Phân tích nét đặc sắc về nội dung nghệ thuật bài Mạch nguồn đất mẹ’’ của Nguyễn Thị Thu Hà

Văn mẫu lớp 10

 

 

Phân tích nét đặc sắc về nội dung nghệ thuật của bài thơ:

MẠCH NGUỒN ĐẤT MẸ

Giếng làng có tự ngàn xưa

Bậc đá mòn lòa xòa bụi cỏ

Cụm bèo ong dập dềnh trước gió

Mắt giêng trong in bóng mây trời

 

Giếng giữ trong lòng lịch sử quê tôi

Người phụ nữ chân trần gánh nước

Đòn gánh tre oằn trong cơ cực

Để mạch nguồn thổn thức dưới lòng khơi

 

Giếng bao đời vẫn thế giếng ơi

Sau vòm đa xanh là khoảng trời lặng lẽ

Con bống xưa giỡn trăng vàng quẫy nhẹ

Những vòng trăng theo sóng nước loang xa

 

Tôi trở về bên giếng nước gốc đa

Cầm chiếc gàu múc lại thời thơ bé

Nước mát ngọt từ mạch nguồn đất mẹ

Tôi uống vào lòng cả mảng hồn quê.

                                            2017, Nguyễn Thị Thu Hà

 

GỢI Ý

Mở bài

– Dẫn dắt. Bàn về thiên chức của thơ ca, Nguyễn Đăng Mạnh từng khẳng định “Thơ ra đời cốt để nói những điều sâu kín, mơ hồ nhất của tâm hồn con người”. Với trái tim nhạy cảm, tâm hồn tinh tế, lắng nghe những rung động của cuộc đời, nhà thơ đã diễn tả những cung bậc sắc thái mong manh trong thế giới nội tâm con người cũng như vẻ đẹp của cuộc đời.

– Giới thiệu tên tác giả, tác phẩm. Qua bài thơ “Mạch nguồn đất mẹ’’ của Nguyễn Thị Thu Hà, ta đã thấy được tình yêu quê hương đồng thời cũng thể được nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả.

Thân bài

2.1. Khái quát chung

– Dẫn dắt. Ai đó đã từng nói: “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”, qua thi phẩm ta có thể cảm nhận được tâm hồn đầy đẹp đẽ thanh cao của Nguyễn Thị Thu Hà.

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Nguyễn Thị Thu Hà là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Với phong cách thơ nhẹ nhàng du dương, thấm đượm tình yêu quê hương làng xóm thì “Mạch nguồn đất mẹ”- thi phẩm đã là nên tên tuổi của bà trong lòng độc giả. Thi phẩm đã thể hiện được tình yêu nỗi nhớ của tác giả dành cho quê hương, xóm làng.

2.2. Phân tích

Khổ thơ đầu

– Dẫn dắt. “Thơ cần có hình co người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và có tình để rung động trái tim”.

– Phân tích. Nội dung của thi phẩm được thể hiện bằng hình ảnh “giếng” đầy quen thuộc của làng quê Việt Nam:

“Giếng làng có tự ngàn xưa 

                                                Bậc đá mòn lòa xòa bụi cỏ 

                                                Cụm bèo ong dập dềnh trước gió 

                                                Mắt giếng trong in bóng mây trời’’ 

+ Khổ thơ đầu mở đầu bằng hình ảnh “giếng”, đây là một hình ảnh gắn liền với cuộc sống làng quê lưu giữ những kỉ niệm khi ta thơ bé, là nơi chứng kiến ta trưởng thành. Ta cũng từng bắt gặp hình ảnh của chiếc “giếng” trong tác phẩm “Đồng Chí” :

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

+ Bằng việc sử dụng hình ảnh “bậc đá” kết hợp với tính từ “mòn” cùng phép đảo ngữ “lòa xòa bụi cỏ”, Nguyễn Thị Thu Hà đã vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh của chiếc giếng cũ kĩ có từ “ngàn xưa” cùng với những bậc đá mòn với những nhúm cỏ mọc chen chúc nhau. Qua đó ta như thấy được sự gắn bó của chiếc giếng đối với quê hương của tác giả. Nó như nhân chứng, chứng kiến sự thay đổi của vạn vật, từ ngày lập làng đến tận bây giờ.

+ Những câu thơ tiếp theo tác giả lại viết:

                                             “Cụm bèo ong dập dềnh trước gió 

                                               Mắt giếng trong in bóng mây trời” 

Hình ảnh “cụm bèo ong” kết hợp với từ láy “dập dềnh” , tác giả vô cùng tài tình khi sử dụng cái động diễn tả cái tĩnh, từ đó đã diễn tả sự chuyển động, sóng sánh của nước khi có cơn gió nhẹ nhàng thổi ngang qua. Qua đó, ta như thấy được sự yên bình thanh thản của xóm làng. Hình ảnh “mắt giếng trong” là một  hình ảnh thơ vô cùng độc đáo . Ta có thể hiểu “mắt giếng” ở đây  có thể là hình ảnh của chiếc giếng nhỏ được nhìn từ trên cao xuống, in bóng mây trắng, trời xanh. Bằng việc sử dụng hình ảnh thơ đầy quen thuộc, gần gũi “giếng, bậc đá, cụm bèo ong” cùng các tính “trong, mòn” kết hợp với từ láy “dập dềnh” cùng các biện pháp nghệ thuật độc đáo, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh làng quê bình dị, yên ả, gần gũi và đầy thân thuộc.

Khổ thơ thứ 2

– Dẫn dắt. Shelly từng nói: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời thành bất tử”. – Phân tích. Và hình ảnh “giếng” trong thi phẩm của Nguyễn Thị Thu Hà đã đi vào lịch sử:

“Giếng giữ trong lòng lịch sử quê tôi”

+ Câu thơ mở đầu. Khổ thơ với vỏn vẹn bốn câu đã thành công khắc họa được sự gắn bó, liên quan đầy mật thiết của giếng đối với quê hương của tác giả. Nó như một nhân chứng sống của lịch sử, xóm làng. Qua cụm từ “giữ trong lòng”, tác giả như nhấn mạnh về sự khăng khít dài lâu của chiếc giếng. Trong lòng lịch sử của thời gian, giếng đã chứng kiến sự ra đi mất mát, chứng kiến sự khó khăn gian khổ, sự chia li hội họp. Cũng chính vì thế mà tác giả đã dành một khổ thơ riêng để nhấn mạnh tấm quan trọng và mối quan hẹ mật thiết của giếng đối với đời sống của người dân.

+ Ba câu tiếp: Hình ảnh người phụ nữ chân trần được tô đậm

“Người phụ nữ chân trần gánh nước 

                                           Đòn gánh tre quằn trong cơ cực 

                                           Để mạch nguồn thổn thức dưới lòng khơi“ 

Thành công của tác giả khi sử dụng hình ảnh “người phụ nữ chân trần” đang phải gánh nước kết hợp với hình ảnh “đòn gánh tre” cùng động từ “quằn”, đã cho ta thấy được sự đói khổ thiếu thốn. Người phụ nữ bước từng bước nặng nhọc, gánh từng đòn nước nặng để nuôi sống gia đình, nuôi sống các con của mình. Hình ảnh “đòn gánh tre quằn trong cơ cực ”như thể hiện ý chí, nghị lực mãnh liệt, quằn lên để chống lại sự đói khổ thiếu thốn. Chính điều đó khiến cho:

                                           “Để mạch nguồn thổn thức dưới lòng khơi” 

Bằng việc sử dụng hình ảnh “mạch nguồn” kết hợp với từ láy “thổn thức”- tâm trạng xúc động bị đè nén, tác giả đã cho ta thấy được tình cảm thái độ của mạch nguồn trước khung cảnh đói khổ. Nó buồn bã, thương xót cho số phận đầy khó khăn, nghèo túng của dân làng để rồi phải “thổn thức dưới lòng khơi”.Khổ thơ đã vô cùng thành công khi tác giả sử dụng những hình chân thực như: “người phụ nữ chân trần”, “đòn gánh tre” kết hợp với động “quằn” và phép nhân hóa “ mạch nguồn thổn thức” đã nhấn mạnh sự nghèo khó cơ cực của những người phụ nữ nói riêng và dân làng nói chung, đồng thời cũng  thể hiện sự thương xót, đồng cảm dành cho những số phận nghèo túng, éo le của tác giả.

Khổ thơ thứ ba.

– Dẫn dắt. Hình ảnh giếng làng trở lại rõ nét hơn

“Giếng bao đời vẫn thế giếng ơi 

                                              Sau vòm đa xanh là khoảng trời lặng lẽ 

                                              Con bống xưa giỡn trang vàng quẫy nhẹ 

                                              Những vầng trăng theo sóng nước loang xa 

 – Phân tích.

+ Mở đầu khổ thơ ta lại lần nữa bắt gặp hình ảnh “giếng” được lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với thán từ “ơi” đã thể hiện sự thân quen, gần gũi của tác giả đối với chiếc giếng quê hương. Sau bao năm xa quê hương, cho đến khi trở về chiếc giếng xưa vẫn còn đây, vẫn là bóng hình quen thuộc chất chứa bao kỉ niệm.

+ Ở câu thơ thứ hai ta đã bắt gặp hình ảnh “vòm đa xanh”. Đi đôi với “giếng” thì ảnh “cây đa” cũng là hình ảnh vo cùng gần gũi đối với làng quê Việt Nam. Cây đa cũng chính là linh hồn nhân chứng sống qua năm tháng, ghi lại từng nhịp, từng khắc của cuộc sống, của quê hương. Hình ảnh “khoảng trời lặng lẽ” ở đây không chỉ là khung cảnh của miền quê yên ả mà còn gợi ra khoảng lặng trong tâm hồn của tác giả. Tác giả lắng tâm mình lại, tránh xa khỏi những bề bộn của cuộc sống, những nỗi lo âu cơm áo gạo tiền để lại một lần nữa trở về những ngày thơ bé, được bà, được mẹ kể cho nghe những câu chuyện cổ tích với chú “cá bống” nhỏ.

+ Với hình ảnh “chú cá bống” kết hợp với các động từ “giỡn, quẫy” đã gợi ra khung cảnh chú cá nhỏ hồn nhiên tung tăng quẫy nước, làm cho bóng trăng loang thành những vòng xa.

Khổ thơ cuối

– Khép lại bài thơ là khung cảnh ngày tác giả trở lại quê hương:

“Tôi trở về bên giếng nước gốc đa

  Cầm chiếc gàu múc lại thời thơ bé

       Nước mất ngọt từ mạch nguồn đất mẹ

   Tôi uống vào cả mảng hồn quê”

– Phân tích.

+ Bằng việc sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” cùng với đông từ “trở về” và các hình ảnh thơ “giếng nước, gốc đa” đã cho ta thấy được sự trở về của tác giả. Sau bao  năm  cách xa quê hương, xóm làng thì giờ đây tôi đã trở về, hòa mình với giếng nước gốc đa thân thương kỉ niệm. Giếng nước, gốc đa là nơi lưu giữ quá trình trưởng thành của “tôi” nên khi “tôi” trở về bên chúng là trở về với tuổi thơ của bản thân mình- một tuổi thơ vất vả nhưng hạnh phúc, ý nghĩa:

                                          “Cầm lên chiếc gàu múc lại thời thơ bé 

                                            Nước mát ngọt từ mạch nguồn đất mẹ” 

+ “Tôi” trở lại quê hương, trở lại nơi chôn rau cắt rốn của mình, trở lại bên gốc đa giếng nước, đắm chìm vào kỉ niệm xưa. Vì thế mà “tôi” đã “múc lại thời thơ bé” của mình, thời mà mẹ phải gánh nước mưu sinh, thời mà bản thân vô ưu vô lo chạy nhảy trên những cánh đồng. Chính vì thế mà “tôi” cảm thấy “ngọt”. Vị ngọt ở đây không chỉ là vị ngọt của nước giếng mà đó còn là vị ngọt của tâm hồn khi được trử về quê hương, xóm làng sống lại những ngày thơ bé. Câu thơ cuối như lời tâm tình thủ thỉ:

“Tôi uống vào lòng cả mảng hồn quê” 

“Mảng hồn quê” ở đây có nghĩa là những mảng tâm hồn của quê hương nơi chứa đựng kỉ niệm tuổi thơ đầy thanh bình yên ả. Chính vị ngọt của tâm hồn, vị ngọt của quê hương đã khiến cho tác giả “uống vào lòng cả mảng hồn quê”.

Nghệ thuật thể hiện

– Dẫn dắt. Quả thực “bài thơ hay là bữa tiệc của ngôn từ”.

– Đặc sắc về nghệ thuật. Bằng việc sử dụng thể thơ tự do tạo tính nhạc cho cả bài thơ; ngôn ngữ thơ bình dị, thân thuộc; giọng điệu nhẹ nhàng tha thiết chất chứa tình cảm của tác giả “giếng bao đời vẫn thế giếng ơi”; kết hợp với các biện pháp nghệ thuật độc đáo: nhân hóa (“mắt giếng trong in bóng mây trời”), điệp từ,.. cùng các từ láy: “dập dềnh, thổn thức”; động từ:“quằn, trở về” cùng các hình ảnh thơ vô cùng chân thực, gần gũi: “giếng, gốc đa,….” đã góp phần thể hiện tình yêu hương đất nước, nỗi nhớ da diết của tác giả, đồng thời ta cũng cảm nhận được sự tài tình của tác giả trong từng câu thơ, bởi cái tài vì cái tâm mà bay lên, cái tâm vì cái tài mà tỏa sáng.

2.3. Đánh giá

– Dẫn dắt. Nghệ thuật là lĩnh vực dộc đáo đòi hỏi người viết phải có phong cách nổi bật tức là phải có nét gì đó, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.

– Khẳng định giá trị của bài thơ và tài năng sáng tác của nhà thơ. Bằng việc sử dụng thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ giàu tình cảm, hình ảnh thơ thân quen, gần gũi, cùng các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã thể hiện được nỗi nhớ quê hương cùng tình yêu quê hương, làm xóm, đồng thời cũng thể hiện được tài năng sáng tác độc đáo, thu hút độc giả của Nguyễn Thị Thu Hà.

Kết bài

Chế Lan Viên từng khẳng định: “Cái kết tinh của văn thơ là muối bể/ Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu”. Một thi phẩm chân chính luôn đọng lại những gì tốt đẹp nhất trong lòng đọc giả và “Mạch ngồn đất mẹ” là một tác phẩm như thế. Qua bài thơ, độc giả không khỏi xao xuyến trước khung cảnh làng quê bình dị và ngưỡng mộ tình yêu quê hương đất nước của bà.

Bài viết mẫu

Voltaire đã từng nói về cái thần kì của thơ : “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là tâm hồn cao cả và đa cảm”. Thật vậy, thơ đi sâu vào tâm hồn con người với những hu vọng và thất vọng, đau thương và hạnh phúc, hiện thực và ước mơ, tình yêu và khát vọng. Mỗi vần thơ tuy ngắn gọn nhưng có khả năng lay động mọi tâm hồn con người. Đặc trưng ấy của thơ ca ta có thể thấy rõ trong tác phẩm “Mạch nguồn đất mẹ ”. Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện vẻ đẹp yên bình nơi làng quê, qua đó thấy được tình cảm của tác giả với quê hương, đất nước.
Có người từng nói: “ Một nghệ sĩ đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra vĩnh viễn để lại một khoảng trống ”. Nguyễn Thị Thu Hà – con người được giao phó kí thác hiện thực đã để lại dấu ấn tâm hồn và tài năng của mình trong lòng độc giả. Nhà thơ thuộc thế hệ các nhà Thơ Mới. Giữa những năm tháng phát triển của thời kì Thơ Mới, tác phẩm “Mạch nguồn đất mẹ” xuất hiện như một nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học. Tác phẩm tái hiện vẻ đẹp khung cảnh nơi làng quê thật bình yên, nhẹ nhàng. Qua đó, tác giả bộc lộ tình cảm và tâm hồn của mình.

“Thơ cần có hình cho ta thấy, cần có ý cho ta nghĩ và có tình để rung động trái tim”. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh cái “ giếng”, một thứ quen thuộc đã có ở đây bao đời nay, chẳng biết rõ xuất hiện như thế nào, chỉ biết theo thời gian dần qua, chiếc giếng vẫn ở đó, vẫn ở làng. Những năm tháng gắn bó với làng quê nơi đây, bậc đá cũng đã mòn dần đi, bụi cỏ thì ngày càng “lòa xòa” trên “bậc đá mòn”. Những cơn gió ngày ngày, nhè nhè thổi qua vui đùa cùng  “cụm bèo ong” , dường như cơn gió thổi qua làm cho “cụm bèo ong”  trở nên vui tươi hơn, nó “dập dềnh” đáp lại sự đùa nghịch của cơn gió. Tuy đã gắn bó lâu dài với làng quê nơi đây nhưng giếng vẫn trong, vẫn in bóng trời mây. Làng quê nơi đây dường như đã coi giếng  là người bạn tự bao đời nay. Họ giữ gìn cho giếng sạch sẽ, coi trọng giếng còn giếng chứng kiến và giữ trong mình lịch sử nơi làng quê. Họ gắn bó với nhau như “tri kỉ” , giữ gìn lẫn nhau suốt bao đời. Viết về chiếc “giếng làng” , Hữu Thỉnh cũng từng viết:

“Giếng nước gốc đa nhớ người đi lính”

Giếng như một sự vật quen thuộc của người dân làng quê suốt bao đời nay, từ thời kì kháng chiến khó khăn đến lúc đất nước dành lại được hòa bình , giếng vẫn ở đó đồng hành cùng người dân. Các từ láy “lòa xòa”, “dập dềnh” cho ta thấy khung cảnh nơi đây đang có những chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, êm ả, một bức tranh thiên nhiên nơi làng quê yên bình với chiếc giếng quen thuộc. Nhưng trước khi có được yên bình như ngày nay, giếng đã chứng kiến biết bao thăng trầm, cơ cực của con người nơi đây.

Giếng làng đã chứng kiến biết bao nỗi vất vả của người dân nơi đây, đặc biệt là người phụ nữ:

“Người phụ nữ chân trần gánh nước

                        Đòn gánh tre quằn trong cơ cực

                        Để mạch nguồn thổn thức dưới lòng khơi ”

Người phụ nữ “chân trần” bước trên những “bậc đá mòn” hai bên còn “lòa xòa” những bụi cỏ để đi lấy nước. Tuy không diễn tả trực tiếp nỗi vất vả của người phụ nữ nhưng qua hình ảnh đòn tre “quằn” , ta thấy được thùng nước nặng biết nhường nào. Hình ảnh đòn gánh tre “quằn trong cơ cực” là hình ảnh nhân hóa,tác giả lấy hình ảnh đòn  tre để qua đó nói lên sự cơ cực, vất vả của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữa không còn là đề tài xa lạ trong văn học Việt Nam, nó vừa được thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ, vừa được bắt gặp trong các hình ảnh thơ, trong các hình ảnh văn chương. Như trong câu:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Ta thấy rõ hoàn cảnh, số phận của những người phụ nữ xưa, họ không được lựa chọn số phận của bản thân. Đến khi xã hội ngày càng phát triển hơn, người phụ nữ lại phải chịu cảnh một mình nuôi con, chờ chồng từ chiến trường trở về. Không một ngòi bút nào có thể diễn tả được hết những vất vả của người phụ nữ. Và rồi từ hình ảnh “đòn gánh tre”, tác giả muốn tái hiện lại hình ảnh người phụ nữa lúc bấy giờ. Để rồi nỗi vất vả ấy như được giếng làng nhìn thấy, cảm nhận được, mạch nguồn nơi đây cũng như cảm thông với hoàn cảnh của người phụ nữ, để rồi luôn “thổn thức” dưới lòng khơi. Từ “chân trần” kết hợp với biện pháp nghệ thuật nhân hóa “quằn”, “thổn thức” tác giả đã tái hiện nỗi vất vả, sự cơ cực của người phụ nữ, qua đó tác giả thể hiện sự xót thương với người phụ nữ.

Tuy qua bao đời, nhưng giếng vẫn giữ trong mình nét đẹp và giá trị riêng:

“ Giếng bao đời vẫn thế giếng ơi

                        Sau vòm đa xanh là khoảng trời lặng lẽ

                        Con bống xưa giỡn trăng vàng quẫy nhẹ

                        Những vòng trăng theo sóng nước lăn xa”

Câu thơ như lời tâm tình của người dành cho giếng. Qua bao nhiêu năm giếng vẫn chẳng hề đổi , vẫn đồng hành với mọi người, vẫn cho mọi người cảm giác quen thuộc nơi làng quê. Và sau vòm đa là khoảng trời lặng lẽ, dường như mọi thứ xung quanh cũng đang quan sát giếng làng hàng ngày và chẳng hề thấy nó thay đổi. Con cá bống vẫn “giỡn” cùng trăng, nó dùng đuôi “quẫy nhẹ”, khoảng trời lặng lẽ nơi đây dường như trở nên có sức sống hơn, vui nhộn hơn nhờ sự tinh nghịch của con “bống xưa”, vầng trăng vàng cũng bị nó đẩy theo sóng nước ra xa. Kết thúc dòng hồi tưởng của mình, nhân vật “tôi” quay trở về bên giếng nước gốc đa, nơi quen thuộc mà “tôi” đã gắn bó suốt thời thơ bé. “Tôi” cầm chiếc gầu múc nước ở giếng mà cảm tưởng như đang nhìn lại cả tuổi thơ mình nơi đây. Dòng nước mát ngọt của giếng làng chính là dòng nước nước của quê hương “tôi” , uống nước vào mà thấy mình như được chảy ngược về tuổi thơ, chảy ngược về quá khứ, như được hòa hồn mình vào hồn quê. Bằng sự đan xen miêu tả giữa quá khứ và hiện tại, tác giả đã tái hiện trước mắt người đọc bức tranh làng quê nơi đây với cái giếng quen thuộc, qua đó ta thấy nhà thơ là một người yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước và là một người có tâm hồn nhạy cảm, có cái nhìn tinh tế trước cảnh vật xung quanh.

Quả thật “Bài thơ hay là bữa tiệc của ngôn từ”. Sự sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Thị Thu Hà được thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ. Tác giả sử dụng linh hoạt các từ láy “lòa xòa”, “dập dềnh”, “lặng lẽ”, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, tất cả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên nơi làng quê với vật quen thuộc, gắn bó với cuộc sống người dân làng – cái giếng. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, tạo thêm phần độc đáo, sáng tạo trong bản hòa tấu văn chương thời đại này. Không chỉ vậy, cách ngắt nhịp linh hoạt cũng góp phần thể hiện tình cảm của tác giả, đó là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, còn là sự cảm thương với những người phụ nữ.

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy, nó đòi hỏi người viết phải có phong cách nổi bật, tức là phải có nét gì đó rất riêng, mới lạ trong tác phẩm của mình”. Bằng việc sử dụng các từ láy có giá trị gợi hình, kết hợp biện pháp nghệ thuật nhân hóa, bài thơ đã tái hiện khung cảnh thiên nhiên nơi làng quê, cái giếng gắn bó với biết bao kỉ niệm nơi đây và dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình. Để làm nên những trang thơ đậm hơi thở cuộc sống, đòi hỏi nhà thơ vừa phải có một tấm lòng gắn bó tha thiết với cuộc đời, vừa phải có một tài năng sáng tạo độc đáo, bởi lẽ cái tài nhờ có cái tâm mà bay lên, cái tâm nhờ có cái tài mà tỏa sáng.

Có người từng nói: “Nghệ sĩ là đám cuồng sĩ, chỉ với đám con chữ gió thổi bay mà dám ôm mộng lớn : Với kì trận chữ, đánh một canh bạc lớn với thời gian. Văn học từ thuở sơ khai cho đến nay đã có biết bao cuồng sĩ như thế. Họ vượt qua quy luật băng hoại của thời gian để trường tồn cùng năm tháng với những tác phẩm của mình.” Qua bài thơ “Mạch nguồn đất mẹ” nhà thơ đã gửi gắm tâm hồn, tình yêu mình vào thiên nhiên nơi làng quê, thả hồn mình với những kí ức bé thơ, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *