn ào. Bướm phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng cũng chẳng để lại gì. Từ ngày có lịch sử tiến hóa của loài người, chưa ai dám nói đến mật bướm.

      Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình (và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi sáng của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.

       Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên cổ người “con hát” một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với mảy bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thân thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên. Tổ quốc ta bao la cát bãi.

       Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng của một đóa hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người. Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: rễ trong kia chỉ liên lạc được với hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.

(Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 2, Nxb Văn học, 1998, trang 5-7)

Trả lời các câu hỏi sau:

Câu 1:

    Trong đoạn trích trên, tác giả đã sử dụng những từ ngữ nào để nói về hạt ngọc trai?

Câu 2:

Các cụm từ “Tôi nhìn…”,“Giờ tôi mới biết rằng…”,“Tôi đã lấy cách nhìn
nêu lên đặc điểm gì về cái tôi của tác giả được thể hiện trong đoạn trích?

Câu 3:

    Theo anh/chị, câu văn “Sự tích lũy ở mình cũng ngày càng có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống” thể hiện ý nghĩa gì trong nghề viết?

Câu 4:

Thông điệp được tác giả gửi gắm qua đoạn trích trên là gì?

Câu 5:

Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 3-5 dòng) trình bày suy nghĩ về vai trò của lòng kiên nhẫn của con người trong cuộc sống?

VIẾT (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) thuyết minh về lễ hội Đền Thượng ở tỉnh Lào Cai.

Hướng dẫn đáp án chi tiết  

ĐỌC – HIỂU

Câu 1:

Trong đoạn văn bản trên, tác giả đã sử dụng những từ ngữ phong phú để nói về hạt ngọc trai: hạt cát; một hạt bụi biển xâm lăng vào vở trai, lòng trai; cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai; cái hạt buốt sắc; hạt cát từ đâu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình; hạt đau hạt xót; hạt cát khối tình con; một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.

Câu 2:

Các cụm từ “Tôi nhìn…”,“Giờ tôi mới biết rằng…”,“Tôi đã lấy cách nhìn”…
nêu lên đặc điểm về cái tôi của tác giả được thể hiện trong đoạn trích là: cái tôi chịu khó quan sát, trải nghiệm, suy tưởng.

Câu 3:

Câu văn thể hiện: Quá trình thâm nhập, tích lũy vốn sống, vốn văn hóa sẽ giúp nhà văn tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, ý nghĩa.

Câu 4:

Thông điệp được tác giả gửi gắm qua văn bản trên là: khẳng định cái Đẹp trong cuộc sống không ngẫu nhiên mà là kết quả của quá trình nỗ lực, sáng tạo, khổ đau âm thầm.

Câu 5:

– Về hình thức, học sinh cần viết đúng hình thức đoạn văn, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

–  Về nội dung cần đảm bảo những ý sau:

+ Kiên nhẫn giúp con người có ý chí bền bỉ hơn để theo đuổi mục tiêu, ước mơ, lí tưởng mà bản thân mình đề ra.

+ Kiên nhẫn giúp con người xử lí những vấn đề bất ngờ một cách tốt hơn, hợp lí hơn, điềm tĩnh, sáng suốt hơn…

VIẾT (4,0 điểm)

* Mở bài: Giới thiệu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nêu rõ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội.

– Lễ hội Đền Thượng ở Lào Cai là nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng.

– Lễ hội Đền Thượng nhằm tôn vinh và tưởng nhớ đến công đức của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

* Thân bài:

– Nguồn gốc, thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội:

+ Lễ hội Đền Thượng (còn gọi là Lễ hội làng Lão Nhai), tổ chức gắn với Đền Thượng (hay còn gọi là đền Lão Nhai), nằm trên đồi Hỏa Hiệu (nay thuộc phường Lào Cai, thành phố Lào Cai).

+ Lễ hội ĐềnThượng được tổ chức hàng năm vào ngày 13, 14, 15 tháng Giêng Âm lịch.

+ Đền Thượng Lào Cai thuộc phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

– Các công việc chuẩn bị cho lễ hội:

+ Đội tế

+ Đoàn rước

+ Các lễ vật

+ Các tiết mục biểu diễn, trò chơi

+ Các sản vật…

– Diễn biến của lễ hội

+ Phần lễ:

Lễ tế diễn ra vào chiều ngày 14 tháng giêng tại sân chính của Đền Thượng. Kết thúc lễ tế, nhân dân vào dâng hương để tưởng nhớ, tạ ơn công đức của Ngài đối với đất nước và nhân dân trăm họ. Lễ rước diễn ra vào sáng ngày chính hội (tức ngày 15 tháng giêng), chỉ rước bài vị và áo mũ của Ngài vì đây là ngôi đền thờ vọng Đức Thánh Trần.

+ Phần hội:

Phần hội có các sinh hoạt văn hóa, các trò chơi truyền thống.

+ Ngoài ra, người dân mang đến lễ hội ẩm thực riêng của các dân tộc thiểu số, các loại cây dược liệu đặc sản vùng miền, như thảo quả, hoa hồi, quế, atiso… Lễ hội Đền Thượng còn tổ chức hội chợ trưng bày và bán các đặc sản địa phương.

– Ý nghĩa của lễ hội

Lễ hội Đền Thượng là một trong những lễ hội lớn của tỉnh Lào Cai, góp phần giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy truyền thống uống nước nhớ nguồn, niềm tự hào dân tộc về tinh thần chống giặc ngoại xâm của các dân tộc nơi mảnh đất biên cương địa đầu của Tổ quốc.

* Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng được thuyết minh.

–  Lễ hội Đền Thượng không chỉ khơi dậy truyền thống uống nước nhớ nguồn mà còn là nơi gặp gỡ và tôn vinh giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc ở Lào Cai, tăng cường tinh thần đoàn kết các dân tộc.

– Lễ hội cũng là dịp đẩy mạnh phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh con người và du lịch của Lào Cai.

Bài viết tham khảo:

Lễ hội Đền Thượng ở Lào Cai là nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng. Lễ hội Đền Thượng được tổ chức thường niên ở tỉnh Lào Cai. Đây là ngày để người dân bày tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ đến công đức của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Lễ hội Đền Thượng (còn gọi là Lễ hội làng Lão Nhai), tổ chức gắn với Đền Thượng (hay còn gọi là đền Lão Nhai), nằm trên đồi Hỏa Hiệu (nay thuộc phường Lào Cai, thành phố Lào Cai). Lễ hội nhằm tôn vinh và tưởng nhớ đến công đức của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Vào giữa thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông áp sát vùng Thủy Vĩ – Quy Hóa, phái quân do thám giả danh lái buôn thâm nhập vào Lào Cai. Tháng Chín năm Đinh Tỵ, Trần Quốc Tuấn được vua Trần Thái Tông hạ chiếu phong giữ chức Tiết chế cùng tả hữu tướng quân lên phòng thủ biên cương. Nhờ chủ trương đúng đắn, quân ta đã chiến thắng. Để tưởng nhớ công ơn của các vị tướng tài có công, sau này, nhân dân đã xây dựng đền thờ Đức Thánh Trần và các tướng lĩnh của ông ở đồi Hỏa Hiệu và hàng năm tổ chức lễ hội vào ngày 13, 14, 15 tháng Giêng Âm lịch. Trước khi được di chuyển lên vị trí hiện nay tại phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Đền Thượng chỉ là một ngôi đình nhỏ nằm ở chân đồi Hỏa Hiệu thờ Đức Thánh Trần và các vị tướng lĩnh của ông. Cuối năm 1991, chính quyền địa phương và nhân dân đã tiến hành trùng tu, tôn tạo Đền Thượng. Năm 1996, Đền Thượng được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia, lễ hội được phục hồi. Từ năm 2001, lễ hội Đền Thượng được duy trì đều đặn cho đến nay.

Việc chuẩn bị cho lễ hội Đền Thượng rất chu đáo. Đội tế nam và đội tế nữ bắt đầu luyện tập từ tháng 8 – 9 năm trước, là các cụ cao niên đức độ, có uy tín trong cộng đồng, thuộc nhiều phường xã trong thành phố. Riêng chủ tế phải có giọng nói khỏe, dứt khoát và truyền cảm để đọc văn tế thần (được các cụ cao niên trong Hội người cao tuổi chuẩn bị từ trước đó). Bên cạnh việc học các nghi lễ tế theo lối cung đình cổ truyền, các thành viên đội tế nữ phải thông thạo một số điệu múa và sử dụng các nhạc cụ tạo âm thanh, tuân theo những quy chuẩn nhất định. Đoàn rước trong lễ hội khoảng hơn 200 người, phụ trách việc rước cờ, đánh trống, đội bát âm, rước bát bửu, lọng, bê mâm lễ, khiêng kiệu, võng, đội tế, cộng đồng tham gia lễ hội. Các lễ vật trong lễ hội Đền Thượng được nhà đền chuẩn bị trước khoảng một tuần, gồm: gà trống, lợn đực khỏe mạnh, có màu lông đẹp, rượu, gạo nếp, hoa quả… Các nghi lễ tế, lễ dâng hương trong lễ hội Đền Thượng được thực hiện tại sân đền, không gian thiêng của lễ hội.

Lễ hội Đền Thượng gồm có hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ tế diễn ra vào chiều ngày 14 tháng Giêng tại sân chính của Đền Thượng. Kết thúc lễ tế, nhân dân vào dâng hương để tưởng nhớ, tạ ơn công đức của Ngài đối với đất nước và nhân dân trăm họ. Lễ rước diễn ra vào sáng ngày chính hội (tức ngày 15 tháng giêng), chỉ rước bài vị và áo mũ của Ngài vì đây là ngôi đền thờ vọng Đức Thánh Trần.

Sau phần lễ là phần hội. Tại sân hội, trên khán đài diễn tích trò cảnh chiến đấu của dân binh Đại Việt dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương và ca ngợi công lao của Ngài với vùng đất Lào Cai. Phần hội còn có các sinh hoạt văn hóa như: biểu diễn múa chuông, múa cầu mùa của người Dao; điệu múa khèn, múa ô, biểu diễn thổi kèn lá của người Mông; múa quạt, hát dân ca của người Giáy… Các trò chơi truyền thống của một số dân tộc anh em như: ném còn, đi cà kheo, chơi đu, đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ… Ngoài ra, người dân mang đến lễ hội ẩm thực riêng của các tộc người như: cơm lam, xôi màu, lạp xưởng, thịt lợn hun khói bếp, thịt trâu gác bếp, bánh chưng đen, phở chua,… và các loại cây dược liệu đặc sản như thảo quả, hoa hồi, quế, atiso,… Đặc biệt, món thắng cố của người Mông thu hút khách hành hương thưởng thức. Lễ hội Đền Thượng còn tổ chức hội chợ trưng bày và bán các đặc sản địa phương.

Lễ hội Đền Thượng là một trong những lễ hội lớn của tỉnh Lào Cai, góp phần giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy truyền thống uống nước nhớ nguồn, niềm tự hào dân tộc về tinh thần chống giặc ngoại xâm của các dân tộc nơi mảnh đất biên cương địa đầu của Tổ quốc.

          Lễ hội Đền Thượng không chỉ khơi dậy truyền thống uống nước nhớ nguồn mà còn là nơi gặp gỡ và tôn vinh giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc ở Lào Cai, thắt chặt tinh thần đoàn kết các dân tộc. Lễ hội nhằm giữ gìn, phát huy các di sản văn hóa truyền thống của cha ông, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội cũng là dịp đẩy mạnh phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh con người và du lịch của Lào Cai.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *