Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong phương thức phản ánh

Tài liệu Văn

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC

VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH

 

PHẦN MỞ ĐẦU

Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội đặc thù luôn vận động, biến chuyển. Diễn tiến của văn học như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành, tồn tại, phát triển qua các thời kì lịch sử. Bởi vậy có thể nói văn học là con đẻ của thời đại, mang nhịp đập, dáng dấp, hơi thở của thời đại. Nó là một phần da thịt của lịch sử. Nếu ví văn học như một dòng sông uốn mình theo chiều dài của lịch sử dân tộc thì những biến động từ bối cảnh lịch sử đã làm cho dòng sông ấy cuộn sóng, trào dâng lên những dòng chảy khác nhau và những dòng chảy ấy người ta gọi là Trào lưu văn học.n Đó như là những dòng lũ bề thế dâng lên với một tập hợp những tác giả, tác phẩm gần gũi về cảm hứng, tư tưởng, nguyên tắc miêu tả hiện thực… diễn ra, nổi lên trong một thời diểm nhất định của lịch sử rồi lại “ rút” đi.

Ở Việt Nam, các trào lưu văn học lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX. Trong giai đoạn 1930 – 1945 đã xảy ra biết bao sự kiện của lịch sử, xã hội thay đổi dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lí con người. Giai đoạn này cuộc sống con người bị đẩy vào “bước đường cùng”, nén chịu bao nỗi quằn quại dưới sự chà đạp của xã hội thực dân phong kiến. Xã hội đã dồn con người vào bế tắc, cùng quẫn. Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy văn học vươn mình, mang cho nó nhiều dạng vẻ, hương sắc. Và rồi nảy sinh nhiều trào lưu văn học khác nhau, nổi bật lên đó là các trào lưu văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn học cách mạng.

Lịch sử giai đoạn 1930 – 1945 đầy biến động, sau nhiều phong trào cách mạng không thành, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không có lí tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát li trong những tình cảm cá nhân. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ đấy. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hòa, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Đối với hiện thực xã hội, thái độ của nhà văn là thái độ chủ quan, họ nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những mộng tưởng của bản thân. Họ muốn thoát li đời sống, vượt ra khỏi thực tại thỏa sức dùng trí tưởng tượng bay bổng để đối lập hiện thực với ước mơ, lí tưởng nhằm chối bỏ thực tại.

Bên cạnh đó, văn học hiện thực như một lưỡi cày sâu, lật lên mặt trái của xã hội đương thời. Hiện thực cuộc sống với những lầm than cơ cực đã được phơi bày dưới những cây bút lực lưỡng như Ngô Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” ở đó ta thấy được những hủ tục nặng nề của nông thôn Việt Nam. Với “Tắt đèn”, người đọc thấy được một thứ tai họa khủng khiếp ỏ nông thôn, đó là những người dân bần cố nông phái điêu đứng, quằn quại trong sự đè nén vì sưu thuế. Đó còn là Vũ Trọng Phụng với tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay trong các tác phẩm như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”… “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”… bộ mặt xã hội Việt Nam cả thành thị lẫn nông thôn đã hiện lên một cách rõ nét.

“Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong phương thức phản ánh” là một hướng tiếp cận tuy không mới nhưng luôn có nhiều tranh luận. Trong chuyên đề này, chúng tôi chỉ chủ yếu đề cập tới phương thức phản ánh trên các phương diện: đề tài, chủ đề, cảm hứng, nhân vật của văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

 

PHẦN NỘI DUNG

 

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
  2. Chủ nghĩa lãng mạn – Lịch sử hình thành và đặc trưng cơ bản:

Chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm mang tính lịch sử. Từ rất lâu nó đã được sử dụng với tư cách là một trào lưu tư tưởng, thủ pháp biểu hiện và loại hình văn học. Nhưng chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu thì phải chờ tới cuối thế kỉ 18 đến những năm 30, 40 của thế kỉ 19, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh, Pháp, Nga… nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp châu Âu, tạo ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng lớn. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là loại hình văn học chủ yếu chỉ chủ nghĩa lãng mạn ở thời kì này.

Thời kì hưng thịnh nhất của chủ nghĩa lãng mạn là vào trước sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp, tức là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ 18 đến những năm 30 của thế kỉ 19. Sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa lãng mạn trong thời kì này hiển nhiên là do điều kiện chính trị xã hội lúc đó quyết định. Năm 1789 giai cấp tư sản Pháp lật đổ chính quyền phong kiến chuyên chế, lập nên sự thống trị của giai cấp tư sản, điều này làm dâng lên phong trào cách mạng dân chủ tư sản và phong trào giải phóng dân tộc ở khắp châu Âu. Đi liền với phong trào này là sự bấp bênh, hỗn loạn của hiện thực xã hội, lí tưởng của chủ nghĩa Khai sáng bị hủy diệt, sự thất vọng ăn sâu lan rộng trong xã hội. Cùng với nó, mong ước về một xã hội lí tưởng chân chính cũng trở thành tâm lí xã hội phổ biến, những điều này dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, mặc dù lí luận chủ nghĩa xã hội không tưởng với đại biểu là Xanh Ximong và Owen tuy không phải là lí luận khoa học, hoàn thiện nhưng tư tưởng xã hội tiêu biểu của nó là mong ước không tưởng về một xã hội giải phóng chân chính, cũng trở thành cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn.

Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỉ 18, yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác của Rousseau, nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt trong phong trào cách tân với đại biểu là Goethe, nghiên cứu về tính bi kịch, ngợi ca, vẻ đẹp đăng đối của Kant, Schiele; sự thưởng thức nghệ thuật bắt đầu bằng việc đặt nghệ thuật trong dòng phát triển lịch sử của Herder, Hegel… tất cả đã kích hoạt tư tưởng của con người, làm cho cảm nhận, lí giải của con người đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc hơn, từ đó yêu cầu nghệ thuật biểu hiện tinh thần vĩ đại và tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc…Tất cả những điều này đều có vai trò quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng, tạo thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự phản đối mãnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn.

Từ lãng mạn (romanticism, romantisme) xuất phát từ tình ca (romances) của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng… hoặc những bài ca mà người hát rong (trabadour) thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Có thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù, thiện cảm, ưu phiền… Georges Duhamel nhận xét: “Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca”. Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc…

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là tinh thần hướng về lí tưởng. Rất khác so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn hướng về và truy tìm lí tưởng với tinh thần vượt lên trên hiện thực, dùng lí tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con người nên có. Schiller nói sáng tác của mình là “lấy lí tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn”( Schiller bình truyện. Nxb Nhà văn, 1955, tr55). George Sand nói sáng tác của mình là “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa vào cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó”( George Brandes: Nhà văn Pháp bình truyện. Nxb Phụ vụ văn hóa quốc tế, 1951, tr2). Nhà tiểu thuyết người Đức Jean Paul nói: “Nếu như nói thơ là lời dự đoán, thì thơ lãng mạn chủ nghĩa chính là dự cảm tương lai, vĩ đại hơn sự bao dung của thế gian con người. Hoa của chủ nghĩa lãng mạn đã từng trôi dạt quanh chúng ta, giống như trước khi một đại lục mới được tìm thấy, giống như một loại hạt mà tất cả chúng ta chưa từng nhìn thấy sớm được nước biển đưa từ châu Mĩ đến bờ biển Na Uy”( Jean Paul: Nhập môn mĩ học. Xem: Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc,1981, tr354). Chủ nghĩa lãng mạn không truy tìm chân thực cuộc sống, chân thực chi tiết, mà dốc toàn lực biểu hiện lí tưởng. Như Michael trong tác phẩm Nữ hoàng Mab đã miêu tả một thế giới tuyệt đẹp với sự hòa thuận, thân ái, bình đẳng…, điều mà tác giả muốn biểu hiện chính là một thế giới lí tưởng. Trên một ý nghĩa nào đó, chủ nghĩa lãng mạn phù hợp hơn với bản chất của văn học, thỏa mãn hơn nhu cầu tranh đấu tự do, hướng tới hạnh phúc, truy tìm lí tưởng của con người.

Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lí tưởng nên hình tượng nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lí tưởng. Ví dụ như Quasimodo lương thiện, cao thượng dưới ngòi bút của V.Hugo; Jean Valjean vì lương tâm nhân tính mà bao lần không quản hiểm nguy cứu người, bao lần sáng tạo nên kì tích biến nguy thành an; Tôn Ngộ Không dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân có thể lên trời xuống biển, nhìn thấu ma quỷ, đối đầu với thần, truy đuổi yêu tinh, hô mưa gọi gió, làm theo ý mình, thượng đế long vương không biết phải làm như thế nào… tất cả đều là những hình tượng nhân vật lí tưởng. Van Tieghem nói về hình tượng nhân vật lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn như sau: “không nắm bắt tình huống nhiều hơn, đem so sánh loại hình tượng văn học này với hình tượng văn học xưa kia và đương thời trên vũ đài văn học là không chính xác…. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và những điều nó nói là một điển phạm nhưng không như nói là một điển hình; nó hướng tới thức dậy sự tán thành, hứng thú của độc giả chứ không phải là đưa ra đối tượng cần mô phỏng”( Lucien Levy-Bruhl: Lịch sử văn học Pháp thế kỉ 19. Nxb Nhân dân Thượng Hải, 1997, tr 26).

Cuộc sống lí tưởng mà chủ nghĩa lãng mạn hướng đến, truy tìm và nhân vật lí tưởng trong hiện thực cuộc sống đương thời là không tồn tại, nó đều xuất phát từ tâm hồn chủ quan của nhà văn. Bielinxki đã nói: “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới nội tâm chủ quan của con người, là cuộc sống bí mật của tâm hồn anh ta. Trong trái tim và tâm lí con người tiềm ẩn ngọn nguồn bí mật của chủ nghĩa lãng mạn”(Bielinxki bàn về văn học. Nxb Văn nghệ mới 1958, tr153). Marilyn Butler – nhà lịch sử văn học người Anh nói: “nghệ thuật nhìn từ trường phái lãng mạn chủ nghĩa là một ngọn đèn, hình tượng mà nó phát sáng không phải có nguồn gốc từ thế giới mà có nguồn gốc từ nhà thơ. Nghệ thuật trở thành nghệ thuật của chủ quan phi khác quan, xuất phát từ cảm ứng trực giác chứ không phải là từ quy hoạch lí tính”( Marilyn Butler: Trường phái lãng mạn, kẻ phản nghịch và phái phản động. Nxb Nxb Giáo dục Liêu Ninh, 1958, tr153). Người mở đầu cho thơ ca trường phái hiện đại Pháp Baudelare nói: “Chủ nghĩa lãng mạn vừa không phải là đề tài tuyển chọn vừa không phải là chân thực chuẩn xác mà là phương thức cảm nhận”. “Họ tìm kiếm ở bên ngoài, nhưng thực chất chỉ có ở trong mới có thể tìm kiếm được”( Sharon 1846. xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr184). Vì thế, giống như Chu Quang Tiềm chỉ ra: “cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan”(Lịch sử mĩ học phương Tây. Quyển hạ, Nxb Văn học nhân dân, 1964, tr 727). Chủ nghĩa lãng mạn mang sắc thái chủ quan sâu sắc, tập trung vào lí tưởng của chủ thể, chú trọng truyền đạt cảm nhận chủ quan, biểu hiện tâm hồn chủ quan, thể hiện tình cảm chủ quan của cá nhân. Nhà viết lịch sử văn học người Pháp Ranson nói: “Chân lí phổ biến về trật tự lí tính và trí tuệ của tài năng suy lí, suy tư sâu sắc là hai thứ mà chủ nghĩa lãng mạn không quan tâm. Tâm lí học và khoa học, nghệ thuật suy sét, nghệ thuật suy lí, phương pháp chính xác, logic chặt chẽ đều không phải là cái mà chủ nghĩa lãng mạn quan tâm”( Ranson: Lịch sử văn học Pháp. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr240). Bielinxki khi bàn về Cường đạo của Schiller đã chỉ ra Cường đạo giống như “tụng ca thô kệch về ngọn lửa dung nham phun ra từ tâm hồn đầy sinh lực của thanh niên” “trong câu nói này không phải là nhân vật mà là tác giả; trong toàn bộ tác phẩm không hề có sự chân thực của cuộc sống, nhưng lại có sự chân thực của cảm nhận, không có hiện thực, không có kịch nhưng lại có thơ vô tận, tình thế là không có thật, tình tiết là không tự nhiên, nhưng tình cảm là chân thực, tư tưởng là sâu sắc; tóm lại, vấn đề nằm ở: chúng ta tất yếu không coi Cường đạo của Schiller là kịch, là sự biểu hiện cuộc sống, mà là thơ trữ tình trường thiên mang hình thức kịch, là thơ trường thiên hừng hực, sục sôi”(Tuyển tập Bielinxki, tập 1, Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1979, tr156-157). Vì nhấn mạnh tính chủ quan nên chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật thường vượt lên trên sự phản ánh thế giới khách quan, sự dồi dào tình cảm trở thành hạt nhân, chủ thể của một tác phẩm, sự kiện, nhân vật và hành động nhân vật, ngôn ngữ và kết cấu tác phẩm… đều có thể tổ chức, sắp xếp vì sự biểu hiện tình cảm, tình điệu cảm thương, sầu muộn, kích động, vội vã thậm chí bao phủ toàn bộ câu chữ của tác phẩm.

Hết sức ca ngợi đại tự nhiên cũng là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong lịch sử phát triển, cảm tình của con người đối với tự nhiên là sản phẩm của thời kì văn minh, nó muộn hơn cảm tình đối với nghệ thuật. Văn học Hi Lạp phong phú và có giá trị, nghệ thuật Athens cũng hết sức huy hoàng, nhưng trong những tác phẩm của những dân tộc mà nghệ thuật kịch và điêu khắc đạt đến đỉnh cao thì cảm tình đối với tự nhiên cũng không thực sự phát triển, cho nên trong sử thi Homer cũng rất ít miêu tả tự nhiên, tự nhiên rất ít đi vào kịch Hi Lạp. “Trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ 19 mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết. Byron, William Wordsworth, Goethe là những người đầu tiên đưa biển lớn, sông dài, núi cao vào trong tác phẩm của mình”(Listowel: Bình thuật lịch sử mĩ học cận đại. Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1980, tr186). Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa đề xuất khẩu hiệu “quay trở lại với tự nhiên”, dùng nó để thể hiện sự bi phẫn đối với việc hình thành văn hóa thành thị và văn hóa công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa và ước muốn trở về với tự nhiên thuần phác. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp của đại tự nhiên, núi cao hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh, tình điệu riêng biệt ở đất khách quê người, tất cả đều xuất hiện dưới ngòi bút của nhà văn lãng mạn chủ nghĩa, hơn nữa, vẻ đẹp tự nhiên này đều đối chiếu rõ rệt với sự độc ác của hiện thực. Trong Just. Harold của Byron tràn ngập phong cảnh tự nhiên mềm mại ở phía nam địa trung hải, cảnh sắc rực rỡ ở Tây Ban Nha, di tích lịch sử hùng vĩ ở Hi lạp La mã, tạo nên sự khác biệt một trời một vực với hoàn cảnh đầy tội ác của chủ nghĩa tư bản.

Tưởng tượng mãnh liệt, khoa trương đặc biệt là thủ pháp biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn. Để làm nổi bật lí tưởng và biểu hiện tình cảm chủ quan, chủ nghĩa lãng mạn cũng có nét đặc sắc trên thủ pháp biểu hiện nghệ thuật và hình thức nghệ thuật, nó vận dụng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật khoa trương khác thường và trí tưởng tượng mãnh liệt, lấy tình tiết vượt lên hiện thực, sắc thái đậm đà, ngôn ngữ mĩ lệ, đem truyền thuyết lịch sử, cổ tích thần thoại, kì quan tự nhiên, phong cảnh ở nơi xa lạ…kết hợp lại, tổ chức nên một thế giới lí tưởng phi thường, nhân gian, tiên cảnh, thiên đường địa ngục, thần tiên ma quỷ, mưa gió sấm chớp, thảo mộc hoa lá muông thú côn trùng…đều có thể mặc sức để nhà văn lãng mạn điều khiển, bối cảnh có thể không ngừng thay đổi, không gian có thể thoải mái kéo dài. Trong Faust của Geothe, bối cảnh câu chuyện từ thư phòng chật hẹp đến thành quách sáng láng, lại đến cửa quan huy hoàng, tình tiết của nó cũng là thời gian nghiên cứu học vấn, thời gian giao kèo với quỷ, thời gian nói chuyện tình ái với cô nương thành thị, thời gian nhận được nhiều hủ bại của vương triều, thời gian đến bờ biển dự định cải tạo tự nhiên, cuối cùng là các thiên sứ cùng nâng đỡ linh hồn Faust bay lên không trung.

Như vậy,văn học lãng mạn là một khuynh hướng thẩm mĩ  lấy việc khẳng định cái tôi cá nhân cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với thực tại, tìm cách tự giải thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng đắm mình vào đời sống nội tâm tràn đầy tình cảm , cảm xúc. Giải phóng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm xúc ra khỏi sự trói buộc của lí trí, của chủ nghĩa duy lí, là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nó yêu tự do , thích sự độc đáo phi thường, có hứng thú giãi bày những cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt là nỗi buồn đau, lòng sầu xứ, tình yêu say đắm , sự ngưỡng mộ tạo hóa và thượng đế. Chủ nghĩa lãng mạn rất gần gũi với tuổi trẻ vì tuổi trẻ giàu tình cảm , dễ đắm say, đặc biệt trong tình yêu. Tuổi trẻ luôn hướng về cái mới lạ. họ thích táo bạo , độc đáo , khác thường.

  1. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam:

Sau ngày17/06/1930, khi cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học thất bại ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày các nhà ái quốc nhằm dập tắt các cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước để củng cố nền đô hộ. Các phong trào tạm thời lắng xuống, các tổ chức ái quốc bị dao động mạnh buộc phải tạm ngưng các hoạt động rút vào bóng tối nhằm bảo toàn tổ chức và nhân sự. Cuộc khủng bố qui mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong tầng lớp thanh niên và trí thức. Chỉ trong hai năm 1930 và 1931 riêng ở Bắc Kỳ, chính phủ bảo hộ Pháp đã mở 21 phiên tòa đặc biệt gọi là Hội Đồng Đề Hình xét xử tất cả 1094 vụ án chính trị, trong đó có 164 bản án tử hình, 114 khổ sai chung thân, 420 lưu đày biệt xứ. Đây là thời kỳ thoái trào của các hoạt động cách mạng chống Pháp dành độc lập cho đất nước.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 từ Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai khiến cuộc sống xã hội trở nên khó khăn. Hàng hoá rẻ mạt nhưng lại không kiếm ra tiền, các xí nghiệp kinh doanh thi nhau phá sản, sa thải nhân công. Ngân quĩ nhà nước bảo hộ thất thâu không đủ khả năng tuyển dụng thêm công chức, nạn trí thức thất nghiệp là mối lo âu chung của những người được Pháp đào tạo. Trộm cướp, thuốc phiện, bài bạc, đĩ điếm trở thành những vấn đề nan giải. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới càng tăng thêm bi quan cho bàu không khí u ám, buồn thảm vốn đang căng thẳng, ngột ngạt.

Trong khung cảnh đó những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng tiêu cực muốn thoát ly khỏi những vấn đề bức xúc của cuộc tranh đấu dành độc lập. Họ có thái độ chán nản, xa lánh chính trị. Thái độ này được củng cố trên cơ sở mối bất hòa tuyệt vọng giữa họ và hoàn cảnh xã hội đương thời.  Sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn giải quyết được bế tắc, đáp ứng được nhu cầu cho giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lốt thoát trong sạch, nơi trú ẩn tinh thần tương đối an toàn có thể gửi gấm tâm sự, và cũng là phương cách bày tỏ lòng yêu nước.

Chủ nghĩa lãng mạn đề cao tự do cá nhân đã đáp ứng được khát vọng giải phóng bản ngã, khát vọng tự do yêu đương cho hạnh phúc cá nhân, cho quyền sống cá nhân. Điều này giải thích được quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật của những người trong trào lưu văn chương lãng mạn thuộc giai đoạn 1932-1945 của văn học Việt Nam.

Tất nhiên để có một trào lưu văn học thì bao giờ cũng cần có một hay nhiều người khởi xướng với sự tham gia tích cực của văn giới, và được đón nhận đông đảo của độc giả.  Từ 1932 đến 1935 đã nổ ra hàng loạt các cuộc tranh luận văn học sôi nổi được tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn, nhà thơ: tranh luận về thơ mới thơ cũ, tranh luận về bỏ cũ theo mới, tranh luận về hôn nhân và gia đình, tranh luận về nghệ thuật phục vụ cái gì.  Các cuộc tranh luận này phản ảnh cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân được tự do bày tỏ. Hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay do Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương là cơ quan ngôn luận cổ võ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới và là nơi qui tụ văn chương của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ. Sự thành công của trào lưu văn chương lãng mạn cũng phải kể đến các tờ Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn, Thanh Nghị với sự tham gia của các tác giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh, v.v. Sự toàn thắng của phong trào thơ mới cũng là tiếng trống khải hoàn cho trào lưu văn học lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong trở về trước.

Như vậy, trào lưu lãng mạn trong văn học Việt nam đầu thế kỷ XX có một số đặc điểm như sau:

– Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh thuộc địa, nhà văn bị hạn chế về nhiều mặt: tự do tư tưởng , tầm văn hóa – tri thức, điều kiện vật chất,…

– Một số nhà văn nhà thơ cũng có tuyên ngôn này khác (Thế Lữ, Xuân Diệu, Nhóm thơ Bình Định, Xuân thu nhã tập, Tự lực văn đoàn,..) nhưng nói chung không lí thuyết nhiều, không đẩy lên thành chủ nghĩa này, trường phái khác một cách cực đoan.

– Thành tựu có tính kết tinh nhất và có giá trị thẩm mĩ lâu dài hơn cả là thơ trữ tình, truyện ngắn, một số thể kí.

– Nội dung tư tưởng: Chủ nghĩa lãng mạn nói chung là sự thể hiện trên lĩnh vực mĩ học thái độ bất hòa  bất mãn với xã hội, với thực tại. Khao khát dân chủ tự do, văn minh, tiến bộ, tỏ thái độ bất hòa bất mãn với chủ nghĩa thực dân tàn bạo, hống hách và với những tập tục phong kiến hủ bại. Vì thế tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn học Pháp- đất nước của kẻ xâm lược- VHLM VN vẫn cắm rễ rất sâu vào cội nguồn dân tộc. Nó đã đi tiên phong và có đóng góp quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc trên cơ sở truyền thống văn học VN. Hoài Thanh hiểu sâu sắc tấm lòng của những cây bút lãng mạn ấy họ yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ. Họ viết văn , làm thơ để mong đóng góp được chút gì trong hoàn cảnh mất nước, vào việc giữ gìn và phát triển tiếng nói và văn chương dân tộc. Họ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên , đất nước và con người VN từ hình thức đến tâm hồn. Họ nói dùm nỗi buồn đau của người dân Việt Nam “ Thiếu quê hương” ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình.

Nếu như những tâm hồn lãng mạn phương Tây, chủ yếu tỏ thái độ khinh bạc đối với lối sống gọi là buôcgioa ( tư sản) phàm tục trên quan điểm thẩm mĩ thì những cây bút lãng mạn VN, bên cạnh thái độ ấy, còn đối lập trên tinh thần dân tộc, đối với lối sống nô lệ, bằng lòng, thậm chí thoả mãn đối với thực tại của xã hội thực dân. Lòng yêu nước ấy, sau này sẽ đưa họ hầu hết đến với cách mạng và giúp họ theo đuổi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đến cùng.

Các chặng đường phát triển: VHLMVN phát triển từ đầu thế kỉ XX đến 1945 qua hai bước, phù hợp với quá trình hiện đại hóa văn học:

– Bước thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỉ đến khoảng năm 1930

+ Thơ Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải

+ Văn xuôi: Đông Hồ ( Linh Phượng kí) , Tương Phố ( giọt lệ thu), nhất là Hoàng Ngọc Phách ( Tố Tâm)

– Bước thứ hai: diễn ra khoảng từ 1930- 1945. Thành tựu của văn học LMVN ở bước này rất phong phú

+ Phong trào thơ Mới: mà tác giả là những cây bút rất trẻ , đầy tài năng, thấm nhuần tư tưởng và văn hóa của phương Tây hiện đại. Họ đã sáng tạo ra các thể thơ mới, hoặc làm mói các thể thơ truyền thống. Dặc biệt cái mới không ở hình xác câu thơ mà là ở tinh thần của nó. Áy là cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm , cảm xúcvà trí tưởng tượng. Nó phá bỏ hệ thống ước lệ có tính chất phi ngã của thơ cũ để trực tiếp quan sát hoặc diễn tả thế giới ( bao gồm cả ngoại cảnh và nội tâm) bằng con mắt tươi mới , xanh non của mình. Nó có nhiều khám phá mới lạ, tinh tế và đầy tài hoa về thiên nhien về tình yêu. Nó đêm đến cho thơ một chất trẻ trung hấp dẫn không có trong thơ cổ.

Tác giả tiêu biểu: Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu , Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên , Nguyễn Bính

+ Về văn xuôi:

– Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn:

Nhất Linh , Khái Hưng, Hoàng Đạo với mô hình tiểu thuyết ái tình mà nhân vật lí tưởng là đôi thanh niên nam nữ Âu hóa từ y phục đến tâm hồn. Đó là những nhân vật trí thức Tây học thuộc những gia đình giàu có và sang trọng trong xã hội cũ. Họ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, cho luyến ái tự do và cho một phong trào Âu hóa. Những tác phẩm tiêu biểu ủa các nhà văn này thường là những tiểu thuyết luận đề: chống lễ giáo phong kiến ( Nửa chừng xuân. Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,..); những cải cách xã hội có tính chất không tưởng ( con đường sáng , Gia đình,…); sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần ( Đẹp , Bướm trắng , Thanh Đức)

– Truyện ngắn: Thạch Lam, Xuân Diệu , Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh , Hồ Dzếnh,…

 

  1. Chủ nghĩa hiện thực – Lịch sử hình thành và đặc trưng cơ bản:

Chủ nghĩa hiện thực phê phán có ở Anh, Nga và cả ở phương Đông sau này, nhưng hình thành một cách tiêu biểu và đầu tiên trong văn học Pháp vào khoảng năm 1830. Lịch sử nước Pháp nửa đầu thế kỉ XIX là lịch sử hình thành và phát triển mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là hai lực lương cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ. Trước đó, được chi phối bởi chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa lãng mạn (tích cực) tuy cũng kết tinh những phản ứng của tầng lớp dân chủ cấp tiến đối với những bất công của xã hội tư bản, nhưng họ còn đặt hi vọng vào những nhà tư sản tốt bụng. Giờ đây, các nhà văn chân chính hoàn toàn thất vọng với chế độ tư bản, quay về nhìn thẳng vào hiện thực để vạch trần những tội ác của chúng. Đây là nguyên nhân sâu xa nhưng căn bản giải thích quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực trong văn học Pháp thời kì ấy.

Nhà văn hiện thực thế kỉ XIX nhờ có “một trình độ tri thức nhất định về thế giới”, kết tinh từ những thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Khác với chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn thường bị chi phối bởi một vài nguồn ý thức tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phản ánh cuộc sống một cách toàn diện, cho nên nó phải khơi nguồn ở nhiều phương diện khác nhau- tất nhiên cuối cùng phải được kết tinh lại thành một nguyên tắc nhất quán.

Về mặt xã hội học, các nhà xã hội không tưởng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê, Rôbe Owen đã chỉ ra một cách đúng đắn về mâu thuẫn và áp bức giai cấp trong xã hội tư bản.

Về mặt sử học, các tác phẩm của Ghido, Minhe, Chieri đã chứng minh rõ ràng sự thắng lợi của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến quý tộc là một tất yếu lịch sử. Họ đã vạch ra quy luật đấu tranh giai cấp như một phương diện quan trọng trong động lực phát triển lịch sử.

Tất cả những đặc điểm về tình trạng xã hội và những thành tựu về các ngành khoa học nói trên đã kết tinh thành nguyên tắc lịch sử- cụ thể. Nguyên tắc lịch sử- cụ thể này đã thay thế cho nguyên tắc lí tính đã ngự trị trong khoa học và cả trong văn học nghệ thuật của bao thế kỉ trước đó.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán không phải là không có những nhân vật chính diện, qua đó bộc lộ cảm hứng ca ngợi khẳng định của mình. Đó là những con người, vốn xuất thân từ những thành phần khác nhau (quý tộc, tiểu tư sản…), vốn có những thái độ khác nhau với chế độ tư bản nhưng một khi đã lăn mình vào xã hội đó đều thấm nhuần đạo đức và triết lý tôn thờ “con bê vàng” như trong các sáng tác của Bandắc.

Những nhân vật trung tâm phản diện này quyết định cảm hứng chủ đạo phải là phê phán, và chính vì thế chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX được mệnh danh là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Điều đó cũng hợp với một quy luật phát triển của văn học, bởi vì: “Văn học của tất cả các thời đại, nhất là trong thời đại càng gần với thế hệ chúng ta, thì thái độ phê phán, bóc trần và phủ nhận thực tại càng mạnh thêm” (M.Goocki). Điều này cũng là một đặc điểm khác nhau quan trọng giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với những nhân vật trung tâm phản diện, nhưng vai trò và tỉ lệ của cảm hứng ca ngợi qua các nhân vật chính diện lí tưởng là khác nhau.

Các nhà văn hiện thực phê phán quan niệm được “con người xã hội”. Có nghĩa là khi có được tư duy lịch sử- cụ thể, họ sẽ đặt con người trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể rồi triển khai sự phát triển tính cách của nó theo sự diễn biến của hoàn cảnh đó. Nguyên tắc lịch sử- cụ thể được phát huy cao độ với chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Tính cách điển hình là sự thống nhất hài hòa cao độ giữa tính riêng sắc nét và tính chung có ý nghĩa khái quát cao, là “người lạ mà quen” như ý kiến của Bêlinxki. Nó không chỉ có sự thống nhất giữa tính riêng và tính chung, vì đó vốn là tính chất thông thường của bất kì sự vật hay hiện tượng nào. Chỉ khi nào cái riêng thật sắc nét, cái chug lại phải thật khái quát cao, nhưng không phải kéo dài theo hai cực đối lập nhau, mà phải thống nhất nhau, hơn nữa lại phải hài hòa cao độ thì lúc đó mới có điển hình. Nó là kết quả sự xuyên thấm thật nhuần nhuyễn của cả hai mặt cá thể hóa và khái quát hóa đều ở mức độ cao.

Hình tượng nhân vật trong chủ nghĩa cổ điển nặng về cái chung mà nhẹ về cái riêng. Chủ nghĩa lãng mạn thì lại nhấn mạnh cái riêng đến chỗ phi thường ngoại lệ, nhưng nhẹ về mặt tiêu biểu khái quát. Loại hai chỗ yếu- cũng có nghĩa đồng thời đã kế thừa hai chỗ mạnh của chủ nghĩa hiện thực phê phán đã đem lại sự kết tinh mới. Trong thư gửi cho Mina Caoxki, Ăngghen lại nhấn mạnh: “Mỗi nhân vật là một điển hình, nhưng đồng thời lại là một cá nhân hoàn toàn cụ thể”.

Trong chủ nghĩa hiện thực phê phán, cá nhân tự nó là đối tượng trực tiếp của sự miêu tả; cái điển hình toát ra từ tính cách của con người cụ thể. Cá tính cao độ của nhân vật sẽ làm cho nó trở lên sinh động.  Nhân vật trong tác phẩm mỗi người một vẻ, không ai giống một ai. Họ đều hiện ra với những cá tính sinh động, từ lí lịch, dáng vẻ, tác phong, tâm tư, hành động, ngôn ngữ, làm cho người đọc như đang tiếp xúc được với những con người cụ thể ở ngoài đời.

Quan hệ giữa tính chung và tính giai cấp của điển hình phải được hiểu một cách biện chứng, chúng có mối liên hệ hữu cơ không tách rời nhau- tính chung phải có tính giai cấp nhưng không đồng nhất với tính giai cấp- tùy theo đề tài, ý đồ và trình độ khái quát của nhà văn mà tính chung sẽ có thể “nhỏ hơn” hoặc “lớn hơn” tính giai cấp.

Với nguyên tắc lịch sử- cụ thể, với quan niệm “con người xã hội”, chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng được những hoàn cảnh điển hình. Đó là những hoàn cảnh của nhân vật được tái hiện vào trong tác phẩm, phản ánh được bản chất hoặc một vài khía cạnh bản chất trong những tình thế xã hội với một quan hệ giai cấp nhất định.

Cũng như tính cách điển hình, ý nghĩa tiêu biểu khái quát của hoàn cảnh điển hình phải thông qua tính chất cụ thể riêng biệt của nó. Cái hiện lên trước mắt người đọc chính là những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt này. Có điều qua những nét cụ thể riêng biệt đó, người đọc cảm thấy được những vấn đề xã hội rộng lớn. Hoàn cảnh điển hình phải bao gồm những sự kiện, những quan hệ do chính những tính cách tạo nên.

Khi đã xây dựng được hoàn cảnh như vậy, thì tính cách chính là con đẻ của hoàn cảnh, được giải thích bởi hoàn cảnh. Chính vì thế mà những tính cách trong chủ nghĩa hiện thực, cho dù có li kì, nhưng hoàn toàn có thể có thể giải thích được. Là con đẻ của hoàn cảnh điển hình, tính cách điển hình trở nên rất phong phú và đa dạng. Số lượng tính cách mà chủ nghĩa hiện thực tái hiện được nhiều chưa từng có, lấy nguyên mẫu trong cuộc sống để tái hiện.

Mặt khác, khi đặt nhân vật vào hoàn cảnh, mà hoàn cảnh xã hội bao giờ cũng phức tạp, cho nên tính cách nhân vật, mặc dù bao giờ cũng có thể nổi lên vài ba nét chủ đạo, nhưng châu tuần chung quanh đó còn có những biểu hiện đa dạng gần như chính con người thật ngoài cuộc đời. Bên cạnh đó, hoàn cảnh cuộc sống đứng yên chỉ là tạm thời, còn luôn luôn tiệm tiến và đột biến, cho nên tính cách của nhân vật luôn luôn phát triển. Các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực phê phán đều có quá trình phát triển cũng như cuộc sống vậy.

Với việc “tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” mà một hệ quả trực tiếp của nó là tính cách trở thành con đẻ của hoàn cảnh, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, chủ nghĩa hiện thực phê phán có được khái niệm “lôgic nội tại của tính cách”. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn phải tuân theo quy luật khách quan của nó. Tính cách nhân vật giờ đây phụ thuộc vào hoàn cảnh điển hình, nó vẫn chịu sự chi phối của chủ quan nghệ sĩ nhưng là một thứ chủ quan đã nắm bắt được chân lí khách quan.

Bất kì nhân vật cụ thể nào của chủ nghĩa hiện thực, mặc dù có nguyên mẫu hoặc do hư cấu, có thể vốn có hoặc vốn không có ở ngoài đời, nhưng kiểu loại nhân vật đó dứt khoát đã tồn tại ở ngoài đời trong một hoàn cảnh nhất định với tính cách và vận mệnh khách quan của nó. Muốn tái hiện chân thật nó, không có con đường nào khác, trước hết nhà văn phải tuân theo lôgic khách quan của nó.

Một hệ quả nữa của tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hoàn cảnh điển hình là hiện tượng “nhân vật nổi loạn” trong chủ nghĩa hiện thực. Nói đến “nhân vật nổi loạn” có nghĩa là hướng đi về sau của nó mâu thuẫn với dự kiến chủ quan ban đầu, chứ vẫn hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi về sau trong nhận thức của nhà văn. Có điều này là do khi sáng tác nhà văn có dự kiến ban đầu là kết quả của sự thai nghén ấp ủ lâu ngày, nhưng khi tiếp xúc với cuộc sống, nhà văn phát hiện thêm những khía cạnh mới buộc phải thay đổi nhưng vẫn sẽ còn lưu giữ lại những ấn tượng da diết nào đó.

Nếu có đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực, thì cũng có sự gần gũi giữa nó với chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Có lúc cả hai cùng đứng trên một trận tuyến để chống lại tàn dư của chủ nghĩa cổ điển đương thời; chủ nghĩa hiện thực phê phán tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn tích cực về một vài phương diện thi pháp là điều dễ hiểu.

Trước hết là việc mở rộng thêm đề tài. Với cảm hứng chủ đạo là phê phán, chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX đã mở rộng, đưa toàn bộ những cái hàng ngày, kể cả mọi cái hèn kém, xấu xa vào nghệ thuật. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện thực cũng chú trọng khai thác đề tài trong lịch sử dân tộc mình.

Chủ nghĩa hiện thực hướng về những vấn đề xã hội rộng lớn nhưng cũng rất đề cao chất trữ tình trong văn học nghệ thuật. Bởi vì nói cho cùng, lòng người, nhân tâm cũng chính là một phương diện khác của cuộc đời, của thế sự.

Nếu khoa học chủ yếu là biện luận qua những luận điểm, luận cứ, luận chứng thì trong văn học chủ yếu là mô tả, đan dệt bằng những chi tiết. Chi tiết là đơn vị nhỏ nhất có thể chia ra được tùy theo những tương quan và yêu cầu nhất định. Nó có thể là một dáng hình, một lời nói, một cử chỉ, một nét sinh hoạt, một khâu quan hệ. Chi tiết chân thực là những cái có thật hoặc có thể có thật về người. Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan cho nên bất kì phương pháp sáng tác nào cũng đều ít nhiều có chi tiết chân thực.

Chủ nghĩa hiện thực tuân theo nguyên tắc khách quan, phát huy đến cao độ kiểu sáng tác tái hiện. Nghệ thuật như một tấm gương xê dịch trên một con đường lớn mà nhà văn coi mình là người thư kí trung thành, tái hiện hiện thực cuộc sống. Chính vì thế mà chi tiết chân thực dồi dào chưa từng có ở chủ nghĩa hiện thực. Sứ mệnh chủ yếu của chi tiết chân thực trong chủ nghĩa hiện thực là ở chỗ góp phần tái hiện chân thực tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chính bởi vậy bản thân chi tiết cũng phải được điển hình hóa.

Sự dồi dào về chi tiết chân thực nói trên chỉ có thể thực hiện tối đa ở thể loại tự sự mà tiêu biểu nhất là tiểu thuyết. Ở đây có sự giao tiếp giữa thể loại và phương pháp sáng tác. Nếu chủ nghĩa cổ điển thích hợp với thể loại kịch, chủ nghĩa lãng mạn với thơ trữ tình thì chủ nghĩa hiện thực với tiểu thuyết. Chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phản ánh cuộc đời này một cách toàn diện, sẽ không hoàn thành sứ mệnh đó nếu chủ yếu chỉ sử dụng những thể loại quy mô nhỏ hoặc vừa; và tiểu thuyết là thể loại thích hợp nhất để nhà văn hiện thực lựa chọn.

Tiểu thuyết vốn là thể loại đã có từ trước nhưng khi nó đã trở thành thể loại chính của chủ nghĩa hiện thực thì biến thành thể loại tiểu thuyết xã hội. Tiểu thuyết xã hội dễ thấy là quy mô rộng lớn của nó, phản ánh nội dung xã hội rộng lớn, toàn diện và tỉ mỉ, sâu sắc. Xét về mặt nào đó, tiểu thuyết hiện thực là một thể loại tổng hợp, trong đó có chứa đựng những yếu tố của trữ tình, tự sự, kịch và kí.

 

  1. Trào lưu hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam

Trong văn học, những tác phẩm văn học có tính chất hiện thực và giá trị hiện thực đã xuất hiện từ lâu trước khi có CNHT. CNHT hết sức chú ý đến những tư liệu, dữ kiện có thật ở trong đời sống và đã dùng chúng như những chất liệu nghệ thuật để xây dựng cốt truyện, các nhân vật, các tính cách, các hiện tượng tâm lí, với nghệ thuật khái quát và điển hình hoá cao và nghệ thuật phân tích tư tưởng, tâm lí sâu sắc. Nhiều nhà văn hiện thực đã sáng tạo ra được những nhân vật điển hình mang dấu ấn rất đậm của xã hội và thời đại đương thời.

Trong văn học Việt Nam, những tác phẩm như “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc”, “Lục Vân Tiên”, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương đều tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Đó là những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống ở các thời đại, chứa đựng những hi vọng và ước mơ của con người trong cuộc đấu tranh cho tự do, hạnh phúc, phơi bày một cách chân thật hiện thực khách quan của cuộc sống. Khoảng 1930 cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, khuynh hướng hiện thực mà thời ấy gọi là “tả chân” hay “tả thực” mới hình thành và phát triển thành một trào lưu trong văn học. Tuy xuất hiện chậm nhưng văn học hiện thực phê phán Việt Nam cũng có mặt mạnh. Đại bộ phận các nhà văn theo trào lưu này đều có tinh thần dân tộc. Mặc dù chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp rất khắt khe, các tác phẩm của họ cũng đã vạch ra được nỗi thống khổ và nhục nhã của những người dân nghèo nông thôn và thành thị sống dưới ách bóc lột, áp bức của bọn thực dân, quan lại, cường hào, tư sản. Những nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Vi Huyền Đắc… đã để lại những tác phẩm được ngày nay đánh giá cao. Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, Nghị Hách, chị Dậu, anh Pha… là những nhân vật nổi tiếng trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.

Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 có một số đặc điểm nổi bật:

– Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt: xã hội thực dân nửa phong kiến, có những xung đột, mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi phải được giải quyết.

– Phản ánh hiện thực một cách chân thực, cụ thể như những gì vốn có, đang diễn ra trong đời sống hàng ngày, từ những gì nhỏ nhặt, vụn vặt nhất.

– Thừa nhận giá trị của thực tế khách quan.

– Thể loại chủ yếu: truyện ngắn, tiểu thuyết.

– Xây dựng thành công những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chú trọng các chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý nhân vật.

Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945 có thể chia ra gồm 3 thời kì phát triển:

– Thời kì 1930-1935: Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kì này phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.

– Thời kì 1936-1939: Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc:

+ Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán: Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố…

+ Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố…
Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê phán thời kì này.

– Thời kì 1939-1945: Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:

+ Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);

+ Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất Tố.

+ Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh Ðạm.

+ Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển… Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao. Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động.

 

  1. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
  2. Về đề tài, cảm hứng:

1.1 Trong văn học lãng mạn:

Dĩ nhiên khó mà thâu tóm tất cả tính chất bao hàm trong các tác phẩm của những nhà lãng mạn. Tuy nhiên về đại thể, chúng ta có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên những thuộc tính, những chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn. Trong văn học phương Tây, các nhà nghiên cứu xác nhận những chủ đề cơ băn như sau:

Sự khẳng định và thăng hoa cái tôi

Nỗi buồn lãng mạn:

Tình yêu thiên nhiên:

Sự hoài niệm quá khứ

Thế giới đường xa xứ lạ

Sự hư ảo, quái dị, siêu nhiên

Sự siêu phàm

Sự dấn thân

Đêm tối

Trong văn học Việt Nam, những đề tài, nguồn cảm hứng ưa thích của chủ nghĩa lãng mạn là nỗi buồn đau, thiên nhiên, tình yêu và tôn giáo, chống lại lễ giáo phong kiến…

Nói đến chủ nghĩa lãng mạn là nói đến cái buồn, nỗi đau. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, đau thương, sầu mộng thuộc phạm trù thẩm mĩ ( Hãy lịm người trong thú đau thương- Lưu trọng Lư). Họ ca ngợi cái đẹp buồn của cảnh, của người. Ấy là những cảnh trời rộng , sông dài, cảnh đồng hoang bãi vắng, núi cao, rừng sâu biển xa, cảnh trùng khơi mịt mùng bão táp… Ấy là những cảnh chiều tà , thu muộn, hoặ những đêm trăng lạnh…Nói chung chúng thơ mộng nhưng đượm buồn và dễ gợi nỗi cô đơn , sự chia li, lòng sầu xứ , sự tàn tạ và cái chết…

Văn học lãng mạn Việt Nam có những mặt yếu của nó. Nó không nói đến những vấn đề nóng bỏng trước mắt. Nó né tránh nỗi khổ nhục của dân tộc, những đau đớn của kẻ nghèo, những bất công giữa cảnh bần cùng với cảnh xót xa hơn. Nó quên đi và làm cho mọi người cùng quên đi, dâu trong phút chốc, những đen tối nghiệt ngã của đời sống. Lật nhiều trang sách, đọc nhiều bài thơ lãng mạn, người ta thấy trong cuộc đời hình như không có nỗi đau khổ nào đáng sợ bằng nỗi đau của tình yêu bị ngăn cấm hay bị phụ bạc. Từ trên rừng xuống biển, văn học lãng mãn không cho người ta nhìn thấy những cảnh chen chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người, mà đâu đâu cũng chỉ là một sự hài hòa đẹp đẽ của thiên nhiên từ cảnh rừng già với giọng nguồn hét núi đến cảnh trăng nên thơ một trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh êm đềm rủ bóng những sườn đồi chênh vênh, nhưng hang sâu động thẳm thường làm cái nền cho những cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa đời sống ấy phổ biến trong tác phẩm lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực Nam Cao từng phải kêu lên: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dôi…. Muốn thoát li khỏi xã hội, văn học lãng mạn đưa người đọc vào vũ trụ của cá nhân, mà mỗi trang sách, mỗi câu thơ là một sự khám phá vào cái tôi vô tận vô cùng của nó. Cái tôi đam mê, cái tôi chán chường, cái tôi hào hứng, cái tôi phản kháng, cái tôi cam chịu, cái tôi thắm tươi, cái tôi tật bệnh….bao nhiêu là khía cạnh của cái tôi, đồng thời hay lần lượt hiện ra, lên tiếng dời chỗ đứng của mình dưới mặt trời như một cái gì thật khẩn thiết. Chưa bao giờ trong văn chương Việt Nam, cá nhân con người được nói đến một cách tập trung và quyết liệt như thế. Hình như, không có gì chính đáng bằng, đáng quan tâm bằng số phận của cá nhân, hạnh phúc và khổ đau của cá nhân. Cá nhân là tất cả và tuyệt đối, hưởng thụ cá nhân là chính đáng và cần kíp. Xuân Diệu kêu gọi:

Mau với chư, vội vàng lên với chư

Em, em ơi, tình non đã già rồi

(Giục giã)

Văn học lãng mạn tìm đến hướng thoát nhưng trước hết là đến với tình yêu. Tình yêu lúc ấy hầu như trở thành một thứ tôn giáo. Ngọc, trong Hồn bướm mơ tiên của Khải Hưng, đưa tình yêu đến trước phật đài để tôn thờ nó bất vọng bất diệt trong cõi vĩnh hằng. Một nhân vật trong truyện ngắn Trên sông Hương, cũng của Khải Hưng, thì nói: Ngoài em ra, ngoài ái tình của đôi ta, anh không còn cần một thứ gì khác nữa. Tình yêu của chủ nghĩa lãng mạn là tình yêu tan vỡ, tình yêu không thỏa, là Nửa chừng xuân , Lỡ bước sang ngang, Xa cách…. Nhưng, trong cái xã hội ngày ấy, nhà văn lãng mạn đi đâu cho thoát khỏi sự bế tắc của đời sống? Chung quy lại vẫn là bóng tối, vẫn là cái tẻ nhạt và vô nghĩa của đời sống. Sống là phải buồn và cần phải chia sẻ. Từ cái buồn thoáng qua, vô cớ thời Thế Lữ, của Lưu Trọng Lư, cái buồn trở nên mênh mông, một nỗi sầu vạn cổ với Huy Cận, và càng trở nên bi thương, điên loạn với Chế Lan Viên ,Hàn Mạc Tử …Đọc thơ lãng mạn, người đọc chìm ngập trong nỗi buồn! Nhưng nếu tất cả chỉ có thế thôi, văn học lãng mạn đâu đáng được tồn tại suốt mười lăm năm như thế và được một lớp người đọc khá đông, không phải là những kẻ mù lòa, ưu ái và ủng hộ đến như thế.

Đầu tiên, thái độ thoát li xã hội, xét cho thấu đáo, có mặt tích cực của nó. Văn học lãng mạn không hòa giọng vào cái hợp xướng hoàn ca của những thứ gọi là văn chương, ca ngợi một cách vô liêm sỉ nước Đại Pháp và sự văn minh khai hóa của nó trên đất nước Việt Nam này. Nỗi buồn lâm li của văn học lãng mạn ít ra cũng giúp người ta biết buồn nếu chưa biết làm gì khác trong cuộc sống nô lệ ngày ấy. Cái tâm trạng phủ nhận hết thảy. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau của Chế Lan viên cũng đáng được thông cảm. Trong những hành động phiêu lưu đầy chất anh hùng cá nhân của một anh chàng Dũng trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn của Nhất Linh, người đọc có thể tìm thấy một thái độ không an phận, một tiếng vỗ cánh bay lên của một con chim biết chán chường những thức ăn béo bổ trong cái lồng son dành cho mình. Một bài thơ thường được nhắc tới nhiều của thơ lãng mạn, bài Nhớ Rừng của Thế Lữ, đã nói không ít đắng cay của cuộc đời nôi lệ và một khát vọng ( dẫu là bất lực) về một cuộc đời tự do:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi

…Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!

Trong không khí oi bức ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến ngày ấy, văn học lãng mạn đã cố gắng tìm được một lối thoát phù hợp với sức vóc của mình: chống lễ giáo phong kiến. Có thể nói: nhờ nhiều tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn, người đọc hiểu và cảm thông được tính chất phi lí tàn bạo, cái đần độn, man rợ, của nhiều thứ lễ giáo cho đến lúc ấy vẫn được coi là bất khả xâm phạm. Đó là thứ quan niệm hôn nhân môn đăng hộ đối không đếm xỉa gì đến quyền sống con người, mù quáng đến phi lí vô nhân đạo (như Nửa chừng xuân của Khải Hưng), là thứ chủ trương vừa tàn nhẫn vừa giả dối đến khôi hà: cấm người quả phụ tái giá (như trong Lạnh Lùng của Nhất Linh). Thái độ của các nhà văn lãng mạn đối với lễ giáo phong kiến là khồng hòa hoãn. Với họ, lễ giáo phong kiến đã hết thời rồi, và sự tồn tại của nó không chỉ là việc có hại mà còn hoàn toàn lố bịch. Chống lại lễ giáo, văn học lãng mạn ca ngợi tình yêu. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong thơ, tình yêu – một tình cảm đẹp của con người – lại được nói đến vơi đầy đủ cung bậc như thế. Sự phong phú của chủ đề tình yêu trong văn học lãng mạn may ra chỉ có văn học dân gian (chủ yếu là ca dao) mới đuổi kịp. Trong thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh có thơ của 45 nhà thơ thì hầu như chỉ có một người không nói đến tình yêu! Cho đến ngày nay, những câu thơ, những bài thơ tình ngày ấy không phải không còn làm rung lên nơi người đọc những tình cảnh đẹp và trong sáng, hoặc mộc mạc như:

Nắng mưa là chuyện của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

(Nguyễn Bính)

Hoặc đắm say mà hoài nghi như:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây mây khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử)

Với văn học lãng mạn, thiên nhiên không chỉ là một phương tiện mà là một chủ thể, một nguồn cảm hứng lớn, một đối tượng miêu tả chủ yếu. Có thể nói, quan văn học lãng mạn, người đọc biết mở mắt ra để chiêm ngưỡng thiên nhiên. Người ta rung động vì đẹp một mái cong trướng tam quan một ngôi chùa vùng Kinh Bắc, vẻ thướt tha nơi rặng liễu ven Hồ Tây một sớm mùa thu, vẻ xanh tươi của một ngôi vườn xứ Huế, vẻ mộc mạc của một giậu mồng tơi, một thôn xóm đồng bằng, hay là một đồi chè thoai thoải ở vùng Trung châu…Bao người, chỉ nhờ đọc văn học lãng mạn mà biết được và yêu mến một bến đò Trung Hà, một ngôi chùa Long Giáng, một con đê Yên Phụ, một làng xanh Vĩ Dạ, một con đường đi chùa Hương thơ mộng như đường đến cõi tiên…Ta cũng nên nhớ rằng, trong bối cảnh xã hội ngày ấy, tình yêu thiên nhiên, thiên nhiên Việt Nam, không phải không gắn liền ít nhiều với một niềm tự hào dân tộc chính đáng. Giữa lúc không ít kẻ hễ mở miệng chỉ nói đến Tây, ca ngợi cảnh Tây, thì tình yêu thiên nhiên, sự ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Nam, dẫu có lúc thi vị hóa hay qua đáng đi nữa, cũng là một sự trở về cội nguồn.

Nhà văn lãng mạn còn hướng tới những cái phi thường có tính biệt lệ, chẳng hạn, trong Chữ người tử từ (Nguyễn Tuân), đó là một không khí thiêng liêng khác thường, con người cũng tài hoa, dũng liệt một cách rất đỗi nghệ sĩ như  Huấn Cao. Xây dựng những hình tượng con người vượt lên thực tại của đời sống của hoàn cảnh, hướng tới một cái gì tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực. Có khi đó chỉ là những khát vọng dẫu mơ hồ nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa, như khát vọng chờ chuyến tầu đêm qua phố huyện nghèo chính là được viết theo cảm hứng lãng mạn bay bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tầu không xuất phát từ nhu cầu vậ chất. Hai đứa trẻ chờ tầu bởi nhu cầu tinh thần, chuyến tầu đêm là cả một niềm vui lớn. Con tầu mang đến phố huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và những âm thanh sôi động xua đi không khí tĩnh lặng của phố huyện nghèo. Bên cạnh đó, con tầu khiến chị em L như trở về với quá khứ tươi đẹp, con tầu chạy tới từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã qua. Hai chị em đã có thời sống ở Hà Nội xa xăm, tươi đẹp, huyên náo, hai chị em từng được đi chơi bờ hồ, được ăn những thức quà ngon, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Con tầu đã đánh thức dậy một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp để cân bằng lại cuộc đời không mấy niềm vui, hp nơi phố huyện nghèo. Vì vậy khi tầu đến, Liên và An đứng cả dậy hướng về phía con tầu và khi con tầu đi rồi Liên vẫn lặng theo mơ tưởng.

Đôi khi, các đề tài cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn vẫn được kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn. Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù  được miêu tả một cách chân thực, cụ thể, chi tiết: Thời gian: lúc nửa đêm; không gian: trại giam tỉnh Sơn; sự việc: diễn ra giữa 3 nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại. Tuy nhiên cảnh hiện thực mà lại lãng mạn gợi liên tưởng tới sự bất tử của cái đẹp. Ngọn đuốc rừng rực trong bong đêm gợi liên tưởng tới tài năng khí phách, thiên lương.

  1. 2. Trong văn học hiện thực

Hiện thực khách quan đầu thế kỷ XX là một xã hội thực dân nửa phong kiến với bao nhiêu áp bức nặng nề, phơi bày nhiều mặt bất công ngang trái. Con người Việt Nam thời này chịu nhiều khổ cực: Sự đày đọa cuộc sống dưới ách đế quốc thực dân và phong kiến; sự hủy hoại văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc; sự xâm nhập của văn minh phương Tây trong ý đồ đen tối của thực dân Pháp. Hoàn cảnh lịch sử trên đã tác động tới việc hình thành quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người của các nhà văn hiện thực phê phán. Phản ánh hiện thực khách quan như nó tồn tại, chú trọng miêu tả con người gắn với hoàn cảnh, tính cách con người bị quy định bởi hoàn cảnh, văn học hiện thực phê phán đã tạo ra một bước ngoặt mới trong việc khám phá đời sống con người, đề cập đến kiểu người tha hóa sâu sắc và toàn diện nhưng lại bao hàm khả năng hoàn thiện nhân cách của con người và của chính nhà văn.

Với đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng cảm quan sinh động và cụ thể, mang dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ, văn học là tấm gương phản chiếu xã hội, là sản phẩm của sự nhận thức thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật chỉ có giá trị khi nghệ sĩ dùng nó để miêu tả và bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến cảm xúc của công chúng, định hướng thẩm mỹ và định hướng nhân cách cho công chúng. “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại” (Đôxtôiépxki), văn học đã cứu rỗi vị thế xã hội của con người.

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao – những nhà văn hiện thực xuất sắc đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội, viết về những con người dưới đáy của xã hội: những người nông dân, người trí thức tiểu tư sản nghèo…

Trong văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam có một hiện tượng, mà nhà văn Nguyên Hồng vẫn khẳng định, ngay ở những con người dưới đáy, họ vẫn mang bản tính là những con người trong sạch. Chỉ có hoàn cảnh làm xấu con người, chứ con người không muốn tự làm xấu mình. Đó chính là quan niệm nghệ thuật góp phần hoàn thiện nhân cách con người, chi phối toàn bộ những sáng tác của văn học hiện thực phê phán.
Ngô Tất Tố phát hiện ra hình ảnh một người phụ nữ nông thôn Việt Nam trong sạch, đẹp đẽ và lung linh trong màn đêm của xã hội thực dân và phong kiến. Những phẩm chất: thủy chung, hiền dịu, đảm đang, giàu sức quật khởi ở chị Dậu là tấm gương sáng mà bạn đọc mãi mãi đi tìm.

Nguyễn Công Hoan, với quan niệm “Cuộc đời là một sân khấu hài kịch, đã nhìn vào mặt trái của cuộc đời, của con người, để phỉ nhổ vào những xấu xa, bỉ ổi của xã hội, để cười ra nước mắt những điểm xấu của con người dưới đáy nhằm lên án xã hội đảo điên. Con người trong quan niệm của Nguyễn Công Hoan hoàn toàn bị tha hóa, thậm chí bị vật hóa, đồ vật hóa. Từ vị quan huyện béo tốt, một bà lớn với khuôn mặt thịt nung núc, đến những đứa ăn mày, ăn xin, kẻ cắp, người trốn nợ, bà cụ nhà quê… là những con người bị tha hóa. Cách nhìn “Đời là một sân khấu hài kịch” đã chi phối sâu sắc Nguyễn Công Hoan trong việc chọn đề tài, chủ đề, xây dựng nhân vật, biến cố và tình tiết… mang đậm chất hài kịch. Cái nhìn phê phán khiến cho tác phẩm của ông có sức công phá mạnh mẽ đối với xã hội thực dân nửa phong kiến; từ đó toát lên nhu cầu cần phải thay đổi tận gốc rễ cái xã hội tối tăm, mục ruỗng và tàn bạo ấy để trả lại chân dung thực sự cho con người.

Nguyên Hồng là một nhà văn có phong vị riêng. Người ta thường gọi ông bằng cái tên rất đỗi trìu mến “nhà văn của những người lao khổ”. Nguyên Hồng là một trong số những nhà văn hiện thực có quan điểm nghệ thuật rất rõ rệt ngay từ khi bước vào nghề văn. Với ông, quan niệm văn chương là “sự thực ở đời” luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ. Nguyên Hồng sớm nhận thức được mối quan hệ khăng khít giữa nhà văn với hiện thực, giữa tác phẩm văn học và cuộc đời. Nguyên Hồng đặc biệt hướng ngòi bút vào tầng lớp dưới đáy xã hội với một niềm ưu ái, cảm thông, trân trọng. Đó là lối đi riêng không giống với những nhà văn hiện thực cùng thời. Ngòi bút của ông chủ yếu hướng tới một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Điều đó bắt nguồn từ một quan niệm rất riêng về cuộc đời và con người của ông. Nguyên Hồng từng quan niệm đời là một chuỗi đau thương, đầy thương cảm nên những trang viết của ông thường đi sâu khai thác những nỗi khổ cực nhiều mặt của tầng lớp dân nghèo thành thị với một niềm cảm thông sâu sắc. Bỉ vỏ viết về cuộc sống của những kẻ “chạy vỏ”, sống trong vòng tội lỗi. Nhưng giữa cuộc sống đâm chém, cướp giật tưởng như không có tính người ấy lại ánh lên bao nét đẹp của tình nghĩa. Các nhân vật như xích lại gần nhau hơn để chở che, an ủi trước sóng gió cuộc đời. Trong cuộc sống thấp thỏm, lo âu vì sự săn đuổi của mật thám họ vẫn dành cho nhau những tình cảm trong sáng, lành mạnh, thủy chung, son sắt. Những nhân vật này vẫn giữ được bản chất người là do sự chi phối của tư duy nghệ thuật, trực tiếp là quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Có thể thấy rõ hơn điều này trong Bảy Hựu, Sông máu, Chín Huyền, những tác phẩm viết về kẻ ngoài vòng pháp luật, tuy sống lẩn lút trên bến sông, nhà ga… nhưng lại là những người có tấm lòng khẳng khái, giàu lòng hi sinh.

Nam Cao là nhà văn nhanh chóng đến với chủ nghĩa hiện thực với một quan điểm nghệ thuật tiến bộ: “nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sáng). Với quan điểm nghệ thuật này, Nam Cao đòi hỏi nghệ thuật phải trở về với hiện thực, phản ánh chân thật hiện thực. Nghệ thuật chân chính, nhà văn có lương tâm không thể nhắm mắt bịt tai trước nỗi khổ đau của nhân dân, trốn tránh sự thực “tàn nhẫn” mà phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy những vang động của đời” (Giăng sáng). Ngòi bút của ông đã thể hiện sâu sắc một khía cạnh mới khi miêu tả con người: Con người bị tha hóa bủa vây nhưng quyết không chịu tha hóa đến cùng. Đến Nam Cao, kiểu con người tha hóa được khai thác một cách toàn diện từ ngoại hình đến tâm lý, tính cách trên cơ sở một quan niệm khá sâu sắc, thấm đượm tinh thần nhân đạo.

Vượt hẳn các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao đã đem đến cho hình tượng con người cá nhân luôn biết tự vươn lên để hoàn thiện nhân cách của mình. Qua tác phẩm về đề tài tiểu tư sản, Nam Cao đã đưa ra một quan niệm khá đầy đủ và toàn diện về con người và sự phát triển của con người, trong đó điều cốt lõi nhất là ý thức về giá trị sự sống, ý thức về cá nhân. Nhà văn lên án kịch liệt lối sống có tính chất sinh học hằng ngày. Thứ trong Sống mòn phát biểu rõ tư tưởng đó: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng cần biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày”. Nam Cao cho rằng đó thực chất chỉ là “chết trong lúc sống”. Lên án lối sống bo bo, chật hẹp trong những chuyện cơm ăn áo mặc, Nam Cao hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa xã hội. Theo ông, con người phải có lý tưởng cao đẹp, phải có văn hóa. Con người phải sống cuộc sống có giá trị, có ý nghĩa đúng với cuộc sống của con người. Muốn đạt được cuộc sống ấy, trước hết con người phải có lý tưởng, hoài bão. Thứ (Sống mòn) từng có những “ước vọng cao xa”, bất đắc dĩ trở thành anh “giáo khổ trường tư” vẫn hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa. Hộ (Đời thừa) là một “gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp, đầu hắn mang một hoài bão lớn”. Không chỉ đề con người sống có lý tưởng, hoài bão, Nam Cao còn cho rằng cá nhân con người cần phải được khẳng định trước cuộc đời. Thứ (Sống mòn) nghĩ đến những phương kế để xếp đặt cho người với người ổn thỏa hơn với ý thức sâu sắc “phải có một trình độ học thức khá cao. Phải luyện tài, có học, có tài y mới đủ năng lực phụng sự cái lý tưởng của y”. Hộ (Đời thừa) cũng có ý tưởng gần như vậy. Tuy bị “áo cơm ghì sát đất” nhưng anh vẫn mơ ước có một tác phẩm có giá trị: Rõ ràng Nam Cao đặt vấn đề cá nhân với tư cách một nhân cách để nói lên niềm khát khao của những người trí thức tiểu tư sản muốn khẳng định mình trước cuộc đời. Và theo ông, nhân cách lớn nhất của con người là “phải diệt cho hết những kẻ ngồi không hưởng những thức của kẻ khác làm ra mà chẳng làm ra được cái gì”. Đó là nhân cách của những người không chịu làm nô lệ! Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết” cho những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Những Chí Phèo, những Lang Rận, những Binh Chức, Năm Thọ… tuy bị tha hóa, bị biến dạng về hình hài, phẩm chất nhưng ở họ vẫn là khát vọng làm người, khát vọng sống…

 

  1. Về hình tượng nhân vật:

2.1 Trong văn học lãng mạn:

Trong văn xuôi lãng mạn, các nhân vật, tình huống, hình ảnh được nhà văn sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu biểu hiện lí tưởng và tình cảm của tác giả. Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tăm tối, tầm thường; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp. Thạch Lam xúc động, trân trọng cái khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc hơn của những con người bé nhỏ bị lãng quên nơi phố huyện nghèo xưa. Nguyễn Tuân lại tìm thấy sự tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; sự vươn lên cái đẹp, cái thiên lương của một ngục quan, trong một nhà tù xã hội phong kiến xấu xa, suy tàn.

Nhân vật của văn xuôi lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng chủ quan của nhà văn và trực tiếp thể hiện tư tưởng của tác giả. Liên và An (Hai đứa trẻ – Thạch Lam) tuy còn nhỏ nhưng phải thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống. Hàng đêm các em lại cố thức để đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tầu với những toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như mang theo cả một thế giới khác đối lập với cái phố huyện tăm tối, tĩnh lặng. Nó như thắp lên trong tâm hồn của các em một niềm khát vọng dẫu mơ hồ nhưng thật xúc động, đáng trân trọng. Nhà văn muốn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ bị lãng quên trong xã hội cũ. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử từ (Nguyễn Tuân) giống như những nhân vật lí tưởng điển hình trong văn học phương Tây, đó là đại diện của tài năng, khí phách và thiên lương ngời sáng.

Văn học lãng mạn là tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân, các nhà văn lãng mạn thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân, đặt chúng cao hơn thực tế khách đời sống để thể hiện tư tưởng của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ lãng mạn có thể được coi là kiểu nhân vật điển hình của trào lưu văn học này.

Hiểu như thế nào là cái tôi cá nhân? Có thể nói cái tôi cá nhân là sự đề cao bản ngã cá nhân. Con người được nói đến ở đây là con người cụ thể với những tình cảm, những khát vọng, những quan điểm riêng về cuộc sống. Đối lập với cái tôi là cái ta – con người được nhìn nhận với tư cách là thành viên của một tập thể, một cộng đồng, không được nhìn nhận với tư cách con người cá nhân. Nền văn học trong khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến chủ yếu là nền văn học phi ngã, phủ định cái tôi. Những hiện tượng đề cao cái tôi, cái bản ngã như Hồ Xuân Hương, Cao Bá  Quát thì không được chấp nhận. “Thơ mới lãng mạn ra đời cũng mang theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hóa trong cảm thụ thẩm mĩ” (GS. Phan Cự Đệ). Cái tôi cá nhân ở chừng mực nào đó đã nói lên được một nhu cầu lớn về mặt giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nó làm cho thế giới tâm hồn ngày càn g mở rộng và phong phú hơn lên.

Đó là cái tôi cá nhân với nhu cầu giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nếu thơ ca trung đại gắn với hình ảnh con người phi ngã, con người trở thành phát ngôn của đạo lý, của tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức… thì con người trong thơ mới đã mở ra một thế giới nội tâm vô cùng phong phú  với những cung bậc tình cảm, những khát vọng, những đắm say và có cả những buồn đau hạnh phúc.

Đó có thể là niềm khao khát được sống một cách mạnh mẽ của cái Tôi cá nhân trong thơ Huy Thông, Xuân Diệu… Cái Tôi tự do của Xuân Diệu như một con “ ngựa trẻ không cương” cứ xông vào cuộc đời với những niềm hưng phấn, xúc cảm mãnh liệt. Nhà thơ kêu gọi tuổi trẻ phải sống mạnh mẽ, sống có bản lĩnh, hãy hưởng thụ cuộc sống trần gian đầy sắc hương hơn là giam mình trong cảnh sống im lìm, tẻ nhạt đầy vô vị:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

Em vui đi răng nở ánh trăng rằm

Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự”

(Giục giã)

Đó có thể là cái tôi cá nhân tự do cuả Nguyễn Bính  chính là sự rượt đuổi, kiếm tìm bằng một cốt cách đa tình, một đam mê không bờ bến trên hành trình kiếm tìm hạnh phúc.

“Chiều nay  … thương nhớ nhất chiều nay

Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy

Tôi uống cả em và uống cả

Một trời quan tái mấy cho say”

(Một trời quan tái)

Đó có thể là cái Tôi cá nhân của chàng Thế Lữ  khao khát tự do, vẫy vùng  giữa cảnh “núi non hùng vĩ”, thoát khỏi cảnh tù hãm sa cơ như tâm sự con hổ trong vườn bách thú;

“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta được phảng phất gần ngươi

-Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

(Nhớ rừng)

Và chỉ có trong Thơ mới là nói đến tình yêu. Và chỉ có trong tình yêu, cái Tôi cá nhân mới được thể hiện một cách triệt để nhất. Thơ xưa không bao giờ nói đến tình yêu nam nữ nên bước chân nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya” trở thành hiện tượng độc đáo đầy mai mỉa thì tình yêu trong Thơ mới chính là sự giải thoát khát vọng hạnh phúc đầy nhân văn của con người. Những từ “anh”, “em” mang đầy giá trị về cái Tôi cá nhân xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới. Tình yêu là đề tài chủ yếu mà các nhà thơ mới ai cũng bước chân vào và khám phá nó với nhiều cung bậc cả buồn đau lẫn hạnh phúc:

Những lưu luyến, bâng khuâng của buổi đầu gặp gỡ:

“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu”

(Xuân Diệu)

Sự say đắm, dào dạt trong tình yêu:

“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”

(Xuân Diệu)

Sự chán chường, thất vọng:

“Lòng anh như biển sóng cồn

Chứa muôn con nước nghìn con sóng dài

Lòng em như chiếc lá khoai

Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”

(Nguyễn Bính)

Đó còn là cái tôi cá nhân tìm cách thoát ly trong Thơ mới. Chủ thể của Thơ mới là những nhà trí thức Tây học đang hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi thể hiện mình, khẳng định mình như một cá nhân. Cùng với sự tiếp xúc và ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây đặc biệt là thơ lãng mạn Pháp, Thơ mới đã tạo nên những nét riêng và cá tính, phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Với những khát vọng được sống hết với những giá trị tốt đẹp của con người nhưng các nhà thơ mới lại phải đối diện với cuộc sống kim tiền đầy ô trọc của xã hội thực dân, các nhà Thơ mới nhanh chóng rơi vào trạng thái cô đơn, bơ vơ, không lối thoát. Tuy nhiên trong tiềm thức của họ vần âm thầm chảy mãi dòng suối văn hóa Việt và tâm hồn dân tộc. Bế tắc trước cuộc sống, họ  tìm đến những con đường thoát ly trong thơ mới. Cái tôi cá nhân được phân hóa ra làm nhiều kiểu, họ góp phần làm dấy lên một cuộc cách mạng trong văn chương và coi đó như là nơi tốt nhất để thực hiện khát vọng, giá trị riêng, coi văn chương “như một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa” (Trường Chinh). Nhìn chung, có những con đường thoát ly sau trong Thơ mới:

Trốn vào tình yêu là con đường phổ biến nhất của thơ ca lãng mạn đương thời mà tiêu biểu là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… các nhà thơ trốn vào tình yêu nhưng vẫn mang theo cái Tôi mong manh, đầy bất trắc:

Hãy  xếp lại muôn vàn ân ái

Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng…

(Lưu Trọng Lư)

Trốn vào quá khứ là con đường tìm về với những vẻ đẹp cổ xưa của văn hóa dân tộc mà tiêu biểu là Vũ Đình Liên, Huy Cận … Các nhà thơ tìm về với quá khứ như một sự chạy trốn khỏi hiện tại ngột ngạt nhưng rồi vẫn không dứt khỏi một cái Tôi cá nhân mang nặng nỗi ưu tư, ngơ ngác:

Lòng ta là những hàng thành quách cũ

Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa

(Vũ Đình Liên)

Trốn vào thế giới siêu hình của tôn giáo, trốn vào trụy lạc với những cơn say của rượu và khói thuốc phiện như trong thơ Vũ Hoàng Chương và điên loạn như trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê… nhưng vẫn hoài ám ảnh bởi cái Tôi cá nhân đầy sầu muộn, cô dơn:

“Say đi em! Say đi em!

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!

Nhưng em ơi

Đất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ

Đất trời nghiêng ngửa

Thành sầu không sụp đổ, em ơi!”

(Vũ Hoàng Chương)

Cái Tôi trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau nhưng ở đâu nó cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không có tương lai, chỉ thấy đất trời tối tăm mù mịt, đó là cái buồn, cái cô đơn ngay trong bản chất từ khi thơ mới cất tiếng chào đời. Hoài Thanh đã nhận xét: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với hàn mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận… Thực chưa bao giờ thơ Việt nam buồn và xôn xao đến thế.”

 

2.2 Thế giới nhân vật trong văn học hiện thực

Văn học hiện thực phê phán đã xây dựng thành công kiểu nhân vật lao động bị áp bức, bị dồn vào con đường tha hóa nhưng cố vượt lên với tinh thần phản kháng. Tắt đèn và Bước đường cùng thể hiện sức mạnh quật khởi vốn tiềm tàng trong nhân dân lao động. Đó là những tác phẩm có hệ thống nhân vật thể hiện cái nhìn con người “trên tinh thần giai cấp”. Chị Dậu bị dồn vào thế phải bán con, bán nhân phẩm nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của mình. Ngô Tất Tố đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp tiềm ẩn của người nông dân. Nguyễn Công Hoan lại là nhà văn có ý thức đưa vào tác phẩm hình ảnh của người nông dân sớm giác ngộ tinh thần đoàn kết, lòng hữu ái giai cấp. Những người nông dân giàu tinh thần phản kháng này là hình tượng đẹp của tác phẩm.

Kiểu nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị tự lao vào tha hóa đến mất hết tính người cũng xuất hiện nhiều trong các sáng tác của văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Với những hình tượng nghị Quế, nghị Lại, nghị Hách, Bá Kiến, các nhà văn hiện thực có điều kiện lách sâu vào ung nhọt xã hội. Ngòi bút của các nhà văn trở thành vũ khí chiến đấu, giáng vào đầu bọn quan tham lại nhũng, địa chủ phong kiến, tư sản mại bản những đòn hiểm. Những hình tượng điển hình về nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam đã “miêu tả đúng đắng những quan hệ thực tế, nó phá vỡ được những ảo tưởng có tính chất quy ước và đang thống trị nó về bản chất của các quan hệ này, làm lung lay được cái tinh thần lạc quan của thế giới tư sản gieo rắc hoài nghi về tính chất bất biến của những cơ sở của trật tự hiện tồn” (Mác – Ăng ghen – Lênin bàn về văn học và nghệ thuật).

Từ quan niệm đời là “bát nháo”, “vô nghĩa lý”, bằng nghệ thuật trào phúng, Vũ Trọng Phụng xây dựng được nhiều kiểu nhân vật mới – sản phẩm của xã hội Âu hóa, tái tạo được bức tranh hiện thực xã hội tư sản với nhiều nỗi đắng cay, ai oán. Bên cạnh đó, ông không quên khơi gợi ở các nhân vật của ông ý thức làm người chân chính, góp phần hoàn thiện nhân cách người đương thời. Ông viết: “Tôi quan niệm văn chương là một phương tiện tranh đấu của những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người những nỗi bất công, nhân lên trong lòng người nỗi xót thương đối với những người bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đọa vào cảnh ngu tối, bị bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ bữa ăn tối để nhịn sáng hôm sau”. Vì vậy, các nhân vật điển hình bị tha hóa của ông, mặc dầu bị chi phối bởi hoàn cảnh nhưng vẫn tự nhìn lại mình, đối thoại với chính mình để giận mình và giận đời như Thị Mịch (Giông tố). Huyền (Làm đĩ) là nhân vật trượt dài theo số phận nhưng vẫn thường căn vặn: “Vì lẽ gì em đến nỗi trụy lạc”. Phúc trong Trúng số độc đắc, khi sống trong cảnh giàu sang vẫn cảm thấy chẳng vui vẻ chút nào! Viết về các nhân vật này, Vũ Trọng Phụng hẳn mong muốn một ngày kia họ sẽ nhận thức lại được hành động của mình, rồi sẽ thay đổi, làm người có nhân cách.

Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng và nhân vật Chí Phèo của Nam Cao lại tiêu biểu cho kiểu loại nhân vật bị tha hóa nhưng quyết không chịu tha hóa đến cùng. Trong tác phẩm của Nam Cao, kiểu con người tha hóa được khai thác một cách toàn diện và triệt để. Tha hóa và chống lại tha hóa, các nhân vật đã phải trả một cái giá rất đắt cho chính mình. Nguyên Hồng và Nam Cao đã cố gắng đi tìm những nét đẹp còn ẩn sâu trong tâm hồn của những con người bị tha hóa- một quan niệm rất tiến bộ của các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam.

Văn học hiện thực phê phán với đối tượng thẩm mỹ mới của mình đã sáng tạo được một kiểu nhân vật mới – những người trí thức. Từng ôm ấp những hoài bão lớn, từng mơ ước và mơ ước đó là chính đáng, nhưng những nhân vật đó đều phải gò mình trong hoàn cảnh, bị hoàn cảnh níu kéo. Bi kịch của họ là cuộc giằng xé dai dẳng, giữa một bên là khát vọng cao cả và một bên là cuộc sống tầm thường. Thứ, Điền, Hộ là những người trí thức đầy ước mơ, hoài bão, vật lộn trong những lo toan của đời thường, họ đều rơi và bi kịch vỡ mộng. Chính điều này đã tạo ra phương diện tinh tế của văn học. Nam Cao đã nói về họ với sự cảm thông sâu sắc và hiểu biết thực sự.

 

  1. Về nghệ thuật phản ánh: Sự so sánh chỉ trong phạm vi các thể loại văn xuôi
  2. 1.Văn học lãng mạn thường sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương, phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc.

Lấy ví dụ trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, cảnh tượng cho chữ là một đoạn văn giầu kịch tính, sử dụng thành công nghệ thuật đối lập, tương phản:

+ Đối lập tương phản về cảnh:

– Về không gian: Chơi chữ là một thú chơi tao nhã thường được diễn ra ở các thư phòng, lại được diễn ra tại phòng giam “Tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.

– Về thời gian: Cảnh cho chữ lại không diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật lại được diễn ra lúc nửa đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù Huấn Cao.

– Tương phản với cái tăm tối, bẩn thỉu ấy là ánh sáng: ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, là mầu trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, là mùi thơm của chậu mực bốc lên. Tuyệt vời hơn tương phản với cái tăm tối ấy của ngục thất là sự sáng tạo ra cái đẹp: cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của tài năng, của dũng khí và nhân cách.

+ Tương phản về nhân vật: Vị thế và tư thế của các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng có sự thay bậc, đổi ngôi:

– Huấn Cao là một người tù, “cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa bạch trắng tinh” nhưng phong thái ung dung, đĩnh đạc của một người tự do nhất, uy quyền nhất vì ông là người sáng tạo ra cái đẹp, tượng trưng cho cái đẹp và phẩm giá của con ng. Ông đang viết những con chữ cuối cùng cho đời nhưng không phải đi vào cõi chết mà đi vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách và nhân cách của ông đang được người tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương.

– Viên quản ngục là người có uy quyền nhất lại đang “khúm núm” nhặt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô cho người tử tù viết chữ. Đây không phải là cử chỉ sợ sệt luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, trân trọng những dòng chữ cuối cùng của Huấn Cao. Nhưng nét chữ vuông, tươi tắn nó nói nên cái hoài bão tung hoành của một đời con người, những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của một con người mà ông từng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đẹp phi thường thì bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên lương mà người tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan khúm núm và ngục quan vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”, đây là cái vái lậy trước một nhân cách hiếm có cùng với lời thề danh dự. Có thể khi HC bị giải vào kinh chịu án chem cũng là lúc viên quản ngục trả áo mũ để về quê để giữ thiên lương cho lành vững bởi con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương.

– Thầy thơ lại là một người tự do nhưng lại run run bưng chậu mực giúp HC viết chữ. Ông run run vì xúc động và trân trọng “giờ phút thiêng liêng xưa nay chưa từng có” này.

+ Những từ ngữ Hán-Việt cổ kính như thiên lương, bức châm, bái lĩnh được sử dụng nhuần nhiễn vừa phù hợp với không khí, cảnh tượng vừa góp phần tạo nên sự thiêng hóa nhân vật theo bút pháp lãng mạn.

Thạch lam trong Hai đứa trẻ cũng sử dụng rất đắt thủ pháp tương phản:

+ Tương phản giữa bóng tối và ánh sáng:

– Bóng tối: Khi chiều muộn ánh sáng còn yếu ớt. Khi màn đêm buông xuống bóng tối cứ lan dần, lấn dần từng con phố, từng ngõ xóm để rồi nhấn chìm phố huyện trong màn đêm: “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra song, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối được gợi đi, gợi lại như những nét vẽ phong phú như một mô típ đầy ám ảnh, ám ảnh nhất là khi bóng tổi như một bức tường dầy cản cả âm thanh khiến “trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối.

– Ánh sáng của phố huyện lúc này chỉ là những khe sáng từ nhà ai hắt ra; là hột sáng của những ánh đèn tù mù vặn nhỏ; là chấm sáng từ ánh đèn cuối toa tầu. Tất cả để nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm trong bóng tối. Nếu ví tác phẩm của Thạch Lam như một bài thơ, lại là bài thơ hay thì phải có “thi nhãn” tức con mắt thơ tỏa sáng cả thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đâu là con mắt thơ trong tác phẩm ? Đó là ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, là chi tiết nghệ thuật giầu ý nghĩa. Ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí, ngọn đèn con của chị Tí, vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ngọn đèn con tù mù leo lét ấy chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đó vừa là hình ảnh thực nhưng đồng thời gợi sự liên tưởng tới những kiếp người nhỏ bé bị lãng quên đang sống lay lắt trong đêm trường xã hội cũ. Những cư dân phố huyện kiếm sống trong đêm, mỗi người cần đem theo một ngọn đèn và chính họ cũng như những ngọn đèn leo lét. Đó là hình ảnh những ngôi sao lấp lánh, cũng được miêu tả nhiều lần. Trời bắt đầu vào đêm “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Càng về khuya, “qua kẽ lá của cây bang, ngàn sao vẫn lấp lánh”. Và khi con tầu đi qua, tiếng vang động nhỏ dần, mất dần trong bóng tối thì “sao trên trời vẫn lấp lánh”. Sự tương phản giữa ánh sap lấp lánh trên trời với ánh đèn tù mù dưới mặt đất đã làm vút lên một niềm tin và một chất thơ lãng mạn. Điều đó cần thiết biết bao trong hoàn cảnh con người đang phải sống lay lắt trong bóng tối, trong nghèo khổ, lam lũ, tẻ nhạt và bế tắc.

+ Tương phản quá khứ, hiện tại ( của Liên ), nhờ đó bộc lộ được chủ đề tác phẩm. Hiện tại nghèo khổ: “ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”. Quá khứ vui vẻ : “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội, chị được hưởng những thức quà ngon, lạ – bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền – được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”…

 

3.2 Trong văn học hiện thực

Văn học cổ thường xây dựng các nhân vật có chức năng thực hiện quan điểm thẩm mỹ truyền thống trên cơ sở “văn dĩ tải Đạo”. Đây là kiểu nhân vật điển hình của một phương diện, điển hình về loại, chưa phải là điển hình về tính cách. Văn học lãng mạn lại chú ý đến cái riêng, đến cá tính, tâm trạng bên trong của nhân vật. Nhân vật của chủ nghĩa hiện thực lại là con người bình thường, con người lịch sử cụ thể. Giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn sự phát triển nhảy vọt của cá nhân, của ý thức “cái Tôi”. Văn học phản ánh nhân vật như một tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình tạo nên nghệ thuật đặc sắc của văn học hiện thực phê phán.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán rất chú trọng yếu tố khách quan- đối tượng phản ánh của tác phẩm văn học. Các nhà văn hiện thực phê phán đều lấy những điển hình đời sống, điển hình xã hội cộng với cái Tôi có tinh khuynh hướng để xây dựng nên những điển hình văn học. Họ đặc biệt chú ý đến nguyên mẫu. Các nhà văn hiện thực phê phán rất chú trọng xây dựng các loại hình nhân vật điển hình mà tựu trung lại có 3 loại hình chính sau:

Điển hình hóa nhân vật chính diện:  Chị Dậu là hình ảnh của một nhân vật chính diện tiêu biểu của văn xuôi hiện thực phê phán. Đây là kiểu nhân vật gần với truyền thống, được xây dựng theo khát vọng của nhân dân : nhân vật chính diện bao giờ cũng đẹp và được thể hiện với bút pháp lý tưởng. Vì vậy, nhân vật trung tâm ở đây là dạng nhân vật điển hình mà phần khái quát hóa thành công hơn phần cá thể hóa. Nhà văn thường chú trọng miêu tả ngoại hình hơn là nội tâm. Ngô Tất Tố là trường hợp tiêu biểu.

– Điển hình hóa nhân vật phản diện: Chọn nhân vật phản diện làm nhân vật trung tâm, văn học hiện thực phê phán thành công trong cách phản ánh các tưởng phản quái gở của thời đại. Nguyễn Công Hoan rất có sở trường về điển hình hóa nhân vật phản diện. Ông thường tô đậm một số nét điển hình của loại nhân vật này và phóng đại lên để người đọc dễ nhận diện. Điển hình hóa nhân vật nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một nhân vật phản diện với nhiều đức tính xấu, thậm chí cực xấu. Như vậy, tính cách điển hình của hắn hiện nguyên hình là một kẻ thống trị gian hùng và khả ố. Hình tượng nghị Hách là hình tượng trung tâm và nổi bật của tác phẩm lấn át nhân vật chính diện. Điển hình hóa nhân vật Bá Kiến, Nam Cao tập trung miêu tả tính cách nham hiểm hơn là chú trọng miêu tả hình thức. Với các nhân vật phản diện này, văn xuôi hiện thực phê phán đã làm được một sứ mệnh rất cao cả đó là nhìn thấy và vạch rõ chân tướng cũng như bản chất của giai cấp thống trị và dự báo dự sụp đổ không tránh khỏi của chúng.

– Điển hình hóa nhân vật dị dạng: Điển hình hóa nhân vật dị dạng trở thành một đóng góp đáng kể của văn xuôi hiện thực phê phán, mà tiêu biểu hơn cả là sáng tác của Nam Cao. Ông hay ví von so sánh con người ứng với loài vật, đồ vật. Những nhân vật này bị hoàn cảnh làm méo mó đến mất cả nhân hình : xấu xí, dị dạng. Trong khi và đồng thời với việc đặt các nhân vật dị dạng thành nhân vật trung tâm của tác phẩm, nhà văn đã để cho các nhân vật bình thường khác xuống hàng thứ yếu, hoặc trong mối quan hệ khăng khít với nhân vật dị dạng để tô đậm thêm cuộc đời của kiểu nhân vật này. Nam Cao chú trọng miêu tả sự băng hoại về mặt hình thức để nói lên sự tha hóa về mặt tâm hồn. Bằng bút pháp cường điệu, lố bịchhóa nhân vật, tác giả tô đậm thêm tính bi kịch có tính quy luật của một lớp người là nạn nhân của hoàn cảnh.

Bên cạnh nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, văn học hiện thực phê phán cũng rất chú trọng tới nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật và xây dựng thành công các chi tiết nghệ thuật. Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như vậy, nguyên tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong Mua nhà, Nam Cao không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu vào những suy nghĩ, dằn vặt, những ân hận, dày vò của nhân vật người kể chuyện về tình trạng “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. Đời thừa cũng không hướng vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Cho nên, trước khi bán một con chó, lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ sông, cứ “vẩn vơ nghĩ mãi”. Còn Thị Nở, người đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường muốn ngủ hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi, thị cứ “lăn ra lăn vào”.v.v… Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà còn theo dõi, phân tích quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say, dở tỉnh, dở khóc, dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú đa dạng với nhiều sắc thái tinh vi. Những cảnh thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoáng nhìn tưởng chỉ thuần tuý những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo lên những mảnh tâm hồn của nhân vật. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.

            Thời gian nghệ thuật của văn xuôi hiện thực phê phán là thời gian hiện thực hàng ngày (không có thời gian tương lai), đôi khi tương lai cũng lóe lên nhưng rồi tắt ngấm. Để khắc họa tính cách của những nhân vật điển hình rơi vào hoàn cảnh bế tắc thì thời gian thường là thời gian dồn nén (tận cùng, cuối tuần, cuối ngày, cuối năm, cuối vụ thuế), làm tăng thêm tình trạng gay gắt của hoàn cảnh, tạo điều kiện để nhân vật bộc lộ tính cách (thời gian trong Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố). Thời gian trong Giông tố là thời gian bất thường, không ổn của các nhân vật. Ngay sau thời điểm đó, cuộc đời của các nhân vật chuyển sang một hướng khác mà thường là theo hướng tiêu cực. Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê, Trúng số độc đắc lại tiêu biểu cho thời gian gấp gáp như sự đảo lộn của cuộc đời. Thời gian nghệ thuật đa tuyếnlà một cách tân của văn xuôi hiện thực phê phán (Giông tố, Trúng số độc đắc, Sống mòn, Bỉ vỏ).

Trong văn học hiện thực phê phán nổi bật lên là không gian tù túng, quẩn quanh dồn ép con người, không gian của những người bần cùng, của những người dưới đáy vô vọng. Không gian riêng tư cá nhân – không gian điểm còn được miêu tả rất đậm nét trong nhiều tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm của dòng văn học này nổi bật lên sự đối lập một cách gay gắt giữa không gian với con người, tạo nên một kiểu khong gian cô đặc lại, bủa vây con người: hình ảnh của mặt trời, bầu trời. Văn học hiện thực phê phán còn có xu hướng viết về không gian mở (Vỡ đê, Người tù được tha). Đặc điểm nổi bật ở văn xuôi hiện thực phê phán là khi nhân vật điển hình ở trong hoàn cảnh hẹp thì tính cách thường sinh động, nếu tách nhân vật ra khỏi hoàn cảnh hẹp, nhân vật không sinh động nữa. Sự biến đổi của không gian làm cho nhân vật của văn học hiện thực phê phán bị hẫng hụt, biến đổi, dễ trôi theo dòng nước cuốn (Chí Phèo, Tám Bính, Thị Mịch).

            Trong văn học hiện thực phê phán, nhà văn cá tính hóa nhân vật bằng ngôn ngữ. Ngô Tất Tố đặc tả giọng điệu của nghị Quế : giọng điệu lạnh tanh, kẻ cả, của lối “văn minh làng quê”. Mỗi nhân vật của Vũ Trọng Phụng có một thứ ngôn ngữ riêng, không thể lẫn vào đâu được ( giọng điệu của nghị Hách, giọng điệu của Xuân tóc đỏ). Vũ Trọng Phụng còn dùng tiếng nhại để đối tượng phải tỏ mặt thật. Giọng điệu nhại trở thành thủ pháp chủ đạo của tác phẩm hài hước. Nghệ thuật trào lộng trong tác phẩm Nam Cao thường dùng hình thức đa giọng điệu (song thanh) để châm biếm hay tự giễu nhân vật (Chí Phèo, Sống mòn). Đến văn học hiện thực phê phán, ngôn ngữ nhân vật, giọng điệu nhân vật được sử dụng một cách uyển chuyển, linh hoạt nhiều bình diện, đa sắc màu, phong phú như cuộc đời, góp phần khắc họa tính cách nhân vật điển hình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN KẾT LUẬN

 

Trào lưu văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 chỉ tồn tại trong một thời gian rồi mất đi. Nhưng không thể phủ nhận đó là những hiện tượng văn học như những ánh sao chổi vụt qua bầu trời văn học Việt Nam dù chỉ trong khoảnh khắc nhưng dư ảnh của nó vẫn còn và tiếp tục tỏa sáng cho  những chặng đường tiếp theo của văn học nước nhà. Bằng những đóng góp xuất sắc cả về nội dung và hình thức, giá trị của các trào lưu văn học trên đã được khẳng định. Cho dù đã có những cuộc tranh cải quyết liệt trên văn đàn, những luồng ý kiến quan điểm trái ngược nhiều chiều, có khi mò mẫn trong việc tìm con đường đi, nhưng hơn hết các trào lưu văn học là minh chứng hùng hồn cho đỉnh cao của sự phát triển của nền văn học Việt Nam một giai đoạn, là động lực thúc đẩy cho văn học của chúng ta tiến xa hơn để bắt nhịp kịp với thời đại của nền văn học thế giới.

Trên đây là những cảm nhận, đánh giá chung và bước đầu so sánh sự khác biệt trong phương thức phản ánh của văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 trong một giai đoạn mà bối cảnh lịch sử, xã hội có nhiều biến động. Qua chuyên đề này, chúng tôi hi vọng có thể cung cấp một cái nhìn cụ thể hơn với những biểu hiện về nội dung và thi pháp của văn học nước nhà trong khoảng thời gian mười lăm năm cuối cùng, hoàn tất quá trình hiện đại hóa. Cũng qua đây, người đọc (trong đó đặc biệt là học sinh ) sẽ có điều kiện cụ thể hóa cho một số khái niệm lí luận văn học đã được trình bày ở sách giáo khoa, giúp các em có hứng thú hơn với những bài lí luận văn học, đồng thời thấy được tầm quan trọng của việc nắm bắt các khái niệm lí luận sẽ góp phần rất lớn trong việc tìm hiểu giá trị của các tác phẩm văn chương.

Trong quá trình thực hiện chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô góp ý để bổ sung, chỉnh sửa giúp cho bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

THƯ MỤC THAM KHẢO

 

  1. 1. Phương Lựu- La Khắc Hòa- Trần Mạnh Tiến: Lí luận văn học, tập 3- Nxb Đại học sư phạm- 2011.
  2. Nguyễn Ðình Chú – Lê Trí Viễn: Lịch sử văn học Việt Nam – Nxb Giáo dục, H.1978.
  3. Lại Nguyên Ân:Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm Mới và Hội nhà văn Xbh, 1984.
  4. Phan Cự Ðệ: Tác phẩm văn học 1930-1945 – Nxb Khoa học xã hội – H. 1990
  5. Hà Minh Ðức: Lời giới thiệu: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 28A – Nxb Khoa học xã hội… H.1994.
  6. Nguyễn Hoành Khung: Lời giới thiệu: Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945 – Nxb Khoa học xã hội-H.1989.
  7. Lê Ðình Kỵ: Phương pháp sáng tác – Trường Ðại Học tổng hợp Tp Hồ Chí Minh -1994.
  8. Trường Chinh: Về văn hoá và nghệ thuật – Nxb Văn học. H.1985.
  9. Phan Cự Ðệ: Tự Lực Văn Ðoàn – Con người và văn chương – Nxb Văn học – H.1990.
  10. Hà Minh Ðức: Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại- Nxb Khoa học Xã hội-H.1974.
  11. Phan Cự Ðệ-Nguyễn Ðức Ðàn: Ngô Tất Tố – Nxb Văn hóa – 1962.
  12. Lại Nguyên Ân biên soạn: Vũ Trọng Phụng tài năng và sự thật – Nxb Hội nhà văn – 1992.
  13. Nguyễn Tiến Quỳnh: Nam Cao-Vũ Trọng Phụng – Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh-1994.
  14. Vũ Tuấn Anh: Phong cách truyện ngắn Nam Cao, Báo Quân đội nhân dân thứ bảy, số 76, 1991.
  15. Nguyễn Duy Bình: Trao đổi về mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán, tạp chí Văn học, số 9, 1968.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *