Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc- Tố Hữu, Bài văn mẫu 5

Văn mẫu lớp 12

Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc- Tố Hữu

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng…

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Bài văn mẫu số 5

Nhắc đến Tố Hữu người đọc nhớ ngay đến là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông là một người luôn gắn bó với quê hương, đất nước và cách mạng Việt Nam. Những bài thơ của ông chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bài thơ “Việt Bắc” chính là một trong những bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng ấy. Xuyên suốt bài thơ chính là tâm trạng bâng khuâng lưu luyến không nỡ rời xa giữa người cán bộ cách mạng về xuôi với những người đồng bào ở lại, những kỉ niệm và tình quân dân núi rừng Việt Bắc. Tiêu biểu và cũng chính là đặc sắc nhất chính là tám câu thơ đầu:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

– Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Với lối đối đáp, cách xưng hô “mình-ta” gợi sự gần gũi thân thuộc, gắn bó thủy chung, nghĩa tình và sắt son. Người ở lại hỏi người cách mạng về xuôi, liệu khi họ về đến đất  thủ đô Hà Nội có cuộc sống đầy đủ, tiện nghi và sung túc thì những người cán bộ về xuôi có nhớ đến những người đồng bào nơi đây. Nhớ đến “ mười lăm năm” gắn bó cùng nhau, để cùng làm cách mạng. Nhớ đến những kỉ niệm trên chặng đường hành quân đầy gian lao và thử thách. Có thể nói đây như một lời khẳng định của những người ở lại dù cho những người cán bộ cách mạng có về đến đất thủ đô Hà Thành thì những kỉ niệm về tình nghĩa quân dân, về những chặng đường hành quân gian khổ với thiên nhiên và núi rừng Việt Bắc, nó sẽ trở thành một quá khứ, một bản trường ca về cách mạng mà họ sẽ không bao giờ quên. Nhớ về “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Sống trong gian khổ nhưng họ vẫn nuôi ý chí quyết tâm vượt qua gian khổ hay “miếng cơm chấm muối chăn sui đắp cùng”  về tình nghĩa họ luôn yêu thương, đoàn kết và gắn bó với nhau suốt mười lăm năm gian khổ.

Những dong tâm tư cảm xúc của những người ở lại tiếp tục được tuôn trào với câu hỏi tu từ đầy ý nghĩa

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Lại một lần nữa những người ở lại hỏi người ra đi. Khi họ về với Hà Nội nhộn nhịp phồn hoa liệu họ còn nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc và con người Việt Bắc. Nhớ đến cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những người chiến sĩ cách mạng. Cây và sông đã trở thành điểm gợi để những người cán bộ cách mạng về xuôi nhớ về thiên nhiên, núi rừng nơi đây cũng như nhớ về nguồn cội của cuộc kháng chiến. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại tô đậm cảm xúc toàn khổ thơ. Đó là một nỗi nhớ thương da diết sâu nặng, đó là một nỗi nhớ như nhớ người yêu “bổi hổi bồi hồi”. Điệp từ “nhớ” đi cùng điệp từ “mình” và “nhìn” giúp cho câu thơ trở nên có vần nhịp điệu và sâu lắng hơn. Núi rừng Việt Bắc không chỉ đẹp và hùng vĩ mà còn là nơi cung cấp lương thực cho cán bộ cách mạng trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ. Đồng thời câu thơ còn là lời khẳng định gắn bó thủy chung son sắt với truyền thống trở về cội nguồn của tổ tong. Câu thơ đưa chúng ta hồi tưởng câu thành ngữ “uống nước nhớ nguồn” đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta không thể nào quên. Nó sẽ vẫn được giữ gìn và phát huy mãi mãi từ đời này sang đời khác.

Nếu như bốn câu thơ đầu là câu hỏi tu từ cùng những lời giãi bày của người ở lại thì sang đến  hai câu thơ tiếp theo chính là những dòng cảm xúc bang khuâng, lưu luyến của một khung cảnh chia tay đầy nhớ thương của người ra đi

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

Các từ láy “bang khuâng”, “bồn chồn” gợi lên một tâm trạng chia tay đầy thương nhớ tha thiết, lưu luyến, bịn rịn. Còn đối với từ láy “tha thiết” đưa người đọc hình dung đến một khung cảnh chia tay đầy ắp nỗi nhớ tha thiết. Nỗi buồn khắc khoải, giờ phút chia tay đã đến những người cách mạng về xuôi sắp phải rời xa mảnh đất và con người Việt Bắc. Dường như mọi cảnh vật và thiên nhiên nơi đây muốn níu giữ lại thời gian, không muốn những người cách mạng rời xa Việt Bắc. Chưa xa đã nhớ, người cách mạng mới chuẩn bị về Hà Nội thôi nhưng những người dân đồng bào nơi đây và thiên nhiên nơi đây, có thể tưởng tượng về một bầu không khí trống vắng khi không có những người chiến sĩ cách mạng. Đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng có thể hiểu đó là tiếng của những người đồng bào nơi đây hoặc đó cũng chính là tiếng những người chiến sĩ cách mạng về xuôi. Mọi không gian, mọi cảnh vật đều như muốn níu giữ những cán bộ cách mạng. Để rồi mang trong họ là tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến đến từng bước đi. Đọc đến đây ta như trở về với khung cảnh chia tay nhớ thương lưu luyến ấy. Không chỉ những người ở lại và những người ra đi mới nhớ thương, lưu luyến, bồn chồn mà chính những tâm trạng ấy đã lan tỏa vào tận đến trái tim mỗi độc giả. Khiến người đọc cũng cảm thấy nhớ thương bịn rin vô cùng.

ở mỗi một cuộc chia tay, đều có những món quà, nhựng kỉ vật đi kèm và ở khung cảnh chia tay giữa những người cán bộ cách mạng về xuôi và những con người thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc này cũng vậy cũng có những kỉ vật , những món quà của thiên nhiên và con người Việt Bắc.

“Áo chảm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói già hôm nay”

“Áo chàm” đã trở thành món quà, kỉ vật của mười lăm năm gắn bó tình nghĩa thủy chung. “Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ để nói lên khung cảnh chia tay này. Áo chàm vốn là một trong những trang phục truyền thống của những con người nơi đây. Giờ nó đã trở thành những kỉ vật không thể nào quên giữa kẻ ở và người đi. Khung cảnh chia tay càng trở nên buồn hơn bao giờ hết khi họ không thể nói nên lời chỉ biết cầm tay nhau. Đây là một chi tiết vô cùng đặc sắc trong 8 câu thơ trên. Bởi đến những giờ phút chia tay nỗi nhớ, nỗi buồn, những kỉ niệm tình quân dân, những kỉ niệm với thiên nhiên nơi đây. Tình cảm quân dân gắn bó nghĩa tình chung thủy, song tất cả trở thành hành động “cầm tay nhau”, cầm tay nhau mà không nói nên lời kết hợp đọc đáo với dấu chấm lửng ở cuối câu thơ như muốn thể hiện nhiều điều muốn nói, nhiều tâm sự hơn nữa nhưng chỉ có người ở lại và người ra đi mới có thể hiểu được. hay đây cũng chính là một câu thơ khơi dậy những suy nghĩ về khung cảnh chia tay trong lòng người đọc.

Đoạn thơ không chỉ thể hiện thành công nội dung mà còn đọc đáo ở nghệ thuật. Đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, thể thơ lục bát, cách đối đáp xưng hô mình –ta. Ngôn từ hình ảnh giản dị mộc mạc, giàu sức gợi góp phần xây dựng nên một khung cảnh chia tay vô cùng đặc biệt với nỗi nhớ thương tha thiết, lưu luyến mà không một bài thơ nào có.

Khép lại khổ thơ trên trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu đã góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về một quá khứ hào hùng, về một bản hùng ca, về lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là tình cảm gắn bó thủy chung son sắt. là tâm trạng bâng khuâng lưu luyến và khung cảnh chia tay đầy ắp nỗi nhớ về tình cảm gắn bó quân dân và thiên nhiên nơi đây. Bài thơ sẽ luôn động lại trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta cho đến tận hôm nay và mai sau.

Xem thêm : Tuyển tập những bài văn mẫu về Việt Bắc : Việt Bắc

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *