Cảm nhận đoạn thơ thứ 3 trong bài Tây Tiến của Quang Dũng

Văn mẫu lớp 12

Cảm nhận khổ thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng?

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài văn mẫu số 6

Mở bài về bài thơ Tây Tiến

Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta không thể không nhắc đến Quang Dũng-Một nhà thơ tài hoa được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng”. Trong thơ Quang Dũng người đọc ấn tượng nhất khi khắc họa bức chân dung người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa lẫm liệt, kiêu hùng vừa hào hoa lãng mạn thể hiện qua đoạn thơ

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Thân bài

Giới thiệu  hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến

Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt.  Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.

Phân tích khổ 3 bài Tây Tiến

Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội mà thơ mộng mĩ lệ của núi rừng Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài về người lính Tậy Tiến hiện lên vừa oai phong lẫm liệt, vừa lãng mạn hào hoa bằng bút pháp lãng mạn mà vẫn rất chân thực:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ mở đầu đã tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc về vẻ đẹp bi tráng.  Cái bi thương ấy gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá.  Không phải là một người mà là cả một đoàn quân kì dị. Đoàn quân kì dị ấy lại được khắc họa bằng cái nhìn gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết “không mọc tóc”, “xanh màu lá” là hiện thực mà người lính Tây Tiến phải trải qua.Theo lời kể của Quang Dũng thời kì đó bộ đội ta phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà và dễ dàng trong sinh hoạt. Nhưng  nguyên do  quan trọng hơn cả chính là hậu quả của những ngày hành quân vất vả, đói rét, sốt rét rừng, những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”

Hay trong thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta cũng không khó để bắt gặp những vần thơ:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

Bên cạnh hình ảnh bi thương chính là vẻ đẹp  hào hùng của những người lính Tây Tiến được thể hiện trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập giữa thân hình ốm yếu  và tâm hồn bên trong làm nên khí chất, tư thế của người lính “dữ oai hùm” cho thấy người lính lạc quan, coi thường gian khổ, hiên ngang xung trận, oai phong, lẫm liệt,  toát lên cốt cách, khí phách hào hùng. Ngay cả khi đánh giáp lá cà với kẻ thù hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp làm chủ núi rừng, chế ngự khó khăn, vượt qua gian khổ.

Ẩn đằng sau ngoại hình  ấy là một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong gian khổ nhưng những người lính Tây Tiến vẫn luôn “mắt trừng” đó là đôi mắt mở to nhìn thẳng kẻ thù, thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy như miêu tả cả sự phẫn nộ đối với kẻ thù, là đôi mắt của nội tâm sục sôi chiến đấu. Đôi mắt ấy còn “mộng qua biên giới”, đó là giấc mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến thắng, của hòa bình. Không chỉ vậy mà đôi mắt ấy còn có tình, thao thức nhớ về Hà Nội nơi có hình ảnh “dáng kiều thơm” trong mộng và mơ. Những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi non sông mà còn vô cùng hào hoa, lãng mạn.  Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều, làm giảm tinh thần chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh giấc “mộng” và “mơ” như tiếp thêm sức  mạnh cho người lính Tây Tiến. Đó cũng chính là vẻ đẹp của một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc. Chính quê hương là động lực sức mạnh giúp người lính vượt qua khó khăn, là sợi dây thiêng liêng  của niềm tin mang họ vượt bao khó khăn bom đạn trở về với quê hương. Chẳng thế mà bài thơ “Đợi anh về” của Xi-mô-nốp trở thành bài thơ được nhắc nhiều đến vậy trong thời kì khỏi lửa. Đâu chỉ thế  trong bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ cũng từng viết:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Điều đặc biệt hơn những chàng trai Hà Thành trong đoàn quân Tây Tiến ấy họ ra đi không chỉ bằng trách nhiệm công dân mà còn cả lí tưởng của những chàng trai gác bút nghiên cầm súng vì lí tưởng. Những chàng trai ấy là những học sinh, sinh viên, nghệ sĩ họ lên đường bằng khát vọng tuổi trẻ, khát vọng của hòa bình cho những “dáng kiều thơm”. Tình yêu ấy đáng để mỗi chúng ta trân trọng và ngưỡng vọng trong mọi thời đại.

Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến còn là lí tưởng trong những chàng trai  mười tám đôi mươi:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Với việc  sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ”  đã gợi không khí cổ kính,trang trọng về nơi xa xôi của tổ quốc. Khác với những nhà thơ cùng thời, Quang Dũng khi nói về chiến tranh đã dám  nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết, không né tránh hiện thực.  Trong chặng đường hành quân gian khổ đã có những người lính ngã xuống. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên trên đường hành quân. Khi miêu tả cái bi thương ấy nhà văn lại nâng đỡ lên bằng đôi cánh lí tưởng, lãng mạn “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là bao ước vọng đang đón chờ mỗi người phía trước. Vậy nhưng với họ không có gì quý giá bằng độc lập, tự do của Tổ quốc. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi và cống hiến.  Đó là lí tưởng quên mình vì tổ quốc, dữ dội như lời thề sông núi. Đó là vẻ đẹp thời đại “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đúng như Trần Lê Văn đã nhận xét “ Tây Tiến phảng phất nét buồn, nét đau, nhưng buồn đau mà không  hề bi lụy” .  Và Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên nói rất cảm động sự hi sinh của những con người vô danh ấy để rồi hơn hai mươi năm sau trong kháng chiến chống Mĩ Nguyễn Khoa Điềm đã viết

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

(Trích “Đất Nước”))

“Chiến trường” khốc liệt mà câu thơ nghe sao bình tĩnh quá, có chút ngạo nghễ khinh đời để rồi hai từ “ chẳng tiếc” mang vẻ bất cần cho “ đời xanh”. Tuổi trẻ ai chẳng cần cho mình khát vọng tình yêu, thanh xuân thơ mộng. Họ hiểu lắm, biết lắm vẻ đẹp của “ đời xanh” nhưng chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng thiêng liêng.

Chính lí tưởng thiêng liêng cao quý ấy của những người lính mà hi sinh của họ cũng thật cao đẹp

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông mã gầm lên khúc độc hành”

Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Quan Dũng từng trải lòng về câu thơ trên “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là nói theo cách của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Sự khắc nghiệt của chiến trường, sự khó khăn gian khổ trong chiến đấu, vậy mà khi ngã xuống câu thơ sao mà nghe nhẹ nhàng đến vậy. Không phải là ngã xuống, không phải là chết mà đơn giản là “anh về đất”. Mỗi chúng ta ai chẳng sinh ra từ đất mẹ Xi –ta, ai chẳng từ luống cày mà lớn lên. Vậy nên giờ đây các anh chỉ là đang ngủ một giấc thật dài, thật bình yên bên đất mẹ dịu dàng và ấm áp. Câu thơ với biện pháp nói giảm nói tránh đã tạo cho câu thơ bi mà không lụy ý ,thơ mang đến một cảm giác vĩnh hằng, là thế giới của:

“Những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về”

(Nguyễn Đình Thi)

Để rồi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, con sông Mã cũng chính là nhân chứng của lịch sử, người bạn đồng hành của những người lính Tây Tiến. Và giờ đây con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc tráng ca tiễn biệt người lính Tây Tiến vào cõi vĩnh hằng hòa cùng muôn ngàn âm thanh của sống núi, trường tồn trong khúc bi tráng của sông Mã. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt đã gợi không khí tôn nghiêm,trang trọng hi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa  lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn.

Đánh giá chung

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Kết bài cho bài thơ Tây Tiến

Khổ thơ trên trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính. Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã gây nên ân tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng của tác phẩm.

Xem thêm : Những bài văn mẫu phân tích Tây Tiến của Quang Dũng : Tây Tiến

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *