Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 4

Tài liệu Văn

 

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, HIỂU CÁC TÁC PHẨM

NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

 

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài:…………………………………………………………………..  4

2.Lịch sử vấn đề:………………………………………………………………………  5

3.Mục đích của đề tài:……………………………………………………………….  6

4.Phạm vi nghiên cứu:…………………………………………………………………..  7

5.Phương pháp nghiên cứu:…………………………………………………………  7

6.Cấu trúc của đề tài:…………………………………………………………………. 7

NỘI DUNG

Chương I. Một số vấn đề về đọc hiểu và kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học

  1. Đọc hiểu văn bản:…………………………………………………………………. 8

1.1.Khái niệm đọc hiểu:…………………………………………………………………..  8

1.2.Đối tượng đọc hiểu:…………………………………………………………………..  8

1.3.Mục tiêu đọc hiểu:………………………………………………………………….. 8

1.4.Nội dung đọc hiểu:………………………………………………………………….. 9

  1. Kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học:………………………………………………… 9

2.1.Khái niệm kĩ năng đọc hiểu:………………………………………………………. 9

2.2.Văn bản văn học – đối tượng đọc hiểu đặc thù:…………………………………… 10

2.2.1.Khái niệm văn bản văn học:…………………………………………………… 10

2.2.2.Đặc trưng của văn bản văn học:……………………………………………….  10

2.2.3.Con đường tìm nghĩa của văn bản văn học:……………………………………  11

2.3.Các bước tiến hành đọc hiểu văn bản:…………………………………………….. 11

  1. Kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học theo đặc trưng thể loại:………………….. 13

3.1.Kĩ năng đọc hiểu văn bản thơ:……………………………………………………  13

3.1.1.Đặc trưng của thơ:……………………………………………………………..  13

3.1.2.Yêu cầu với đọc thơ:…………………………………………………………… 15

3.2. Kĩ năng đọc hiểu văn bản truyện:………………………………………………   22

3.2.1.Đặc trưng của truyện:………………………………………………………….  22

3.2.2. Yêu cầu với đọc truyện:……………………………………………………….   23

Chương II: Rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn

1.Vai trò của các tác phẩm văn học ngoài chương trình với học sinh chuyên văn:…………………………………………………………………………………..  27

2.Thực trạng của việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình của học sinh chuyên văn hiện nay:……………………………………………………………….. 27

2.1. Xu hướng đọc để giải trí – cơn bão truyện ngôn tình:…………………………….. 28

2.2.Xu hướng đọc các cuốn sách, các tác phẩm “thời thượng”:…………………… ..28

2.3.Xu hướng đọc theo kiểu “ăn xổi”, “cưỡi ngựa xem hoa”:……………………… 28

2.4.Xu hướng ngại đọc các tác phẩm văn học cổ điển:…………………………….. ..29

3.Tiêu chí chọn đọc các tác phẩm ngoài chương trình:………………………….. 29

3.1.Tiêu chí thứ nhất:………………………………………………………………… 30

3.2.Tiêu chí thứ hai:………………………………………………………………….. 30

3.3.Tiêu chí thứ ba:…………………………………………………………………… 31

4.Cách thức rèn học sinh kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình:… 32

4.1.Những nguyên tắc chung:……………………………………………………… 32

4.2.Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh qua một số tác phẩm văn học cụ thể:……………………………………………………………………………. 33

4.2.1.Bài thơ Bóng chữ (Lê Đạt):…………………………………………………….. 34

4.2.2.Truyện ngắn Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư):………………………..    43

4.2.3.Tiểu thuyết Anna Karenina (Lev Tolstoy):…………………………………..    52

Chương III. Hệ thống bài tập giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình

1.Dạng bài tập nhận biết văn bản:…………………………………………………………………  61

2.Dạng bài tập đọc hiểu toàn bộ văn bản:………………………………………………………  67

3.Dạng bài tập đánh giá văn bản:………………………………………………………………….  68

  1. Dạng bài tập “trải nghiệm, thức nhận”:……………………………………………………. 69

KẾT LUẬN:…………………………………………………………………………. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:…………………………………………… 72

 

 

 

 

 

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, HIỂU CÁC TÁC PHẨM

NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

Phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm là triết lí giáo dục hiện đại. Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông thực chất là tích cực hóa hoạt động của học sinh, giải phóng tiềm năng sáng tạo của người học, nhằm giúp từng cá nhân tự chiếm lĩnh kiến thức, phát triển nhân cách ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Nói riêng bộ môn Ngữ văn, nhiệm vụ cốt yếu trong đổi mới phương pháp dạy học là phải rèn luyện cho học sinh kĩ năng, năng lực đọc hiểu tác phẩm. Do yêu cầu chuyên sâu nên đối với lớp chuyên Ngữ văn, rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh không chỉ dừng lại ở việc đọc hiểu những tác phẩm được học chính thức trong chương trình sách giáo khoa mà bao gồm cả những tác phẩm văn học ngoài chương trình. Bởi kiến thức tác phẩm văn học ngoài chương trình đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết về văn học cho học sinh. Mặt khác, việc đọc nhiều cũng đồng nghĩa với việc giúp các em có được những trải nghiệm về cuộc sống thông qua những câu chuyện, những số phận con người hay những tâm tư, những nỗi niềm cảm xúc mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Sự trải nghiệm đó đem đến cho các em những nhận thức sâu sắc về đời sống, bồi dưỡng ở các em khả năng rung động, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn, tình cảm cho các em. Bên cạnh đó, vốn văn học phong phú sẽ giúp các em có những cảm thụ, bình giá sâu sắc, mới mẻ, tránh được sự sáo mòn, khuôn mẫu trong khi viết văn.

Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của đổi mới phương pháp bộ môn, cùng với yêu cầu từ thực tiễn giảng dạy chúng tôi đã tiến hành biên soạn chuyên đề “Rèn kĩ năng đọc, hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn”.

Đề tài có sự góp ý, trao đổi của các đồng nghiệp và học sinh, nên trong đề tài, tôi xin dùng từ “chúng tôi” để thể hiện sự đóng góp của các thầy cô, học trò, giúp đề tài này được triển khai một cách đầy đủ, thực tế nhất.

  1. Lịch sử vấn đề

Vấn đề đọc hiểu ở Việt Nam từ trước đến nay đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Thanh Hùng, Trần Đình Sử, Đỗ Ngọc Thống, Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phương Nga, Nguyễn Thái Hoà, Phạm Thị Thu Hương, Nguyễn Trọng Hoàn,… tiêu biểu là tác giả Nguyễn Thanh Hùng với nhiều công trình có giá trị.

Đầu tiên phải kể tới cuốn “Kĩ năng đọc Văn” do NXB ĐHSP xuất bản năm 2011. Đây là công trình có giá trị về mặt khoa học, trình bày tương đối đầy đủ, súc tích, rõ ràng các nội dung cơ bản về vấn đề đọc hiểu văn bản, như lí luận về đọc hiểu, khái niệm đọc hiểu, các bình diện của đọc hiểu, nội dung và cách thức đọc hiểu, kĩ năng đọc hiểu.

Trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn chương” tác giả tiếp tục phân tích kĩ mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận của công chúng. Đọc là một khâu trong quá trình tiếp nhận, đó là hoạt động chuyển đổi tác phẩm nghệ thuật thành một vũ trụ tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ trong tư duy hình tượng cho riêng mình. Đọc văn thực sự là một khoa học và nghệ thuật của tư duy ngôn ngữ liên tục được sáng tạo trong mỗi văn bản nghệ thuật. Dù đọc theo phương thức nào thì cái đích cuối cùng phải phải đạt được là hiểu văn.

Trong bài viết “Năng lực đọc hiểu tác phẩm văn chương của học sinh THPT”, tác giả Nguyễn Thanh Hùng cũng lí giải: đọc văn chương là giải quyết vấn đề tương quan của các cấu trúc tồn tại trong tác phẩm. Trước hết là cấu trúc ngôn ngữ, tiếp đến là cấu trúc hình tượng thẩm mĩ và cuối cùng là cấu trúc ý nghĩa

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong dạy học Ngữ văn hiện nay đã chỉ ra bản chất của môn Văn và việc dạy Văn của các nước phát triển trên thế giới chính là môn Đọc văn. Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính (…). Đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất”. Như thế đọc là một hoạt động văn hóa có tầm nhân loại và ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Trong bài “Đọc hiểu văn bản nghệ thuật trong giờ Ngữ văn nhìn từ hoạt động học tập của học sinh” tác giả Đỗ Huy Quang cho rằng: “Học văn phải đọc văn. Nhưng từ đọc đến hiểu là một khoảng cách quá lớn, phải có thầy giáo giúp đỡ”. Từ cách hiểu đó nên đã tồn tại quan niệm sai lầm về vấn đề đọc văn và hiểu văn. Học sinh luôn thụ động lĩnh hội lời giảng của thầy cô mà không phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong việc đọc và hiểu tác phẩm.

Có thể thấy, từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết về vấn đề đọc hiểu ở nhà trường phổ thông với sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình đã khai thác vấn đề theo hai hướng: So sánh chương trình đọc hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông trong nước và thế giới; hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông. Phạm vi nghiên cứu của các công trình đều ở cấp độ vĩ mô, chủ yếu đề cập đến vấn đề dạy đọc hiểu các tác phẩm trong chương trình, áp dụng cho đối tượng học sinh phổ thông, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập với vấn đề rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho các học sinh khối chuyên văn. Điều đó dẫn tới nguồn tài liệu tham khảo nghèo nàn, khiến không ít các thầy cô còn gặp nhiều khó khăn trong việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh chuyên văn. Bởi vậy chúng tôi đã thực hiện viết chuyên đề “RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, HIỂU CÁC TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN” nhằm đem đến một tài liệu hữu ích phục vụ quá trình dạy và học môn Ngữ văn nói chung.

  1. Mục đích của đề tài

– Thứ nhất, với học sinh, mục đích của đề tài này là cung cấp cho các em những tri thức nền tảng về kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học, từ đó hướng đến việc tự đọc lâu dài, đồng thời tự đọc bất kì một tác phẩm văn học nào; kết hợp giữa rèn kĩ năng đọc hiểu với vận dụng kiến thức đọc hiểu vào quá trình thực hành viết văn.

– Thứ hai, với giáo viên, đề tài này cung cấp những định hướng cơ bản, đầy đủ về cách thức rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm nói chung, tác phẩm ngoài chương trình nói riêng cho học sinh chuyên văn.

  1. Phạm vi nghiên cứu

Trong đề tài này, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn, trong đó chúng tôi hướng trọng tâm tới vấn đề đọc hiểu các tác phẩm thơ, truyện; cùng với hệ thống kĩ năng đọc hiểu là khâu kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu thông qua các dạng bài tập cụ thể.

  1. Phương pháp nghiên cứu

– Trong đề tài này, chúng tôi lựa chọn và sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:

+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết

+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm

– Trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm thực tiễn (thực tiễn dạy và học) là hai phương pháp quan trọng nhất giúp chúng tôi hoàn thành được nhiệm vụ của đề tài.

  1. Cấu trúc của đề tài

Nội dung của đề tài bao gồm 3 phần:

Chương I. Một số vấn đề về đọc hiểu và kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học

Chương II: Rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn

Chương III. Hệ thống bài tập giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình

 

 

 

 

 

 

NỘI DUNG

Chương I. Một số vấn đề về đọc hiểu và kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học

  1. Đọc hiểu văn bản

1.1. Khái niệm đọc hiểu

Đọc hiểu là nội dung khoa học của lí thuyết đọc sách và đọc văn. Đọc hiểu văn bản là một chuỗi hoạt động với mục đích học tập, lĩnh hội tri thức. Là hoạt động nên để đọc hiểu văn bản đạt hiệu quả, người đọc – người thực hiện hoạt động – cần có một hệ thống kĩ năng cơ bản phù hợp. Hoạt động đọc hiểu văn bản là hoạt động tư duy có tính chất đặc thù, phức tạp. Đến nay vẫn tồn tại nhiều khái niệm đọc hiểu khác nhau. Tuy nhiên các ý kiến đều đồng nhất quan điểm đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ một chuỗi hoạt động tư duy, có ý thức của con người, với đối tượng và mục tiêu rõ ràng. Đồng thời, đọc hiểu cũng là một khái niệm chỉ năng lực đọc ở mức độ cao – mức độ hiểu – của chủ thể hoạt động.

Trên thực tế có nhiều học sinh đọc mà không hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo văn bản. Cần lưu ý rằng đọc hiểu không chỉ đơn giản là đọc thành tiếng mà còn phải phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó.

1.2. Đối tượng đọc hiểu

Đối tượng của hoạt động đọc hiểu là các loại văn bản với sự đa dạng về nội dung và dạng thức tồn tại. Văn bản có thể là VB ngôn ngữ, có thể là biểu đồ, hình ảnh, biểu tượng, có thể kết hợp các dạng thức trên. Về nội dung, cuộc sống có bao nhiêu vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau thì có bấy nhiêu dạng nội dung văn bản là đối tượng của đọc hiểu, từ lĩnh vực khoa học, xã hội, đời sống, nghệ thuật, tâm linh,…

1.3. Mục tiêu đọc hiểu

Mục tiêu của hoạt động đọc hiểu nói chung là tiếp thu, lĩnh hội, hiểu rõ và vận dụng nội dung đọc được, kết quả của hoạt động đọc vào cuộc sống, phát triển năng lực và góp phần hoàn thiện nhân cách con người. Mục tiêu của đọc hiểu trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông là hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu văn bản, giúp học sinh có năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực tiếp nhận, lĩnh hội và sử dụng thông tin, năng lực ngôn ngữ.

1.4. Nội dung đọc hiểu

Nội dung đọc hiểu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mục đích đọc hiểu, đặc điểm của văn bản đọc hiểu,… Dựa vào các tiêu chí khác nhau như kiểu loại văn bản, mục đích đọc, cấp độ đọc, trình độ của bạn đọc, đối tượng đọc hiểu… mà nội dung đọc hiểu có những điểm khác nhau.

  1. Kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học

2.1. Khái niệm kĩ năng đọc hiểu

Kĩ năng đọc hiểu là hệ thống các thao tác, hành động được thực hiện một cách thuần thục trong quá trình đọc hiểu văn bản, như kĩ năng đọc đúng, kĩ năng đọc chính xác, kĩ năng kĩ năng đọc sáng tạo, kĩ năng đọc tích lũy.

– Kĩ năng đọc chính xác là kĩ năng đọc hiểu cơ bản đầu tiên, đòi hỏi người đọc phải tinh mắt, không được bỏ sót một từ nào, thậm chí dấu câu hay dấu phân cách dòng, đoạn, khổ của văn bản. Qua đó, người đọc nắm được ý nghĩa của từ khóa, ý nghĩa của câu, đoạn và tìm thấy mạch ý của văn bản. Khi rèn kĩ năng đọc chính xác, học sinh phải tránh hành động đọc vội, đọc qua loa, đọc chiếu lệ, đọc nhảy cóc, đọc phân tán, đọc nhầm, đọc ngọng…

– Kĩ năng đọc phân tích có một vị trí quan trọng và ý nghĩa to lớn, quyết định hiệu quả đọc hiểu.Thực hành kĩ năng đọc phân tích, học sinh phải đọc kĩ văn bản (đọc nhiều lần trong những thời điểm khác nhau, với mục đích và tâm thế khác nhau), phải có cái nhìn xuyên suốt từ việc xác định thể loại, tên tác phẩm, chủ đề, kết cấu, nhân vật trung tâm, các phương diện hình thức xây dựng hình tượng nghệ thuật để phân tích chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm và khái quát ý nghĩa thành tư tưởng chủ đề.

– Kĩ năng đọc sáng tạo bao gồm đọc chính xác theo mẫu, đọc diễn cảm và cao hơn là đọc trải nghiệm để bổ sung tình ý vào tác phẩm. Kĩ năng này đòi hỏi người đọc một mặt phải hiểu được lớp ngôn từ cùng tư tưởng, chủ đề tác phẩm, mặt khác trên cơ sở kinh nghiệm và cảm xúc riêng tư, người đọc trình bày sự phát hiện lại hoặc sự khám phá mới của mình về tác phẩm. Nói cách khác đọc sáng tạo là kĩ năng phát hiện ra cái mới trong sự thống nhất, toàn vẹn của tác phẩm.

– Đọc tích lũy là mức độ cao trong đọc hiểu, tác động vào nhân cách toàn diện và văn hóa đọc của cá nhân học sinh. Nó bao hàm tất cả các mức độ và các kĩ năng đọc khác để mở rộng và tích hợp lại như một cơ hội tiếp nhận trọn vẹn giá trị đích thực của tác phẩm văn chương và có thể biến nó thành sở hữu của bản thân. Đọc tích lũy bao gồm tích lũy thông tin thẩm mĩ, tích lũy kinh nghiệm nghệ thuật, tích lũy ý nghĩa và các thủ pháp tạo sinh ý nghĩa. Kĩ năng đọc tích lũy có thể vận dụng hành động đọc sâu, đọc chậm, đọc so sánh đối chiếu.

2.2. Văn bản văn học – đối tượng đọc hiểu đặc thù

2.2.1. Khái niệm văn bản văn học

Thuật ngữ “văn học” dùng để chỉ các loại văn học nghệ thuật bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch bản văn học, ký, kịch bản điện ảnh…

Văn bản văn học là một tổ chức bằng ngôn từ, xoay quanh một chủ đề nhất định nhằm vào một định hướng giao tiếp nhất định. Mỗi tác phẩm văn chương bao giờ cũng là một lời nhắn gửi trực tiếp hay gián tiếp, kín đáo hay công khai của nhà văn về cuộc đời và cuộc sống. Bằng sáng tạo nghệ thuật theo phong cách riêng của mình, nhà văn tạo nên một hình thức độc đáo của tác phẩm, chứa đựng một nội dung nhất định, bao gồm yếu tố khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện, chuyển hoá, thâm nhập vào nhau, nhằm gây một tác động đặc biệt đến tâm hồn và tình cảm bạn đọc – đối tượng tạo nên mối liên hệ sinh mệnh của tác phẩm đối với đời sống.

2.2.2. Đặc trưng của văn bản văn học.

Mỗi văn bản văn học đều được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Ngôn từ nghệ thuật được lấy từ ngôn ngữ đời sống nhưng được lựa chọn, tinh chất để đạt được độ chính xác, hàm súc đồng thời in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.

Hình tượng văn học là phương tiện để bạn đọc giao tiếp với tác phẩm văn học. Thông qua hình tượng văn học ta có thể hiểu được thế giới nội tâm, tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Nếu không có hình tượng thì không có phương tiện nào để hiểu tác phẩm đó. Hình tượng văn học được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật, có tính phi vật thể, nó có tính khái quát rất cao và mang tính chất điển hình. Có rất nhiều loại hình tượng văn học: con người, thiên nhiên, đồ vật, con vật…

Như vậy, ngôn từ nghệ thuật dùng để xây dựng hình tượng trong tác phẩm văn học. Hình tượng văn học mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Người đọc phải biết gợi ra, khám phá và hiểu các tầng ý nghĩa khác nhau ấy.

2.2.3. Con đường tìm nghĩa của văn bản văn học

– Tìm nghĩa từ phía tác giả: Để hiểu biết về tác phẩm, phải có hiểu biết tối thiểu về tác giả, hoàn cảnh sống của họ. Tư tưởng, quan niệm sống, quan điểm sáng tác của nhà văn ảnh hưởng trực tiếp đến tác phẩm, bởi tác phẩm là con đẻ của nhà văn.

– Tìm nghĩa trong bản thân văn bản: Văn bản là nơi thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất tư tưởng, quan điểm của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Cần đặt văn bản trong bối cảnh nó ra đời. Mặt khác, nghĩa của văn bản thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật. Ý nghĩa chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật có thể là bóng dáng của nhà văn, cũng có khi chỉ là nơi tác giả thể hiện quan niệm sáng tác, đối nhân xử thế, quan niệm về cuộc đời…của tác giả.

– Tìm nghĩa từ phía người đọc – Tính đa nghĩa của văn học

  • Người đọc là kẻ “đồng sáng tạo với tác giả”.
  • Người đọc là người khám phá ra giá trị của tác phẩm, giúp nó sống đượng với thời gian, bằng liên tưởng, tưởng tượng.
  • Càng tìm ra nhiều tầng ý nghĩa khác nhau từ tác phẩm, càng làm cho nó có giá trị.

2.3. Các bước tiến hành đọc hiểu văn bản

Bước 1: Đọc hiểu ngôn từ: Đọc thông suốt toàn văn bản để có ấn tượng toàn vẹn về văn bản, hiểu được các từ khó, từ lạ, các điển cố, các phép tu từ, hình ảnh… (đối với thơ); đối với tác phẩm truyện phải nắm được cốt truyện, hệ thống các chi tiết đắt giá có liên quan đến nhân vật chính. Đọc văn bản văn học cần nhận ra được mạch văn, chất văn của văn bản, phát hiện những điểm đặc sắc, khác thường, thú vị. Đây là tiền đề để đi sâu vào lớp nghĩa thứ hai của văn bản.

Bước 2: Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật: Hình tượng trong văn bản văn học hàm chứa nhiều ý nghĩa. Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học đòi hỏi người đọc phải biết tưởng tượng, biết “cụ thể hóa” các tình cảnh để hiểu những điều mà ngôn từ chỉ có thể biểu đạt khái quát. Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật còn đòi hỏi phát hiện ra những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đó và hiểu được sự lô gic bên trong của chúng.

Bước 3: Đọc hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học: Nhà văn sáng tác tác phẩm bao giờ cũng thể hiện tư tưởng, bộc lộ tình cảm nhưng tình cảm và tư tưởng của nhà văn gửi vào tác phẩm không chỉ là của cá nhân họ về cuộc đời, về con người mà còn là của tầng lớp, giai cấp, thời đại mà nhà văn như là một đại diện. Chiều sâu tư tưởng, tình cảm đó của nhà văn là linh hồn của tác phẩm. Đọc tác phẩm để có thể nắm bắt được tư tưởng, tình cảm đó – không phải ở lời nói trực tiếp, ở ngôn ngữ tường minh mà phần lớn ở “ngoài lời”, ở hàm ý. Điều này đòi hỏi học sinh phải có năng lực khái quát chính xác, phải đọc có sáng tạo.

Bước 4: Đọc hiểu để thưởng thức văn học: Về hình thức thì văn bản văn học là hệ thống kí hiệu ngôn ngữ tồn tại khách quan theo cách sắp xếp nào đó tùy vào tài nghệ của người viết. Đọc tác phẩm – từ ngôn từ đến hình tượng – người đọc sẽ tiếp nhận tư tưởng, tình cảm của người viết gửi gắm vào ngôn từ, hình tượng đó, tìm ra tầng hàm nghĩa, nhận ra tín hiệu mà người viết kí thác điều muốn nói, quan niệm về nhân sinh, hoài bão và ước mơ,… Khi ấy, người đọc như lại một lần hiểu chính mình, hiểu cuộc đời với bao số phận khác nhau, biết chia sẻ sự xúc động, niềm say mê hay nỗi giận hờn… với tác giả. Tinh thần người đọc nhờ thế được thăng hoa, tâm hồn được thanh lọc, nhận thức được sâu sắc hơn, tầm nhìn được rộng mở thêm… Có được điều đó chứng tỏ việc đọc đạt được tầm cao của sự rung cảm và thụ hưởng tinh thần.

  1. Kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học theo đặc trưng thể loại

– Từ xa xưa, người ta đã biết dựa vào phương thức tái hiện đời sống và cấu tạo tác phẩm để phân chia văn học thành ba loại hình: tự sự, trữ tình và kịch (mỗi loại hình đó lại chia ra các thể loại nhỏ). Ba phương thức này ứng với ba cách tiếp cận đời sống:

+ Qua lời kể, lời miêu tả của nhà văn để nắm được nội dung câu chuyện, hiểu được tính cách nhân vật, có cái nhìn toàn cảnh về bức tranh đời sống (tự sự).

+ Qua cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của chủ thể trữ tình để hiểu con người và đời sống (trữ tình).

+ Qua lời thoại và hành động của các nhân vật để nắm được những xung đột cơ bản của hiện thực được phản ánh (kịch)

– Theo yêu cầu và mục tiêu môn học Ngữ văn ở bậc THPT, học sinh cần nắm được đặc điểm một số thể loại qua các bài đọc hiểu văn bản, qua một số bài khái quát. Trong khuôn khổ của chuyên đề, chúng tôi đi sâu vào hướng dẫn học sinh kĩ năng đọc hiểu hai thể loại văn học cơ bản đó là thơ, truyện.

3.1. Kĩ năng đọc hiểu văn bản thơ

3.1.1. Đặc trưng của thơ

– Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú; thơ được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.

Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả. Mỗi bài thơ đều biểu hiện một sự thật của tâm hồn. Sự thật tâm hồn là điều thầm kín của mỗi người, nhờ thơ mà được bộc lộ, truyền đến với người khác: Chẳng hạn

+ Bài Cảm hoài – Đặng Dung thể hiện chí khí và nỗi buồn của kẻ anh hùng lỡ vận.

+ Bài Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu, sự rung cảm trước sức sống của thiên nhiên.

+ Bài Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến diễn tả nỗi đau mất bạn rất đỗi chân thành.

– Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”. Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé chia sẻ: “Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc bàn tay đang viết”, “nhà thơ không viết một chữ nào nếu cả toàn thân không rung động” (dẫn theo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 01/2009). Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn M. Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên”.

– Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này.

– Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy. Một miếng trầu đem mời, một cái bánh trôi nước, một tiếng gà gáy canh khuya có thể là những sự kiện gây cảm xúc cho Hồ Xuân Hương; sự kiện Dương Khuê qua đời trong Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến); cuộc đời tài hoa mệnh bạc của nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du),…

– Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu… Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.

– Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu… làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ.

– Về cấu trúc, mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng (câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.

3.1.2. Yêu cầu với đọc thơ

Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:

*Bước 1: Nhận biết văn bản:

– Yêu cầu HS nhận biết được các chi tiết lộ rõ trên văn bản như: thông tin về tác giả, bối cảnh sáng tác, đề tài, tiêu đề, bố cục, (phần, khổ, đoạn) từ ngữ, chi tiết, đối tượng; thể loại và các hình thức đặc trưng (ví dụ vần, nhịp, từ ngữ độc đáo, hình ảnh nổi bật…); ý chính của mỗi phần, đoạn thơ; các chi tiết thuộc nội dung của bài thơ. Cụ thể:

+ Khi tìm hiểu thông tin về tác giả: cần chú ý tới những nét quan trọng trong cuộc đời, trong sự nghiệp sáng tác (quan niệm sáng tác, đặc điểm, phong cách sáng tác, vị trí, đóng góp của tác giả).

+ Khi tìm hiểu về hoàn cảnh sáng sáng: cần chú ý tới hoàn cảnh rộng, hoàn cảnh hẹp dẫn tới sự ra đời của tác phẩm.

+ Khi đọc từ ngữ: Đọc để cảm thụ ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, cấu tứ, nhịp điệu. Dựa vào nghĩa của ngôn từ mới tưởng tượng ra hình tượng thơ, cảm nhận được cấu tứ thơ, tư tưởng của bài thơ. Để thể hiện tứ thơ nhiều khi lời thơ thường có vẻ đứt đoạn, không liền mạch và có vẻ như bị tỉnh lược đến tối đa. Đọc thơ, bằng việc hiểu nghĩa cụ thể và nghĩa hàm ẩn của ngôn từ, bằng sự tưởng tượng, liên tưởng để dựng lên hình tượng thơ và từ hình tượng thơ đó, lại cảm thụ rõ nét hơn các chi tiết, ngôn từ. Cụ thể như sau:

/ Đọc hiểu từ theo cấu tạo Tiếng Việt. Đọc từ ngữ thơ trước hết phải rà soát văn bản thơ cho chính xác. Đọc thơ cổ còn gặp phải những từ cổ, từ địa phương, cần tra cứu từ điển, hỏi những người hiểu biết mới hiểu được nghĩa của từ.

/ Đọc hiểu các biểu tượng thơ: Ngôn từ thơ có những biểu tượng phổ biến mang nội dung văn hóa truyền thống. Ví dụ trong bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến có câu: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Học sinh cần đặt câu hỏi “khách vắng teo” có nghĩa là gì? Nếu một cửa hàng khách vắng teo có nghĩa là cửa hàng ế ẩm, không có người mua, không có ai qua lại. Nhưng trong thơ cổ, “vắng teo” là chỗ đẹp, chỗ thanh cao, chỉ nơi thanh vắng đáng quý. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn chẳng đã từng viết: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Những trường hợp như thế này không thể hiểu theo nghĩa đen của từ ngữ được.

Trong thơ hiện đại cũng có rất nhiều những biểu tượng. Ví dụ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu, những “nắng, gió, hương, hoa, ong, bướm, xuân…” đều là biểu tượng của sự sống tươi đẹp chốn trần gian. Trong hai câu thơ của Hàn Mặc Từ “Gió theo lối gió, mây đường mây/Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” (Đây thôn Vĩ Dạ) “gió, mây, dòng nước, hoa bắp” được miêu tả trong sự tách bạch và rời rạc. Nhà thơ như đang soi ngắm mỗi sự vật trong sự cô đơn của nó. Vì thế, không gian tuy đầy những sự vật nhưng vẫn gợi một cảm giác hiu quạnh. Nó gợi ra một không gian khác, một không gian tâm hồn đổ vỡ và trống rỗng. Như vậy, chính sự xếp đặt những hình ảnh vừa thực vừa ảo, theo một thể thức rời rạc và chẳng mấy ăn nhập với nhau ấy đã vô tình bộc lộ một sự “bấn loạn nội tâm” nào đấy của con người. Trong bài Từ ấy của Tố Hữu cũng xuất hiện hàng loạt những biểu tượng: “Mặt trời, nắng hạ, hồn tôi, vườn hoa lá…” chỉ lí tưởng cách mạng, ánh sáng, niềm vui và sự sống. Các biểu tượng này vừa có tính chất cá thể, vừa có tính chất phổ biến.

/ Nắm bắt các câu chữ tiêu biểu: Đọc từ ngữ của thơ là để tìm ra những từ ngữ, câu thơ quan trọng, tiêu biểu của bài thơ. Một bài thơ hoàn chỉnh, toàn vẹn thường không thể xem nhẹ câu thơ nào, chữ nào. Nhưng không phải câu nào, chữ nào cũng hay như nhau. Ví dụ trong bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi cần chú ý đến những chữ hay nhất là “đùn đùn, phun, giương, tiễn, lao xao, dắng dỏi”. Bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, toàn bài thơ câu nào cũng hay, cũng giàu sức gợi, tuy nhiên khi cảm thụ cần chú ý vào những từ ngữ đắt giá, như chữ “nắng” trong câu thơ “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”, những chữ “buồn thiu”, chữ “lay” trong câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, hay chữ “kịp” trong câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?”.

+ Đọc cấu trúc thơ: Để hiểu ý nghĩa của bài thơ, ta cần chú ý trật tự từ ngữ trong câu thơ và mối liên hệ giữa các câu thơ.

Ví dụ:

Bài thơ Có bệnh bảo mọi người (Cáo tật thị chúng – Mãn Giác) có hai câu:

Xuân qua trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười

Đặt “xuân qua” trước “xuân tới” có ý nói tới hai đời hoa, diễn đạt cái ý thiên nhiên tuần hoàn, luân hồi. Tác giả muốn đối sánh thiên nhiên với đời người để thấy đời người là bế tắc, hữu sinh tất hữu diệt. Muốn hiểu “cành mai” trong câu cuối lại phải so với “trăm hoa rụng” và “trăm hoa cười” ở hai câu trên để thấy “cành mai” này thuộc về một biểu tượng khác, không phải là hoa của tự nhiên mà là “hoa ngộ đạo”.

Trong hai câu:

Xiên ngang mặt đất / rêu từng đám

Đâm toạc chân mây / đá mấy hòn

                             ( Tự tình (II) – Hồ Xuân Hương)

Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ gây ấn tượng mạnh, làm tăng hiệu quả gợi tả của hình ảnh thơ.

*Bước 2: Hiểu được nội dung bề sâu của bài thơ và vai trò của các hình thức trong việc thể hiện nội dung ấy. Cụ thể:

Đọc hiểu tứ thơ: Tứ thơ (thi tứ) là mạch suy nghĩ, hứng thú, tình cảm trong thơ, thể hiện tư tưởng và tình cảm, quan niệm của nhà thơ. Tứ trong bài thơ là một cấu trúc bao gồm hai yếu tố chính: Hình tượng và cảm xúc. Tứ thơ không chỉ biểu hiện ở hình tượng mà còn biểu hiện ở mạch cảm xúc.

Ví dụ 1: Bài thơ Đây mùa thu tới – Xuân Diệu

/ Hình tượng trung tâm là nhân vật trữ tình, tức tâm trạng, cảm xúc của bản thân thi sĩ. Hình tượng ở đây được hiện thực hóa bằng hình tượng nàng thu với tất cả các chi tiết tạo hình: nàng liễu, nàng trăng và cuối cùng là nàng thiếu nữ.

/ Mạch cảm xúc được tổ chức hết sức chặt chẽ theo sự vận động của Đây mùa thu tới. Mở đầu là bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu nơi rặng liễu, rồi tới khu vườn, mở ra theo chiều cao là bầu trời, chiều xa là rặng núi và khép lại bằng bức tranh xôn xao những dự cảm của các thiếu nữ khi đối mặt với đất trời vào thu. Thu không chỉ tới ở thiên nhiên mà còn xâm lấn vào tâm hồn con người.

Ví dụ 2: Tràng giang – Huy Cận

/ Hình tượng: Dòng sông là hình tượng trung tâm của bức tranh về non sông đất nước.

Khổ 1: Sóng gợn, con thuyền trôi xuôi, cành củi khô lạc giữa dòng nước.

Khổ 2: Cồn nhỏ lơ thơ, làng ven sông, bến cô liêu.

Khổ 3: Bèo dạt, đôi bờ cách trở, không đò sang, cũng không cầu nối.

Khổ 4: Con nước mênh mang đến xa vời.

Đôi bờ và dòng sông điểm xuyết, kết hợp với bầu trời, với nắng, với mây, với cánh chim chiều tạo ra một không gian ba chiều mênh mang, cao vút và sâu thẳm.

/ Mạch cảm xúc: Phát triển theo chiều sâu tâm lí, tăng dần cấp độ của nỗi buồn sầu: Từ nỗi buồn dằng dặc trong “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” đến nỗi buồn thăm thẳm rợn ngợp tâm linh “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”; từ trạng thái trống trải, chông chênh, “dợn dợn” trong lòng kẻ tha hương đến ước muốn khẩn thiết khỏa lấp nỗi trống trải trong lòng; từ cảm nhận thấm thía cuộc đời vô định, nổi trôi đến nỗi lòng nhớ quê cồn cào, da diết.

  • Tâm trạng của nhân vật trữ tình: chìm đắm trong nỗi buồn sầu, vừa mênh mang, vừa sâu lắng, da diết, cồn cào.

Ví dụ 3: Bài Chiều tối – (Mộ – Hồ Chí Minh)

/ Hình tượng: người tù cộng sản nơi đất khách

/ Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước nơi chiều tà, quạnh vắng, đượm buồn.

/ Hai câu sau là bức tranh cuộc sống, con người tươi vui, tràn đầy sức sống.

/ Mạch vận động trong cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ buồn đến vui, hướng về con người, về phía sự sống, ánh sáng.

–  Đọc tìm hiểu tâm hồn thơ:

/ Tâm hồn thơ không giản đơn chỉ là thế giới nội tâm, thế giới bên trong mà còn là sự sống tinh thần với những cảm xúc, trí tuệ, khát vọng của con người, là những phẩm chất, giá trị tinh thần mà con người có được. Đọc thơ không phải chỉ để nắm bắt tư tưởng, nhận thức mà phải nắm bắt được tâm hồn nhà thơ.

/ Cách tìm hiểu: Thơ trữ tình là sự thật của tâm hồn, một sự thật tinh tế, phong phú, sâu sắc. Vì thế đọc thơ, đọc hiểu ngôn từ, phát hiện cấu tứ để tìm đến cái đích là cảm nhận hồn thơ trong tác phẩm. Đọc thơ để hiểu được cuộc đời, nhưng trực tiếp là hiểu được những xúc động, những ưu tư, những niềm vui hay nỗi đau của con người. Thơ trữ tình chỉ nói tình, không hoặc ít nói việc, lại càng không giải thích những nguyên nhân tạo nên những tâm sự, nỗi niềm. Do đó, muốn hiểu đầy đủ bài thơ không chỉ đọc văn bản mà còn phải đặt bài thơ ấy vào bối cảnh xã hội, hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Ví dụ 1: Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão

Nếu hiểu được bối cảnh xã hội, đời sống tinh thần thời đại nhà Trần với “Hào khí Đông A”, người đọc có thể hiểu chí lớn của vị tướng quân muốn noi gương sự nghiệp phò chúa vẻ vang như Vũ Hầu – Gia Cát Lượng. Tư tưởng phụng sự Tổ quốc là tư tưởng chung của các tướng sĩ đời Trần, song khao khát sánh tài như Gia Cát Lượng là một nét riêng của vị tướng làng Phù Ủng.

Ví dụ 2: Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi

Phải hiểu tiểu sử, cuộc đời, số phận, thời đại Nguyễn Trãi ta mới hiểu thêm tâm hồn ông trong bài thơ Cảnh ngày hè.

/ Từ phẩm chất hồn thơ có thể tìm thấy cái tôi cá tính của mỗi nhà thơ: Chẳng hạn trong thơ Xuân Diệu, từ cảm nhận cuộc sống là thiên đường chốn trần gian trong khi đó thời gian là tuyến tính, tuổi trẻ, phần đời đẹp nhất của mỗi con người lại vô cùng ngắn ngủi, một đi không trở lại, cho nên thi sĩ vội vàng, cuống quýt, muốn “ôm”, muốn “riết”, muốn “say”, muốn “thâu”… muốn thức nhọn giác quan để tận hưởng tất cả những vẻ đẹp của cuộc sống. Thơ Xuân Diệu vì thế là “nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Trái lại thơ Tố Hữu lại là hồn thơ muốn cho, muốn hiến dâng cho cuộc đời, cho nhân dân, đất nước.

Khái quát hóa giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ bằng cách kết nối ý tưởng cơ bản từ các thông tin trong văn bản (như đặc điểm tính cách, phẩm chất của nhân vật trữ tình; mạch cảm xúc; các từ ngữ, phép tu từ trong văn bản; kiến thức về các vấn đề xã hội, văn học, kiến thức về các kinh nghiệm thực tế, …)

Bước 3: Phản hồi, đánh giá, vận dụng, liên hệ, so sánh ngoài phạm vi văn bản.

Mức độ này thể trước hết ở yêu cầu đánh giá tổng quát ý nghĩa nội dung và giá trị của bài thơ. Tiếp đến là việc xem xét, đánh giá tác động của bài thơ trong mối quan hệ với các yếu tố ngoài văn bản như: bối cảnh văn hóa, lịch sử; quan hệ với người đọc; liên hệ, so sánh với những văn bản – tác phẩm tương tự… Cụ thể cần:

+ Phân tích, so sánh, đánh giá quan hệ giữa nội dung bài thơ với bối cảnh lịch sử, văn hóa.

+ Phân tích, so sánh, liên hệ giữa nội dung bài thơ và những tri thức, các tình huống trải nghiệm riêng của người đọc từ đó có thể đánh giá, phê bình, khám phá ra các ý nghĩa mới của bài thơ.

+ Đánh giá bài thơ và đóng góp của tác giả từ việc so sánh văn bản, thể loại có liên hệ với nhau về thời gian, đề tài, chủ đề, hoặc phong cách sáng tác (phương pháp liên văn bản).

+ Rút ra bài học về ý nghĩa tư tưởng, giá trị sống của cá nhân.

+ Vận dụng những hiểu biết từ việc đọc hiểu bài thơ này (nội dung và cách thức tiếp nhận) để tự đọc, tự khám phá các bài thơ tương tự.

* Kết luận chung:

– Đọc thơ đòi hỏi người đọc phải phát huy sức tưởng tượng và cảm thụ của mình. Do đó không bắt buộc mọi người đều cảm thu như nhau. Điều quan trọng là sự phân tích, lí giải có căn cứ trong ngữ cảnh hẹp của văn bản và ngữ cảnh rộng của văn học. Các cách hiểu khác nhau nếu hợp lí sẽ bổ sung cho nhau làm phong phú thêm ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.

– Đọc thơ không nhất thiết là hiểu theo sự chỉ dẫn của nhà thơ. Người đọc có thể tự mình khám phá cách hiểu của mình, miễn sao không mâu thuẫn với ngữ cảnh.

– Đọc thơ cuối cùng cần hình thành quan niệm của người đọc về tác phẩm thơ, nhà thơ, hiểu được cái lí của nó, cảm được vẻ đẹp, cái hay của bài thơ.

– Đọc thơ có tác dụng nâng cao năng lực thẩm mĩ của con người, nâng cao trí tuệ, sức tưởng tượng, làm phong phú cho đời sống tâm hồn con người.

3.2. Kĩ năng đọc hiểu văn bản truyện

3.2.1. Đặc trưng của truyện

Truyện tiêu biểu cho loại tự sự. Bởi vậy, để hiểu được đặc điểm của truyện học sinh nhất thiết phải nắm được đặc trưng của tác phẩm tự sự.

Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh đời sống, trong không gian và thời gian, qua các sự kiện và biến cố, trong đó, trung tâm của bức tranh là con người với những số phận cụ thể. Nếu tính chủ quan là nguyên tắc tái hiện của tác phẩm trữ tình thì tính khách quan là nguyên tắc tái hiện đời sống của tác phẩm tự sự.

– Trong tác phẩm tự sự, nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình nhưng là thứ tư tưởng và tình cảm thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động của con người, sâu sắc tới mức giữa chúng, dường như không còn có sự phân biệt, tách biệt. Nhà văn kể và tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, làm cho người đọc có cảm giác là hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là một thế giới tạo hình xác định, đang tồn tại và tự phát triển, chứ không phụ thuộc vào tình cảm và ý muốn của nhà văn. Cùng với việc phản ánh thế giới khách quan bên ngoài, tác phẩm tự sự còn miêu tả thế giới bên trong của con người với những cảm xúc, tư tưởng và tình cảm. Như vậy, tác phẩm tự sự có khả năng tái hiện toàn bộ thế giới, thể hiện mọi biểu hiện bên trong và bên ngoài của con người, có khả năng phản ảnh cuộc sống một cách bao quát, rộng lớn, miêu tả con người trong nhiều quan hệ phức tạp giữa nó với môi trường, hoàn cảnh sống bao quanh.

– Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn liền với nó là một hệ thống nhân vật được khắc họa bằng những chi tiết nghệ thuật phong phú và đa dạng. Đó là hệ thống chi tiết gắn với chất văn xuôi, giàu có và phong phú hơn tác phẩm trữ tình và kịch, bao gồm các sự kiện và xung đột, chi tiết ngoại hình, nội tâm và tính cách, chi tiết ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hóa, lịch sử và cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng hoang đường mà không nghệ thuật nào có thể tái hiện được.

– Trong tác phẩm tự sự, trần thuật có vai trò rất quan trọng, trở thành nhân tố tổ chức, tạo dựng nên thế giới nghệ thuật, đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người trần thuật. Gorki nhận xét: “Trong tiểu thuyết, trong truyện, những con người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn ở bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc biết rõ cần phải hiểu nhân vật như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả…” (Gorki, Bàn về văn học, NXB Văn học, H, t.2, 1965, tr,133)

– Đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết

           + Truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ, có cốt truyện, thường ít nhân vật và sự kiện; có không gian, thời gian và lời kể, đồng thời cho phép có sự hư cấu, tưởng tượng. Truyện ngắn được xem như một “lát cắt”, một “mảnh nhỏ” của cuộc đời nhân vật nhưng trong phạm vi hạn hẹp vẫn có thể đặt ra những vấn đề lớn lao, thể hiện những tư tưởng nhân sinh sâu sắc.

+ Tiểu thuyết là thể loại tự sự cỡ lớn. Có nhiều loại tiểu thuyết nhưng phần lớn là tiểu thuyết viết về số phận con người trong cuộc sống thường nhật với tất cả sự bộn bề, phức tạp như nó vốn có. Nhân vật tiểu thuyết thường phải nếm trải biết bao dằn vặt, khổ đau của cuộc đời. Đọc tiểu thuyết ta bắt gặp nhiều nghĩ suy về đời sống, về kiếp người. Với khả năng phản ánh đời sống một cách trọn vẹn, sinh động, đồng thời đi sâu khám phá số phận cá nhân, sử dụng linh hoạt hư cấu, điển hình hóa, tổng hợp thủ pháp của các thể loại văn học nghệ thuật khác, mang tính đa dạng về màu sắc thẩm mĩ, tiểu thuyết được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ” (Cô-gi-nốp)

3.2.2. Yêu cầu với đọc truyện

Căn cứ vào đặc điểm loại hình tự sự, đặc điểm thể loại, khi đọc hiểu tác phẩm truyện, cần tiến hành theo các bước sau đây:

Bước 1: Nhận biết văn bản: Tìm hiểu thông tin về tác giả, tác phẩm (bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác) để có cơ sở cảm nhận các tầng lớp nội dung và ý nghĩa của truyện.

Bước 2: Đọc thông suốt để có ấn tượng toàn vẹn về tác phẩm, nắm bắt được nhan đề, bước đầu nhớ được cốt truyện qua các phần mở đầu, vận động, kết thúc với các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể, hệ thống chi tiết đắt giá có liên quan đến nhân vật chính. Để thực hiện yêu cầu này học sinh có thể mô hình hóa cốt tuyện dưới dạng sơ đồ tư duy. Chẳng hạn với truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, học sinh có thể tóm tắt cốt truyện bằng sơ đồ sau:

Phân tích được diễn biến cốt truyện, làm rõ được giá trị của cốt truyện trong việc phán ánh hiện thực cuộc sống và khắc họa bản chất, tính cách các nhân vật. Ví dụ từ cốt truyện trong Vợ nhặt như trên học sinh có thể nhận ra được hai vấn đề cốt lõi của tác phẩm đó là: Cảnh ngộ, thân phận của người nông dân trong nạn đói thê thảm cùng vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng của họ.

Bước 3: Đọc kĩ, đọc sâu để phân tích được các nhân vật trong dòng chảy của cốt truyện: Các nhân vật bao giờ cũng nằm trong dòng chảy của cốt truyện; tính cách, phẩm chất của chúng dần dần được bộc lộ qua hệ thống của sự kiện, chi tiết trong quá trình phát triển của cốt truyện.

Ví dụ: Tính cách, phẩm chất của Tràng được thể hiện qua các sự việc cơ bản sau:

+ Tràng quyết định đưa người đàn bà đói khổ, rách rưới về làm vợ chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa.

+ Tràng háo hức đợi mẹ về để giới thiệu người vợ mới với mẹ.

+ Tràng hoàn toàn thay đổi về ý thức trong buổi sáng hôm sau.

Muốn hiểu truyện, không thể không phân tích hình tượng nhân vật. Tùy theo đặc điểm cụ thể của tác phẩm (truyện ngắn hoặc tiểu thuyết) mà chọn phân tích nhân vật trên các phương diện sau:

+ Xem xét sự miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật:

/ Ngoại hình nhân vật thường được người kể chuyện miêu tả trực tiếp hoặc tác giả để một nhân vật khác miêu tả gián tiếp.

/ Về hành động của nhân vật, chú ý diễn biến tâm lí dẫn đến những quyết định hệ trọng trong sự phát triển tính cách nhân vật. (Ví dụ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài là kết quả của một quá trình chuyển biến trong nhận thức, tình cảm, với nhiều giằng xé nội tâm của Mị).

/ Về ngôn ngữ, cần quan tâm đến lời nói của nhân vật bởi đó là sự bộc lộ trực tiếp phẩm chất, ý thức, tâm hồn nhân vật. Tiếng chửi của Chí Phèo trong cơn say mở đầu truyện ngắn cùng tên của Nam Cao đã hé mở cho người đọc về bi kịch thê thảm của một con người bị chối bỏ quyền làm người. Hay những lời lẽ dịu dàng, ân cần của bà cụ Tứ với con trai và con dâu trong Vợ Nhặt (Kim Lân) đã cho người đọc thấy được tấm lòng nhân hậu, vị tha của người mẹ nghèo, lam lũ, tội nghiệp.

+ Phân tích mối quan hệ giữa nhân vật chính với các nhân vật khác, với hoàn cảnh mà nhân vật suy nghĩ và hành động. Chú ý tới nghệ thuật khắc họa nhân vật chính: sử dụng chi tiết; tạo tình huống để bản chất nhân vật được bộc lộ; cách mô tả ngoại hình, hành động, nội tâm;… Ví dụ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhân vật trung tâm là Mị. Sự xuất hiện của A Phủ đã góp phần hoàn thiện thêm chân dung số phận khốn khổ, tủi nhục của những người dân vùng cao trước cách mạng. Nếu Mị được khắc họa chủ yếu qua diễn biến tâm trạng (hầu như rất ít lời nói) thì A Phủ lại được khắc họa chủ yếu qua hành động.

+ Tìm ra ý nghĩa của nhân vật, bởi nhân vật là nơi gửi gắm ý đồ sáng tạo, suy nghĩ và quan niệm về cuộc đời, về con người. Qua các nhân vật Tràng, thị, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân không chỉ phản ánh tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945 mà còn khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của con người, cho dù họ bị dồn đẩy xuống vực thẳm của cái đói, cái chết. Nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là kiểu nhân vật tư tưởng. Thông qua nhân vật này, nhà văn muốn gửi gắm những nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, về vai trò, sứ mệnh của người nghệ sĩ chân chính.

– Bước 4: Cuối cùng, cần xác định giá trị của tác phẩm về phương diện nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ,… Nói cách khác, cần xem qua cách nhà văn nhận thức, lí giải về toàn bộ nội dung hiện thực cụ thể, sống động được phản ánh, truyện đặt ra vấn đề gì, có ý nghĩa tư tưởng, nhân sinh như thế nào. Tác phẩm văn học có giá trị bao giờ cũng khẳng định những tư tưởng sâu sắc, mới mẻ về cuộc sống qua sức mạnh truyền cảm của nghệ thuật. Chẳng hạn thông qua Vợ nhặt Kim Lân đặt niềm tin sâu sắc vào khát vọng sống mãnh liệt của con người, rằng “sự sống chẳng bao giờ chán nản”, hoàn cảnh sống cùng cực không ngăn nổi niềm tin, khát vọng của con người vào hạnh phúc, vào một tương lai tươi sáng. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người.

 

 

Chương II: Rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn

  1. Vai trò của các tác phẩm văn học ngoài chương trình với học sinh chuyên văn

– Việc đọc các tác phẩm văn học ngoài chương trình sẽ cung cấp cho các em một vốn hiểu biết phong phú về tác giả, tác phẩm văn chương, đem đến cho các em cái nhìn toàn diện, sâu sắc về diện mạo của một nền văn học, một thời đại văn học.

– Việc đọc nhiều cũng đồng nghĩa với việc giúp các em có được nhiều sự trải nghiệm, thông qua những câu chuyện, những số phận con người hay những tâm tư, những nỗi niềm cảm xúc trong tác phẩm. Sự trải nghiệm đó đem đến cho các em những nhận thức sâu sắc về đời sống, bồi dưỡng ở các em khả năng rung động, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn, tình cảm cho các em. Với học sinh chuyên văn điều này thật vô cùng cần thiết.

– Việc đọc các tác phẩm văn học ngoài chương trình cũng giúp các em rèn luyện khả năng tư duy, khả năng sáng tạo, trau dồi vốn ngôn ngữ, cách diễn đạt. Đọc cũng là một cách để nuôi dưỡng niềm đam mê với văn chương.

– Mặt khác vốn hiểu biết phong phú từ tác phẩm bên ngoài sẽ giúp ích cho các em rất nhiều trong quá trình viết bài. Qua thực tế chấm bài học sinh giỏi, những bài văn gây ấn tượng với người chấm không chỉ bởi cách đặt vấn đề hay, cách lập luận chặt chẽ, khoa học, hành văn lôi cuốn, giàu cảm xúc mà còn bởi khả năng lựa chọn, khai thác, cảm thụ các dẫn chứng mới lạ, độc đáo, giàu giá trị văn chương. Việc lựa chọn ấy giúp bài văn của học sinh tránh được tình trạng sáo mòn, đôi khi là khuôn mẫu, đồng thời phát huy cao độ khả năng sáng tạo, cảm thụ văn chương ở học sinh.

  1. Thực trạng của việc đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình của học sinh chuyên văn hiện nay

Xuất phát từ niềm yêu thích say mê với môn học, đại đa số học sinh chuyên văn đều có ý thức đọc sách. Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, ngoài sách in truyền thống, thì sách điện tử cũng là loại hình yêu thích của nhiều em học sinh. Việc tìm được cuốn sách theo ý muốn là vô cùng dễ dàng. Tuy nhiên qua thực tế dạy học, tiếp xúc với các em chúng tôi nhận thấy không phải em nào cũng có cách lựa chọn và đọc sách khoa học, hiệu quả. Việc đọc tác phẩm văn chương của nhiều em đang đi theo các xu hướng sai lầm sau đây:

2.1. Xu hướng đọc để giải trí – cơn bão truyện ngôn tình

Ngày nay, khi bước vào bất kỳ một hội chợ sách hay cửa hàng sách nào, người ta đều thấy danh mục những cuốn sách bán chạy nhất hay các gian hàng được ưu tiên hàng đầu (thường xuất hiện ngay ngoài cổng vào), la liệt truyện ngôn tình. Đọc sách ngôn tình đã trở thành một trào lưu phổ biến. Không ít học sinh đọc thâu đêm, thậm chí còn “đọc trộm” trong các giờ học trên lớp. Lí do là bởi nội dung các cuốn sách chủ yếu nói về tình yêu mới lớn, ngắn, dễ đọc, dễ hiểu, đọc thuần để giải trí. Tuy nhiên vô hình chung, khi say mê đọc truyện ngôn tình học sinh không chỉ rơi vào tình trạng “sống ảo” mà nó con “giết chết” khả năng tư suy, óc sáng tạo của các em.

2.2. Xu hướng đọc các cuốn sách, các tác phẩm “thời thượng”

Bên cạnh xu hướng thích đọc truyện ngôn tình, nhiều em có xu hướng lựa chọn các cuốn sách thời thượng, đang nổi tiếng, được nhiều bạn trẻ biết đến. Chẳng hạn cuốn “Thế giới phẳng” một cuốn sách rất thành công của nhà kinh tế – xã hội học Thomas Friedman. Cuốn sách trình bày những quan điểm mới lạ đối với bạn đọc trong nước về xu thế toàn cầu hóa, “Thế giới phẳng” không phải là một cuốn sách dễ đọc, phần lớn người đọc không hiểu hết tư tưởng của tác giả. Thế là dù không thích, không hiểu nhưng các bạn trẻ vẫn chạy đi mua những cuốn sách mà mọi nguời vẫn đọc để mình không trở thành người lạc hậu.

2.3. Xu hướng đọc theo kiểu “ăn xổi”, “cưỡi ngựa xem hoa”

– Rất nhiều học sinh ngày nay đọc sách theo lối thực dụng. Để phục vụ cho việc viết bài, khi cần lấy dẫn chứng các em chỉ cần lên mạng internet tra tên tác phẩm, đọc vài dòng giới thiệu về nội dung, cóp nhặt vài ý kiến đánh giá thế là đưa vào bài văn một cách hời hợt, có khi nhớ lơ mơ còn hiểu sai tác phẩm.

– Bên cạnh đó, có những em cũng chịu khó bỏ chút thời gian đọc hết tác phẩm, song không chịu bỏ tâm sức để nghiền ngẫm, để hiểu cho tường tận, thấu đáo về tác phẩm. Những điều mà các em nắm được chỉ là “phần nổi” của nội dung tác phẩm. Nghĩa là chỉ biết rằng tác phẩm ấy viết về cái gì, chứ không hiểu được ý nghĩa tác dụng của tác phẩm đối với nhận thức, tư tưởng và tình cảm của con người.

– Có những em đọc sách chủ yếu để lấy “số lượng”. Đọc thì nhiều nhưng không hiểu hết, không hiểu sâu, thành ra cái gì cũng biết nhưng không biết đến nơi đến chốn. Chúng tôi gọi đó là cách đọc “cưỡi ngựa xem hoa”.

2.4. Xu hướng ngại đọc các tác phẩm văn học cổ điển

Đây là hệ quả của việc các em chạy theo xu hướng đọc các cuốn sách thời thượng, các cuốn sách ngôn tình, hay truyện tranh. Nhiều em dù là học sinh chuyên văn nhưng lại không đủ kiên nhẫn để đọc các cuốn sách cổ điển của Việt Nam hay thế giới. Nhiều em còn xa lạ với những Đôn-ki-hô-tê (Xec-văng-tec), Đồi gió hú (E. B-rôn-tê) hay Trăm năm cô đơn (G. Marquez)… Lí do được nhiều em đưa ra là đọc các cuốn sách cổ điển mất nhiều thời gian, khó nhớ, khó hiểu, phải tư duy nhiều. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới kiến thức văn học của các em càng ngày càng nghèo nàn, văn chương thiếu sự dày dặn và sáng tạo.

  1. Tiêu chí chọn đọc các tác phẩm ngoài chương trình

Có thể nói kho tàng các tác phẩm văn học của nhân loại là vô cùng đồ sộ và phong phú. Học hay đọc sách không phải là việc một sớm một chiều mà là chuyện cả đời. Do vậy trong một khoảng thời gian có hạn, để việc đọc sách được hiệu quả, phục vụ tốt cho quá trình học tập, rèn luyện bộ môn đồng thời tạo ra những tác động tích cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm của học trò, giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trước hết là ở khâu “lựa chọn” đọc tác phẩm gì, sau đó mới tới việc “đọc hiểu như thế nào”, “vận dụng ra sao”. Theo ý kiến chủ quan của chúng tôi, việc lựa chọn tác phẩm ngoài chương trình để đọc có thể căn cứ vào các tiêu chí sau đây:

3.1. Tiêu chí thứ nhất: Các tác phẩm phải đảm bảo tính “chân”, “thiện”, “mĩ”, nghĩa là phải có giá trị về mặt nhận thức, tư tưởng, thẩm mĩ đối với con người.

Đây là tiêu chí đầu tiên cho việc đọc tác phẩm văn chương nói riêng và đọc sách nói chung. Bởi hiện nay thị trường sách rất đa dạng, phong phú song không thiếu những cuốn sách “đen”, chạy theo thị hiếu của độc giả mà không quan tâm tới giá trị tư tưởng, giáo dục của tác phẩm. Các em cần căn cứ vào sự hiểu biết của mình, cùng với sự định hướng của các thầy cô giáo mà chọn đọc những tác phẩm hay, có giá trị của dân tộc hay nhân loại để bồi dưỡng và nâng cao nhận thức, tư tưởng của bản thân.

3.2. Tiêu chí thứ hai: Lựa chọn các tác phẩm tiêu biểu nhằm mục đích bổ sung kiến thức về tác giả, thể loại, giai đoạn hay một nền văn học.

– Trong chương trình sách giáo khoa THPT các tác phẩm được đưa vào giảng dạy đều là những tác phẩm có giá trị lớn. Song số lượng các tác phẩm có hạn, với học sinh chuyên văn chừng ấy là chưa đủ để giúp các em có một vốn văn chương phong phú và cái nhìn toàn diện, sâu sắc về diện mạo văn chương của một tác giả hay một giai đoạn, một thời kì văn học.

+ Chẳng hạn khi học về tác giả Nam Cao, theo chương trình Nâng cao ngoài bài khái quát về tác giả, học sinh được học hai tác phẩm Chí PhèoĐời thừa tiêu biểu cho hai đề tài người trí thức và người nông dân của nhà văn. Tuy nhiên để có thể hiểu sâu hơn hai mảng sáng tác này, từ đó làm rõ những đóng góp của nhà văn cho nền văn học nước nhà, học sinh cần đọc thêm những tác phẩm khác cùng đề tài như Giăng sáng, Sống mòn (đề tài người trí thức), Điếu văn, Một bữa no, Lang Rận… (đề tài người nông dân).

+ Hoặc trong chương trình Ngữ văn 12, phần văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỉ XX để có thể hiểu rõ những chuyển biến sâu sắc của giai đoạn văn học này so với thời kì trước năm 1975, chúng tôi thiết nghĩ cần định hướng cho các em tiếp cận với các tác phẩm của các cây bút tiêu biểu khác. Ví như về văn xuôi là Nguyễn Huy Thiệp với Muối của rừng, Tướng về hưu, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Phạm Thị Hoài với Thiên sứ, Võ Thị Hảo với Người sót lại của rừng cười, Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận … Về thơ các em cần tìm đọc thêm thơ của Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều…

+ Với các đoạn trích văn học nước ngoài trong sách giáo khoa, trước hết các em nên tìm đọc đầy đủ cả văn bản tác phẩm. Sau đó mở rộng đọc các tác phẩm tiêu biểu khác cùng tác giả. Chẳng hạn về nhà văn V.Huy-gô, ngoài tiểu thuyết Nhà văn khốn khổ mà học sinh được tiếp cận qua một đoạn trích, các em cần tìm đọc thêm tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Pari. Với Ban-dắc các em nên tìm đọc đầy đủ tiểu thuyểt Lão Gô-ri-ô, Miếng da lừa

– Cách tốt nhất để đọc các tác phẩm ngoài chương trình là đọc theo chiến lược “khoanh vùng”:

+ Nghĩa là trong quá trình đọc các em cần xây dựng kế hoạch đọc cụ thể.

+ Chọn đọc các tác phẩm tiêu biểu cho một thể loại văn học, một nền văn học. Đọc đến đâu đánh dấu lại đến đó, để biết được mình đã tích lũy được những tác phẩm nào.

Chẳng hạn với văn học Trung Quốc, ngoài những hiểu biết về thơ Đường (thành tựu kết tinh nhất của thơ ca Trung Quốc), ngoài Lỗ Tấn, nhà văn cách mạng tiên phong, các em nên tìm đọc những tác phẩm của nhà văn Mạc Ngôn, người đạt giải thưởng Nôben văn học năm 2012, ví dụ như Cao lương đỏ hay Báu vật của đời.

3.3. Tiêu chí thứ 3: Cần chú ý tính liên kết giữa các đơn vị kiến thức văn học trong chương trình với các tác phẩm văn học ngoài chương trình

Đây là tiêu chí và cũng là yêu cầu đặc biệt quan trọng, mang tính chất đặc thù đối với học sinh chuyên văn. Trong quá trình đọc tác phẩm, học sinh cần có sự liên hệ, xâu chuỗi các đơn vị kiến thức gần nhau, bổ trợ cho nhau để có thể đối chiếu, so sánh, từ đó có những bình giá sâu sắc. Chẳng hạn khi học về Nam Cao, các em nên đối chiếu, so sánh với sáng tác của nhà văn Sê-khốp hay Lỗ Tấn. Bởi giữa các nhà văn này có nhiều điểm gặp gỡ nhau. Hoặc khi học về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, các em nên tìm đọc các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 để thấy được sự chuyển biến trong khuynh hướng tiếp cận đời sống của tác giả.

  1. Cách thức rèn học sinh kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình

4.1. Những nguyên tắc chung

Để việc đọc hiểu của học sinh đạt được hiệu quả tốt nhất, khi rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh, chúng tôi đã quán triệt tới các em những nguyên tắc chung như sau:

Đọc trên tinh thần tự giác, tích cực. Việc đọc với học sinh chuyên văn chỉ có hiệu quả khi nó trở thành thói quen, thành niềm đam mê.

  • Đọc có kế hoạch: Việc đọc không nên diễn ra tùy hứng mà phải có kế hoạch cụ thể. Các em cần xác định cho những những tác phẩm văn học cần đọc tương ứng với từng cấp, từng đơn vị kiến thức. Bởi việc học văn, dạy văn trong nhà trường trước hết là dạy học có chương trình, có định hướng. Sau khi đã bổ sung những kiến thức nền trong chương trình rồi các em mới tiến hành nới rộng biên độ, phạm vi đọc.
  • Đọc có mục tiêu, thời gian rõ ràng: Trước khi tiến hành đọc hiểu tác phẩm nào đó, các em cần tự đặt ra cho mình các câu hỏi:

+ Việc đọc tác phẩm ấy để hướng tới mục đích gì, phục vụ vào khâu nào của quá trình học. Ví dụ đọc để bổ sung kiến thức về phong cách tác giả, đọc để đối chiếu so sánh với một tác phẩm khác, đọc để cảm thụ, bình giá dẫn chứng phục vụ cho việc giải quyết dạng đề lí luận…

+ Khi xác định mục tiêu đọc rồi, cần dự kiến thời gian đọc. Đọc lúc nào, sẽ hoàn thành trong khoảng thời gian bao lâu. Điều này sẽ giúp các em dần dần hình thành được thói quen đọc, hứng thú đọc.

  • Đọc kết hợp với ghi chép: Điều này là bắt buộc với học sinh chuyên văn. Các em cần trang bị cho mình một cuốn sổ tay văn học. Đọc đến đâu ghi chép đến đó. Sự ghi chép phải cẩn thận, chăm chút, có hệ thống, có tính chắt lọc. Việc ghi chép này sẽ giúp các em ghi nhớ, tích lũy những kiến thức về tác phẩm, giúp ích cho các em rất nhiều trong quá trình thực hành kĩ năng viết bài.
  • Đọc kết hợp với vận dụng, thực hành: Sau khi đọc hiểu một tác phẩm, các em cần lựa chọn các vấn đề hay, độc đáo được gợi ra từ tác phẩm, sau đó thực hành các dạng bài tập nhỏ như cảm thụ, thẩm bình chi tiết, hình ảnh, giá trị, sức hấp dẫn của tác phẩm… Điều này sẽ giúp các em không chỉ củng cố được hiểu biết về tác phẩm mà còn tăng cường khả năng tư duy, khả năng diễn đạt cho các em.
  • Đọc gắn với quá trình kiến tạo nên con người mình: Tiếp nhận văn học thực chất là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật. Quá trình khám phá đó không chỉ giúp người đọc thức tỉnh được những điều sâu sắc về hiện thực đời sống mà còn bừng ngộ nhiều điều về lẽ sống để có thể hoàn thiện nhân cách của bản thân, từ đó kiến tạo con người văn chương, kiến tạo nên chính tâm hồn mình.

4.2. Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh qua một số tác phẩm văn học cụ thể

Như phần trên chúng tôi đã đề cập, việc dạy học văn trong nhà trường là có chương trình, có định hướng nhất định, cho nên với học sinh chuyên văn, việc đọc các tác phẩm văn học ngoài chương trình phần lớn phụ thuộc vào sự chủ động, tích cực của các em. Nhiệm vụ của người giáo viên là định hướng, cung cấp cho các em những kĩ năng cần thiết để các em có thể đọc bất cứ một tác phẩm văn học nào ngoài chương trình. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi đã tiến hành rèn kĩ năng cho các em thông qua một số tác phẩm cụ thể, ứng với từng thể loại văn học. Do khuôn khổ có hạn của chuyên đề, chúng tôi dừng lại ở việc tiến hành rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm thơ và truyện qua ba văn bản: Bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, tiểu thuyết Anna Karenina (L. Tolstoy).

4.2.1. Bài thơ Bóng chữ (Lê Đạt)

           Bước 1: Nhận biết văn bản thơ.

Khi đọc hiểu các tác phẩm văn học trong chương trình, học sinh có rất nhiều các công cụ đắc lực phục vụ quá trình tiếp cận tác phẩm, chẳng hạn như sách giáo khoa, với các thông tin hữu ích từ phần Tiểu dẫn, từ phần Hướng dẫn học bài, sách bài tập với hệ thống các câu hỏi, bài tập vận dung, bên cạnh đó là các tài liệu tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau như “Chuẩn kiến thức kĩ năng”, “Kĩ năng đọc hiểu văn bản”… Các tác phẩm văn học ngoài chương trình thì khác. Các em phải tự tìm nguồn văn bản, tự tìm kiếm các tư liệu liên quan đến tác phẩm. Do vậy khi hướng dẫn bước “Nhận biết văn bản” chúng tôi thường định hướng các em

Thứ nhất: Nên tìm nguồn văn bản chính thống thông qua các tác phẩm đã xuất bản (tránh trường hợp đọc các văn bản trôi nổi, sẽ dẫn tới văn bản trích sai, thiếu)

Thứ hai: Trước khi đọc hiểu nội dung tác phẩm các em nên tìm hiểu thông tin về tác giả, tác phẩm trên các tài liệu đã nghiên cứu về tác giả, tác phẩm đó. Tiến hành ghi chép lại các thông tin quan trọng về cuộc đời, quan điểm sáng tác, phong cách sáng tác, xuất xứ, hoàn cảnh ra đời tác phẩm… sưu tầm những ý kiến đánh giá về tác giả, tác phẩm ấy.

Cần sử dụng kĩ năng đọc tích lũy để nắm bắt các tri thức về tác giả, tác phẩm:

– Về tác giả:

*Vài nét về tiểu sử, cuộc đời

+  Lê Đạt (10/9/1929 – 21/4/2008) tên thật là Đào Công Đạt, quê ở xã Á Lữ, Bắc Giang. Ông là gương mặt tiêu biểu trong làng văn thơ Việt Nam.

+  Ông tham gia kháng chiến chống Pháp và bắt đầu hoạt động văn học, trở thành hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, một trong những trụ cột của phong trào Nhân văn – Giai phẩm, nhà thơ cách tân hàng đầu của nền thơ Việt Nam hiện đại vào nửa sau của TK XX.

+ Sau các tác phẩm nổi tiếng Cha tôiBài thơ trên ghế đáÔng bình vôi,… do bị kỷ luật vào tháng 7.1958 vì tham gia Nhân văn – Giai phẩm, phải hơn 30 năm sau nhà thơ Lê Đạt mới có điều kiện công bố trở lại các tác phẩm của mình.

+  Năm 1988, ông được phục hồi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đến năm 2007, ông cùng với ba nhà thơ khác của phòng trào Nhân văn – Giai phẩm là Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

* Quan niệm về thơ ca:

– Theo Lê Đạt, thơ là một nghề, không những thế nó còn là một thứ nghiệp chướng, không thể dứt bỏ được. Ông coi làm thơ cần sự khổ luyện, kiên trì, lâu dài. Trong “Nghiệp thơ” Lê Đạt đã bày tỏ thẳng thắn: “Theo tôi thơ là một nghề. Đã là một nghề thì phải có kỉ luật lao động. Không nên thụ động thắp hương chờ mà phải chủ động gọi hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỉ luật nghiệt ngã và gian khổ”.

– Theo ông, lao động thơ là một thứ lao động thầm lặng, chán nản, đơn độc, vất vả”, là “sự giằng xé căng thẳng từ trong sâu thẳm tâm thức của thi nhân”. Đối với ông, chữ không chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn cựa quậy, tràn đầy sức sống.

– Thơ đòi hỏi sự sáng tạo. Nhà thơ nếu không tạo ra được một “hành tinh” riêng về ngôn ngữ nghĩa là anh ta đã tự đánh mất sự hiện hữu của mình. Không có nhà thơ trẻ hoặc già mà chỉ có nhà thơ luôn tạo cho mình một “nội lực chữ” để tạo ra cho mình một thế giới “ngôn ngữ riêng”.

=> Quan niệm rất đúng đắn xuất phát từ ý thức sâu sắc, nghiêm túc về “nghề nghiệp” của mình.

* Đặc điểm phong cách thơ Lê Đạt:

Quan niệm về thơ ca đã chi phối sâu sắc tới đặc điểm phong cách thơ Lê Đạt:

  • Thơ Lê Đạt có độ nhòa mờ (về âm, về nghĩa, cái bóng của chất liệu). Độ nhòa mờ về nghĩa, những ý niệm rộng mở “vô ngạn” về nghĩa mà ông tạo ra không phải là ngẫu nhiên mà là công việc khổ sai, tử sinh với chữ. Chơi chữ chỉ là cái cớ, chơi nghĩa mới là cái cần chú ý hơn. Lúc này, nghĩa nhòa mờ, nghĩa trước hết để “do thám” những hiện thực khác cùng nhau đến trong những kí hiệu thơ ca. Lê Đạt bằng những nỗ lực của mình đã kiến thiết một lối thơ phát sinh nhiều nghĩa cùng lúc và phát nghĩa cả ở phần âm, phần vang, phần đệm của chữ.
  • Tính ngoan đồng (sự hồn nhiên như trẻ thơ trong cảm nghiệm, tư duy, sáng tạo của nhà thơ) cho thấy một đặc điểm thực sự chi phối thành tựu, đức kiên nhẫn và khả năng sáng tạo đến cùng của một hồn thơ “cần rất nhiều văn hóa và khổ luyện để sống tự nhiên”. Nhà thơ tìm một “thi luận” khác lạ: tìm về nét “sơ sinh” của chữ, chất “ngọng nghịu” thánh thiện, sơ khai của chữ.
  • Lê Đạt công khai bênh vực “quyền của con chữ”. Chữ với ông là một thân phận trải qua nhiều kiếp luân hồi với những kiếp sống khác nhau, từng có buổi nảy mầm tuyệt đẹp và trong sáng thuở ban sơ vừa hữu hạn vừa vô hạn.

* Vị trí của Lê Đạt với thơ ca hiện đại:

– Lê Đạt và những người đồng hội đồng thuyền với ông từ giữa thế kỉ XX đã kiên quyết khởi lên một cuộc cách tân thơ Việt, đoạn tuyệt với Thơ mới, đi tìm những cách biểu hiện mới cho thơ, tạo lập những giá trị chuẩn mực mới của thơ”

– Lê Đạt trở lại với thi đàn sau gần 30 năm im tiếng là khắc ghi ngay ấn tượng của mình đối với giới thơ và công chúng yêu thơ. Lê Đạt của thời Cha tôi đã biết không cam chịu cảnh “Rũ đầu chết ngạt trong bùn/ Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng”. Lê Đạt của Bài thơ trên ghế đá đã biết yêu tự do cho mỗi cảm xúc, tư tưởng. Thơ ông thời kì này như một tiếng nổ đậm chất tiên phong cho một cuộc nhìn nhận cũng như tái tạo thơ ca. Không đến mức lập thành một cuộc cách mạng trong thi ca như Thơ mới nhưng có lẽ những quan niệm về thơ, đặc biệt là về chữ của ông đã mở rộng bao vẻ đẹp của thơ, đòi hỏi người ta phải trả cho chữ cái quyền sống tốt, một lối thơ “mờ nhòa” về ngữ nghĩa nhưng cũng vô hạn về ngữ nghĩa.

– 30 năm sau, tập thơ Bóng chữ ra đời, tuyên ngôn ấy trở nên rõ ràng hơn. Không kể lớp trẻ như ông, hoặc trẻ hơn ông thời trước đều bị kinh ngạc. Cách tư duy trong thơ của ông vẫn hiện đại vẫn mới mẻ đồng hành cùng lớp trẻ đầu thế kỉ XXI. Nó khiến người ta phải nhìn lại thơ bằng con mắt duy lí, ngoài sự thành kính, đam mê và cảm xúc.

* Về tác phẩm:

– Xuất xứ: Bài thơ Bóng chữ nằm trong tập thơ cùng tên, xuất bản năm 1994.

+ Tập thơ này gồm 108 bài, phần nhiều là thơ ngắn, hai câu, năm mười câu, dăm bài dài nhất chỉ độ trăm câu, ra đời trong hoàn cảnh thơ Việt đang được “cởi trói”, đổi mới.

+ Nội dung tập Bóng chữ của Lê Đạt ghi lại lịch sử một đời người, qua buồn vui một cá nhân, giữa thăng trầm của dân tộc và trăn trở của một nghệ sĩ thường xuyên tra vấn ngôn ngữ. Xuyên suốt tập thơ là những cung bậc cảm xúc của thi nhân gắn liền với cuộc đời mình. Từ những kỉ niệm, những rung động của tuổi mới lớn cho đến những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời, tất cả được thể hiện trong khung cảnh thiên nhiên gần gũi, quen thuộc của vùng đồng quê hay những đô thị đang ngày một đổi mới.

+ Bóng chữ là tác phẩm có tầm quan trọng trong đời thơ Lê Đạt. Nó là sản phẩm được chưng cất của hơn 30 năm lao động và sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, là sự khẳng định của nhà thơ sau nhiều năm vắng bóng trên thi đàn. Tập thơ đã tạo nên những dư chấn và chắc chắn có những ảnh hưởng đáng kể cho thơ ca Việt Nam trong hiện tại và sau này.

Sử dụng kĩ năng đọc chính xác, đọc diễn cảm để bước đầu nhận biết được nghĩa của nhan đề, thể thơ, giọng điệu của bài thơ:

Nhan đề Bóng chữ vừa lạ lùng, vừa dồi dào sự lay động:

+“chữ” ở đây chính là sự tồn tại của các kí tự

+ “bóng chữ” là ảnh chiếu, là sự hất loang những nét nghĩa ra bên ngoài vỏ ngôn từ để người đọc tự do suy ngẫm theo vốn hiểu của mỗi cá nhân.

=> “Bóng chữ” tức là hiểu nghĩa đằng sau ngôn từ.

+ Tuy nhiên, nói đến Lê Đạt – một “phu chữ” thì ý nghĩa nhan đề không chỉ dừng lại ở đó.

/ Đó là bóng dáng thương nhớ một thời đã qua nhưng chưa bao giờ lìa xa trong tâm tưởng tác giả.

/ “Bóng chữ” ấy là “bóng nàng” – nửa hư nửa thực; vừa như có thể kéo lại gần, vừa như lại quá diệu vợi, xa xôi.

=>  Nhan đề ấy thực chất là sự tưởng niệm về một tình yêu dở dang, với “em”, một người con gái cụ thể nào đó, hay với “nàng thơ” của một thời đã xa.

Thể thơ: Thể thơ tự do, có phần phóng khoáng. Bài thơ vỏn vẹn 49 tiếng, vừa mang hơi thở hiện đại, vừa đậm tính cô chắt trong thơ xưa tự ngàn đời.

Giọng điệu: là sự pha trộn của cảm xúc, tuy vẻ ngoài nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm tình nhưng bên trong cuộn chứa rất nhiều trăn trở, day dứt, ám ảnh khôn nguôi.

Sử dụng kĩ năng đọc chậm, đọc sáng tạo để nhận biết được mạch cảm xúc của bài thơ:

– Mạch cảm xúc: Cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ những tiếc nuối trong muộn màng của một tình yêu dang dở, đến những nhớ nhung tràn trề, đắm say, rồi cảm giác chơi vơi, hẫng hụt, cuối cùng cảm xúc đọng lại trong nỗi ngậm ngùi, xa xót.

Bước 2: Học sinh sử dụng kĩ năng đọc phân tích để đọc hiểu được nội dung bề sâu của bài thơ và vai trò của các hình thức trong việc thể hiện nội dung ấy.

Khám phá nội dung bề sâu của bài thơ bao gồm cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình, thấy được cái tôi cá tính của nhà thơ, đồng thời khái quát hóa giá trị nội dung và nghệ thuật của toàn thi phẩm.

* “Bóng chữ” Sự tưởng niệm về một tình yêu dang dở:

– Tín hiệu quá vãng hiện lên ngay ở câu mở đầu:

Chia xa rồi anh mới thấy em

/ Hai chữ “Chia xa” là khoảng cách không gian hay là khoảng cách tâm hồn?

/ Hai vần bằng “xa rồi” tiếp nối hai vần trắc “mới thấy” vừa nói được sự đối lập của cái hiện hữu với cái đã qua, vừa rưng rưng một niềm chua chát: khi mất đi điều quý giá, người ta mới biết mình từng có điều vô cùng đáng để trân trọng.

– Ba từ “thời thiếu nhỏ” trong câu thơ thứ hai rất lạ lùng, rất đa nghĩa. Thay vì tách một từ thành ba từ có nghĩa, Lê Đạt ghép ba từ có tính tương đồng về nghĩa tạo thành một tổ hợp từ đa nghĩa, đa dạng. Đó vừa là thời đã qua, vừa là sự thu hẹp dần về mức độ nhỏ, khuyết, vắng, xa …

=> Khi liên kết hai câu thơ với nhau, câu thơ thứ hai có vẻ như rõ nghĩa hơn. Ta vô tình dùng tiếng cuối của câu thứ nhất làm chủ thể của câu thứ hai. Có thể hiểu thành:

“Em như một thời thơ thiếu nhỏ”

Đó là Em, Em cũng chính là Bóng Chữ. Bóng Em, Bóng Chữ, Bóng Ai?

– Đặc biệt, thứ quý giá để tạo nên chất men của thơ, chất nồng trong trái tim đập rộn yêu thương bản năng của nhân loại, đó là:

“Em về trắng đầy cong khung nhớ”

+“trắng” đồng nghĩa với “không”, với hư vô, với nhàm nhạt, thậm chí là “trắng quá nhìn không ra” (Hàn Mặc Tử)

+ Nhưng với cách dùng từ của Lê Đạt, tính từ “trắng” đứng trước tính từ “đầy”, tính từ “nhớ” và ở ngay sau động từ “về” thì câu thơ đã trở thành một sự kết hợp từ diệu kì: Hình ảnh “Em” choán đầy trong niềm nhớ của thi nhân.

=> Câu thơ vừa tha thiết, vừa đắm say.

+“Khung nhớ” là hình ảnh đẹp và hiếm, vừa cụ thể hóa sự dồn nén vô hạn của nhớ thương. Từ “cong” mang sắc thái mềm mại làm tiếng “khung” như  mềm ra, ngọt ngào và gợi chất thơ đến lạ kì.

+ Hình tượng “em” đang đến hay đang đi? Em đến mang theo nỗi nhớ? Em đi để lại nỗi nhớ?  Hay em ở đây mà nỗi nhớ vẫn tràn về “đầy cong khung nhớ”?

=> Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu nồng nàn, đắm say.

“Mưa mấy mùa

   Mây mấy độ thu”

+ Câu thơ tạo nên một sắc thái khá ngọt:

/ Các phụ âm “m” đặt liên tiếp cạnh nhau tạo âm hưởng mênh mang, chơi vơi của cảm xúc, của cõi lòng.

/“Mây, mưa” vốn là các từ thường được liên kết với nhau nhưng ở đây tác giả tách ra đứng độc lập ở 2 đầu dòng thơ riêng biệt.

=>  Hai từ ấy chỉ sự xoay vần, tuần hoàn của thời gian: bao mùa đã qua, bao độ đã tới – duy chỉ có một thứ không đổi thay, không im ngủ đó là nỗi nhớ em. Và như vậy, “mưa mấy mùa”, “mây mấy độ thu” phải chăng chính là những đơn vị để “đo đếm” nỗi nhớ?

– “Vườn thức một mùi hoa đi vắng”

+ “Vườn”: một sự ẩn dụ ngọt ngào cho anh, cho nỗi nhớ cháy bỏng. Dù em đã xa, dù “mùi hoa đã đi vắng” nhưng chiếc kim la bàn tình yêu vẫn chỉ hướng về một phương: chính là  “Em”.

+ Lời thơ gợi nhớ đến thơ của Xuân Quỳnh:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Chỉ có khác nhau là lời tình tự của nhân vật trữ tình, còn điểm giống nhau đó là ở sự đắm say đến tha thiết, cảm động.

– “Em vẫn đây mà em ở đâu?” Câu thơ gợi nhiều cách hiểu:

+ Người đã đi, nhưng ảnh hình và mùi hương vẫn còn vương vấn.
+ Hay người vẫn đây, nhưng tâm hồn người lại quá đỗi xa xôi.

=> Chủ thể trữ tình cảm nhận được “em vẫn đây”, nhưng không thể thấy, không thể chạm vào. “Em” như ở khắp nơi, như mùi hoa lẩn khuất quanh vườn, nhưng chưa từng xuất hiện.

=> Đây là một câu hỏi không có lời đáp, chỉ vọng về một chút dư âm, ngân toả và buồn tha thiết: “Em vẫn đây mà em ở đâu” phải chăng còn có nghĩa là: em không còn nữa. Có lẽ bi kịch tình yêu chính là ở đây. Tất cả chỉ còn là sự diệu vợi, xa xôi; là quá vãng dù vẫn đắm say, thắm quyện, da diết nỗi nhớ.

*Hai câu thơ kết – dồn tụ tất cả cảm xúc bài thơ:

 “Chiều Âu Lâu

  Bóng chữ đọng chân cầu”

  • Hình ảnh “Âu Lâu” mang nhiều tầng nghĩa:

+ Quê hương của Lê Ðạt, một bến sông ở Yên Bái

+ Một mái lầu – một nơi hò hẹn

+ Chốn dừng chân trong giây phút của người du khách.

=> Phải chăng đó chính là bóng em, chợt đến rồi chợt đi, để lại nỗi nhớ thiết tha khôn cùng.

+ Từ “âu” còn có thể là âu lo, âu yếm. Nó vừa là ảo giác từ nỗi nhớ của một kẻ si tình vừa là sự từ bỏ của chính niềm say đắm ấy.

– Trong chiều Âu Lâu ấy, hình ảnh bóng em, hay bóng chữ “đọng” lại thành dòng kí ức như rễ cây luôn gắn vào cội đất – bóng em mãi được neo đậu chắc chắn trong trái tim chàng trai si tình Lê Đạt. Hai thanh bằng khép lại bài thơ vừa làm giọng trùng xuống, lắng đọng, vừa mở ra những ngân nga trong trái tim con người.

Cả bài thơ, bởi làm nên từ bóng chữ, nên đã mở ra một thực tại khác vô cùng đắm say và thơ mộng giữa hai thực thể chữ và câu. Bóng chữ chao đảo giữa mộng và thực, giữa tục và thanh, giữa người và ảnh, giữa phôi pha và vĩnh cửu.

Bước 3: Tổng kết, đánh giá

Nội dung: “Bóng Chữ” không chỉ là một bài thơ 40 tiếng, mà còn là một đời thơ. Nếu nói về bài thơ, “bóng chữ” là bóng em, bóng người. Nếu nói về đời thơ, “bóng chữ” là nỗi ám ảnh chi phối và “làm khổ” Lê Đạt, cũng như làm những người yêu thơ luôn phải ngỡ ngàng khi đọc thơ ông.

– Nghệ thuật: Sáng tạo các từ ngữ, hình ảnh mới lạ, hấp dẫn. Kết cấu câu độc đáo, không có dấu ngắt câu giúp cảm xúc tự do tuôn trào mãnh liệt. Sử dụng câu hỏi tu từ không rõ lời đáp, khiến cho nỗi nhớ của chủ thể trữ tình càng thêm da diết, khôn nguôi, tạo sự ám ảnh trong lòng người đọc.

Sử dụng kĩ thuật đọc sáng tạo để có những đánh giá bước đầu về giá trị của bài thơ:

“Bóng chữ”, dung lượng thơ tuy không lớn nhưng sức chuyển tải ý nghĩa quả không giản đơn, dễ dàng. Lê Đạt đã thực sự để tang một tình yêu dang dở trong “Bóng chữ”. Ông đã hoàn toàn thành công khi vẽ lên tình yêu màu sắc của nhớ nhung trong một thế giới ảo ảnh. Nơi ấy, tình yêu là bóng, nỗi nhớ cũng là bóng. Tất cả đều là hư ảo, liêu trai, mong manh và không sắc màu.

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt

Một mật ngọt thành đời vạn chuyến ong bay”

(Chế lan Viên)

Với ngòi bút tinh tế, độc đáo cùng hành trình miệt mài, trăn trở tìm kiếm những giá trị nghệ thuật mới mẻ trong khu vườn cuộc đời, nhà thơ Lê Đạt đã để lại những dấu ấn riêng mới mẻ không thể trộn lẫn trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại.

4.2.2. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)

Bước 1: Nhận biết văn bản.

Cần sử dụng kĩ năng đọc tích lũy để nắm bắt các tri thức về tác giả, tác phẩm:

*Về tác giả:

– Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 trong một gia đình nghèo ở xóm Bà Điều, Đầm Dơi, tận U Minh nơi miền đất Mũi. Chị từng có một tuổi thơ khá vất vả, vừa phải đi học, vừa phải làm việc nhà, việc ruộng vườn giúp gia đình. Sau khi học xong cấp 2, do gia đình gặp biến cố, kinh tế khó khăn, chị đã quyết định rời ghế nhà trường, sớm lao vào cuộc mưu sinh (làm văn thư cho tạp chí Bán đảo Cà Mau). Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư vẫn không hề nản chí. Chị bắt đầu viết văn tại làng quê với sự động viên của người cha: “Nghĩ gì viết nấy, viết những gì con đã trải qua”. Đây có lẽ là một trong những duyên cớ khiến cô gái nhỏ nhắn, hiền hậu Nguyễn Ngọc Tư bén duyên với nghiệp viết lách.

– Là một cây bút trẻ, khỏe và có rất nhiều tiềm năng: Sau tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt (2002), tác phẩm đạt giải Nhất cuộc thi “Văn học tuổi 20 lần thứ 2” của Hội nhà văn TP.Hồ Chí Minh, tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư đã đến gần hơn với độc cả cả nước. Cũng từ đó nữ nhà văn đã đều đặn giới thiệu với độc giả những tập truyện ngắn đặc sắc khác nhau. Đặc biệt, sự ra đời của tập truyện ngắn Cánh đồng bất bận năm 2005 đã giúp Nguyễn Ngọc Tư thật sự khẳng định được tên tuổi của mình trên văn đàn Việt Nam, đồng thời từng bước tiếp cận với độc giả trên thế giới.

– Bao trùm các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là hiện thực cuộc sống con người trên mảnh đất Nam bộ với cánh đồng lúa mênh mông, những con sông uốn lượn hay những bờ kinh, con mương và vô số những đầm, đìa, rạch, xẻo…;  những chợ nổi với ghe xuồng, sóng nước tấp nập…; những câu hò, điệu hát lên xuống theo từng con nước lớn, ròng; hay những bài vọng cổ buồn được cất lên từ những đoàn ca múa cải lương đang len lỏi mưu sinh tận trong những chợ quê nghèo… Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng được triển khai trên cái nền của “bức tranh” sinh hoạt văn hóa ở làng quê Nam bộ độc đáo ấy, nói như nhà văn Nguyên Ngọc đó chính là “không gian… của Nguyễn Ngọc Tư”

– Nguyễn Ngọc Tư có một quan niệm sáng tác rất nhẹ nhàng mà nghiêm túc về nghề văn của mình.

+ Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực thể loại nào thì với chị điều quan trọng nhất vẫn là cảm xúc. Chị đã từng chia sẻ “… cứ lúc nào thấy xúc động, có nhu cầu viết, nếu không viết chắc tự tử mất thì Tư viết thôi”.

+ Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình cho dù có những dư luận thậm chí trái chiều.

+ Chị cũng sớm cảm nhận và ý thức về sự khắc nghiệt của nghề văn, về sự cô đơn trong sáng tạo của người nghệ sĩ.

+ Là một nhà văn trẻ, Nguyễn Ngọc Tư luôn ý thức được rất rõ về trách nhiệm của người cầm bút, về nghề văn. Chị biết đó là một nghề không hề dễ dàng, trái lại “nhọc nhằn khủng khiếp”, một hành trình dài vô tận.

* Về tác phẩm

Cánh đồng bất tận in trong tập truyện ngắn cùng tên là thành công đặc biệt của Nguyễn Ngọc Tư trong việc miêu tả những nỗi đau bất tận làm quặn thắt lòng người. Đây được coi là một hiện tượng của năm 2005, đã tiêu tốn bao giấy mực của bạn đọc và các nhà nghiên cứu văn học. Dư luận nhiều chiều, khen có, chê có nhưng tác phẩm vẫn có một vị trí đáng mơ ước khi đem về cho Ngọc Tư nhiều giải thưởng cao. Gần đây nhất tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận đã vượt qua các tác phẩm của 8 tác giả nữ quốc tế khác để giành giải thưởng Literaturpreis do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh) bình chọn dựa trên việc xét các bản dịch tác phẩm nổi bật sang tiếng Đức của những tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực.

– Bằng tác phẩm này, “Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt phá rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên bất ngờ thú vị cho giới nhà văn…” (Hữu Thỉnh).

Bước 2: Đọc thông suốt để có ấn tượng toàn vẹn về tác phẩm, nắm bắt được nhan đề, bước đầu nhớ được cốt truyện qua các phần mở đầu, vận động, kết thúc với các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể, hệ thống chi tiết đắt giá có liên quan đến nhân vật chính.

 – Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm: Nhan đề Cánh đồng bất tận rất giàu sức gợi:

+ Nghĩa thực: Những cánh đồng rộng lớn không có tên, không gian đặc trưng của miền tây Nam Bộ.

+ Nghĩa biểu tượng: Cánh đồng bất tận là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng gợi lên không gian hun hút, mênh mang. Nơi đó có những kiếp người lầm lũi, vô tình với chính đồng loại mình.

=> Nhan đề chứa đựng nội dung, chủ đề tác phẩm đó là hiện thực cuộc sống bế tắc, tăm tối của con người cùng bài học nhân sinh sâu sắc.

– Tóm tắt:

Truyện kể về cuộc sống nay đây mai đó của một gia đình gồm người cha (ông Út Vũ) và hai đứa con (Nương và Điền) sau khi người mẹ đã bỏ đi theo một người đàn ông khác. Hận vợ phụ tình, ông Vũ đốt nhà, dắt con phiêu bạt trên chiếc ghe đi chăn vịt từ cánh đồng này đến cánh đồng khác. Thời gian thấm thoắt trôi, những cánh đồng mà cha con ông Vũ đi qua không sao kể xiết, nhưng nỗi hận trong lòng ông vẫn không thể nguôi ngoai. Nó khiến ông ngày càng trở nên cộc cằn và cáu gắt. Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu uất ức và căm hận của ông vì thế đều trút lên hai đứa con của mình và lên những người đàn bà mà ông gặp. Ông hận tất cả đàn bà. Ông để họ yêu mình và rồi lại bỏ rơi họ theo cách mà ông đã từng bị bỏ rơi.

Thế rồi sự xuất hiện của Sương, một cô gái điếm được chị em Nương cứu vớt đã mang lại chút không khí đầm ấm cho 2 đứa bé thiếu tình thương của cha mẹ, cho những bữa cơm của Nương và Điền thêm phần ấm áp và cho cuộc sống tinh thần của 2 chị em bớt tẻ nhạt. Tuy nhiên, đối với ông Vũ, sự xuất hiện của Sương càng khiến vết thương của ông thêm phần nhức nhối. Mặc cho ông Vũ lạnh lùng, cáu gắt, Sương đem lòng yêu ông. Cô làm tất cả để bảo vệ 3 cha con ông, kể cả việc “bán thân” để đổi lấy đàn vịt. Tuy nhiên, tình yêu ấy lại được đáp lại bằng sự chua chát và thái độ thù hận. Sương quyết định bỏ đi. Điền cũng bỏ nhà đi tìm Sương. Chỉ còn lại Nương và ông Vũ, tiếp tục cuộc hành trình cô độc trên những cánh đồng bất tận… Cho đến một ngày, khi trái tim của ông Út Vũ dần nguôi ngoai, tình thương của người cha quay về thế chỗ cho những hận thù thì một biến cố lớn lại ập đến cho gia đình ông Vũ, cho cô con gái tội nghiệp của ông…Trên “Cánh đồng Bất Tận”, con gái ông bị bọn côn đồ ăn cắp vịt cưỡng hiếp trước sự bất lực của người cha.

– Kết cấu: Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh cánh đồng rộng với những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn, cùng với đó là hình ảnh một cô gái điếm sau cơn dập vùi, tơi tả. Kết thúc tác phẩm cũng là hình ảnh cánh đồng, mặt trời le lói ánh sáng, ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá, sau khi bi kịch một lần nữa ập đến với cha con Út Vũ. Đây là kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng. Song không giống như kết thúc của một số tác phẩm văn học trước 1945 (Hai đứa trẻ, Chí Phèo…), kết cấu này không dừng lại ở cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận con người. Cánh đồng là nơi mở đầu cũng là nơi kết thúc những bi kịch trong gia đình của Nương bởi họ đã nhận ra sự hận thù chỉ đem lại cho bản thân những nỗi khổ đau. Dưới ánh mặt trời le lói trên cánh đồng, nỗi sợ hãi về sự ra đời của một sinh linh nhỏ bé tràn ngập trong tâm trí Nương nhưng một ý nghĩ tươi sáng hơn cũng đã dần hình thành hướng cô đến một cuộc sống mới. “Phải ! Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Kết thúc tác phẩm, nhà văn gieo một niềm tin vững chắc vào bản lĩnh của con người có thể đối mặt và vượt qua được thách thức của cuộc sống.

– Tình huống: Truyện xây dựng được một tình huống hấp dẫn, lôi cuốn, đó là tình huống “thắt nút”. Đây là dạng tình huống mà nhân vật chính trong các truyện ngắn thường gặp và bị tác động, bị ảnh hưởng bởi một sự cố, một biến cố bất ngờ xảy đến với cuộc đời họ. Trong truyện ngắn đó là sự việc Mẹ của Nương và Điền ngoại tình với một người đàn ông, sau đó bỏ nhà ra đi; cha của Nương và Điền tức giận đốt nhà và bắt đầu cuộc sống “du mục” rày đây mai đó trên những “cánh đồng bất tận”. Bi kịch về sau của Nương cũng bắt đầu từ đó.

Bước 3: Học sinh sử dụng kĩ năng đọc phân tích để đọc hiểu được nội dung bề sâu của tác phẩm thông qua hệ thống nhân vật trong dòng chảy của cốt truyện:

  • Sương: “Phường làm đĩ”, một vũng lầy bất tận.

+ Xuất hiện ngay ở đầu câu chuyện trong cảnh tiều tụy, đáng thương vì bị cưỡng bức, bị đánh đập, được chị em Nương, Điền cứu vớt. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt. Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu.

+ Vì kiếm tiền Sương sống bằng nghề buôn hương bán phấn: “Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín…

+ Chính tấm chân tình của chị em Nương đã làm hồi sinh phần thiện tính trong con người Sương. Dường như chị được trở về với một con người hướng thiện, muốn sống một cuộc đời thật trong sạch cùng với gia đình này. Chị đã hy sinh để bảo vệ nguồn sống cho họ. Nhưng  dù chị có làm gì vẫn không rột rữa được hình hài một “con đĩ” trong mắt ông Út Vũ.

+ Rớt nước mắt trước sự lạnh lùng của Út Vũ, Sương chọn cách ra đi. Cuộc đời của chị sẽ đi đâu, về đâu, khi người ta luôn nhìn chị với ánh mắt coi thường, khinh bỉ. Đó là bi kịch của con người vì tiền mà đánh mất danh dự của bản thân, để trả giá bằng cuộc đời luôn bị phỉ báng.

=> Sương là hiện thân cho những số phận đàn bà trơ lì, tưởng như đã tha hoá, không còn chút danh dự và lương tâm. Nhưng ở đó người ta vẫn thấy sót lại vẻ đẹp con người, ý thức về tự trọng, về nhân phẩm.

– Út Vũ: người nông dân nuôi vịt chạy đồng với bao ngang trái của cuộc đời, một người cha đáng thương hơn đáng giận.

+ Đối diện với nỗi đau đớn khi bị người vợ phản bội.

+ Trở nên tàn nhẫn, bất lực và tìm cách trốn chạy sự thực thông qua men rượu và đàn bà.

+ Không chỉ hận thù ghê gớm với tất cả đàn bà, ông còn trút sự căm phẫn của mình lên những đứa con, hành hạ chúng về cả thể xác lẫn tinh thần.

+ Cuối cùng nhân vật được thức tỉnh bằng một thảm kịch đau đớn xảy ra với chính đứa con gái của mình. Đứa con gái ấy trong nỗi đau tột cùng đã quên mất sự có mặt của “người cha” mà lại gọi tên thằng em trai tội nghiệp. Hai tiếng “Điền ơi!” thức tỉnh tình cảm cha con trong ông. Hành động ông “cởi cái áo trên người để đắp lên đứa con gái cho thấy tình thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy.

=> Nhân vật Út Vũ là nhân vật bi kịch. Những bi kịch đó là do chính bản thân người đàn ông chuốc lấy. Ông Vũ không mở lòng mình để đón nhận yêu thương khi rất nhiều hạnh phúc đang gần kề và không biết trân trọng những gì mình có để đến lúc sắp vụt mất rồi mới thảng thốt định hình yêu thương.

Điền và Nương – những đứa trẻ với chuỗi ngày tăm tối bất tận.

+ Người mẹ bỏ đi khi Nương và Điền còn quá nhỏ. Chúng ngỡ ngàng trước cuộc sống rồi phải mạnh mẽ để thích nghi như những đứa trẻ mồ côi không có mẹ.

/ Với Điền kí ức về mẹ quá ít, nó chẳng hiểu thương mẹ phải ra sao: “Người ta thương mẹ ra làm sao? Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thát lát… mà nó dành cho chị cũng giống như người ta vẫn thường dành cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dúi mũi mình vào da thịt người đó”.

/ Còn với Nương: “tôi không dám nhớ tới má, bởi ngay khi nghĩ đến má, lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được”. Người mẹ ấy đã gây ra cho những đứa con mình một bi kịch của sự thiếu vắng tình thương, còn gì đau lòng hơn khi con không dám nhớ tới mẹ. Đau lòng hơn khi càng lớn Nương càng giống mẹ, nó đã gieo lên nỗi nhớ má trong lòng Điền và nỗi hận thù trong lòng ba. Tuổi của Nương đáng lẽ phải được học tập, vui đùa, sống vô tư, hồn nhiên như cây cỏ, thế nhưng hàng ngày Nương phải cố để thay đổi chính mình, hàng ngày phải sống trong nỗi đau đớn về cả tinh thần lẫn thể xác: “Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này. Tôi đành để cha đánh mắng để ông bớt đau chút lòng”.

/ Có lúc sự thiếu thốn tình thương của hai đứa trẻ này mà độc giả không khỏi xót xa lòng: “phải chi ông nầy là ông nội mình… Nghe câu đó tôi bổng thấy mình nghèo rơi, nghèo rớt đến nỗi không có… ông nội để thương”. Chúng tập sống lạnh lùng và vô cảm để không bị những trận đòn roi, chẳng dám yêu thương ai vì sợ không nỡ chia lìa: “Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác”.

+ Không có mẹ, cha lại lạnh lùng, chúng tự học tất cả, dù mỗi bài học đều có cái giá của nó. Để rồi như những cây hoang dại, chúng lớn lên bằng nghị lực: “Nhìn bướm bay, nhìn mây tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở tuyến kênh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đâu bao nhiêu lâu thì hết thức ăn…”. Thiếu vắng tình thương: “chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào đó. Nhiều khi nhìn thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình”.

/ Bi kịch thiếu vắng tình thương đã làm Điền trở thành một cây hoang, vươn mình đứng thẳng, nó đầy nghị lực. Thiếu vắng một vòng tay người mẹ để chăm chút, chỉ bảo khi đến tuổi trưởng thành: “Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản băng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm”. Và bi kịch hơn khi Nương nhận ra rằng: “tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền theo đuổi chị, và chị thì chạy theo cha”. Khi Sương ra đi, Điền đã chạy theo để kiếm tìm, liệu rồi Điền sẽ đi về đâu với tuổi đời còn quá trẻ. Và rồi có phải chăng là những bi kịch lại xuất hiện.

/ Với Nương bi kịch luôn đeo bám nhân vật này, vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám khóc. Thiếu vắng tình thương nó không biết phải xoay sở thế nào cho lần kinh nguyệt đầu tiên; “máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại,máu chảy từ từ qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần”. Cái kết của nhân vật này càng đáng thương hơn, bao nhiêu khổ hạnh trên cõi đời mà đấng sinh thành gây ra Nương phải gánh chịu. Nương bị hãm hiếp trước mặt cha, thế nhưng bao nhiêu nghị lực mà Nương tạo ra cho mình đã không khiến cô gục ngã, Nương nghĩ đến việc đặt tên cho những đứa con nếu nàng có thai “đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường… đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Những câu nói ấy của Nương chính là niềm tin và nghị lực, Nương không muốn con mình sẽ sống đời mục đồng, nó sẽ có mẹ, nó sẽ được bù đắp những gì mà Nương thiếu thốn.

=> Số phận của Nương và Điền tiêu biểu cho bi kịch của những đứa trẻ bị bỏ rơi khi hôn nhân của cha mẹ tan vỡ. Nỗi đau bất tận mà chúng phải gánh chịu đã gióng lên một hồi chuông thức tỉnh với những người làm cha, làm mẹ.

Bước 4: Sử dụng kĩ thuật đọc sáng tạo để nhận ra giá trị và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.

Cánh đồng bất tận mở ra trước mắt người đọc một bức tranh hiện thực đầy ngột ngạt, tăm tối của con người ở một vùng quê nghèo tận cùng đất Mũi. Ở đó những kiếp người lầm lũi không chỉ phải đối mặt với sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên mà còn phải chịu nếm trải những nỗi đau bất tận từ chính đồng loại, từ chính những người thân yêu, ruột thịt của mình. Sự tan vỡ của gia đình bé nhỏ trong tác phẩm này là tất yếu sau sai lầm của người mẹ và sự mê đắm vào việc trả thù của người cha. Hai nhân vật đứa trẻ trong tác phẩm là những nạn nhân, lớn lên tự nhiên như đàn vịt, thiếu thốn sự quan tâm và những cử chỉ trìu mến của người thân. Điều đó đã lay động trái tim hàng nghìn độc giả.

Trong tác phẩm các nhân vật được khắc họa với những nét tính cách đặc thù của con người Nam Bộ: chân thực, hồn nhiên, chất phác và bản năng. Cốt truyện mang tính chất cổ điển, không có gì mới nhưng tác giả viết bằng thứ ngôn ngữ và hơi văn lạ, tạo được sức lôi cuốn mạnh mẽ. Cái hồn khí của truyện chứng tỏ nhà văn là người rất yêu vùng đất và con người miền Tây chứ không hề có gì là xúc phạm, bóp méo sự thật. Người miền Trung, miền Bắc đọc tác phẩm này sẽ cảm thấy yêu mến mảnh đất Cà Mau hơn. Họ là những người bình thường trong cuộc đời, họ có những nét tha hóa do hoàn cảnh nhưng cái phẩm chất hoàn lương luôn tiềm tàng ở họ. Người mẹ xấu hổ trước sai phạm của mình đã bỏ nhà ra đi chứ không thể lì lợm đối diện với hai con, người đàn bà tuy phải lang chạ kiếm sống nhưng khi cần cũng biết hy sinh để cứu đàn vịt gia sản của mấy chị em, rồi trái tim chai sạn khổ nhục của chị biết run lên cay đắng trước sự khinh rẻ lạnh nhạt của ông bố hai đứa trẻ, sự thức tỉnh của người bố trong chiều mưa tầm tã mà nỗi đau lên đến tận cùng khi đứa con gái tội nghiệp bị hãm hiếp… Không kể mấy tên lưu manh cướp bóc, cưỡng bức, thì các nhân vật chính từ cô gái điếm bất hạnh, người mẹ sai lầm, người cha cực đoan đến người con trai nhu nhược… đều có hai mặt tối – sáng trong tính cách họ khiến ta thương cảm chứ không căm ghét. Cái nhân – cách – văn – hóa lương thiện bị vùi lấp xáo trộn trong họ nhiều khi vụt lên sáng rõ hơn ở nhiều con người được ngụy trang trong đời thực. Sự thức tỉnh của họ cũng như cái giây phút “thèm lương thiện” của Chí Phèo làm ta không bi quan tuyệt vọng ở con người, ở kiếp người mà ngược lại chỉ làm ta thêm gắn bó với họ vì không có “cái gì thuộc về con người mà xa lạ với chúng ta”. Và nếu hiểu như vậy thì trong hoàn cảnh riêng biệt, nếu giả sử có một doi đất nào đấy ở Cà Mau có nhiều con người thực kiểu Nguyễn Ngọc Tư miêu tả cũng chỉ làm ta yêu mến và xúc động hơn bởi cái sức mạnh khái quát đầy tính bao dung của nghệ thuật.

Cánh đồng bất tận để lại một nỗi u ám mênh mang về hiện thực. Người đọc có cảm tưởng rằng ở miệt sông nước Nam Bộ những “thân phận làm đĩ” nhiều quá. Cái ác thống trị trong cuộc sống, trong tim con người và cả trong cách khai thác chất liệu của tác giả. Tình người vắng bóng trong mối quan hệ gia đình và đồng loại. Bối cảnh xã hội, đồng bằng, sông nước Nam Bộ chỉ còn lại một vùng hoang dã như thời mông muội, ở đó không có đạo lý, không có luật pháp, không có tình người. Nhân vật hiện lên trần trụi, hiện sinh. Con người hành xử theo bản năng nhiều hơn là ý thức xã hội. Thông điệp mà tác giả Cánh đồng bất tận muốn gửi đến cho độc giả không nhằm phê phán hay ám chỉ các mặt tối, sáng một nơi nào cả, mà chính là cảm xúc nhân văn với thân phận con người. Cánh đồng bất tận chỉ nói cái sự đời và miêu tả người đời. Những sự kiện nêu lên có màu sắc địa phương trong tác phẩm chỉ là cái áo khoác cho thông điệp dễ đi trọn đường đến trái tim độc giả. Con người nên sống với tình yêu, nếu sống với hận thù chỉ biết có hận thù thì khi anh trả thù đời, đời cũng trả thù lại anh! Nguyễn Ngọc Tư đã đặt ra vấn đề về cách cứu vớt những sai lầm nhân thế, người ta chỉ có thể cứu vớt được bằng sự khoan dung, tha thứ, lấy ân trả oán… Cao quý hơn Nguyễn Ngọc Tư đã định hướng cho người đọc nhất là những bậc cha mẹ cách giáo dục con cái ở tuổi mới lớn – đó là giáo dục giới tính. Câu kết truyện “là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” quả là một thông điệp đầy tính nhân văn.

Tác phẩm không phải đã toàn bích, có lúc tác giả đã hơi lý tưởng hoá, nghĩ thay cho nhân vật, tạo nên một ấn tượng gờn gợn khiên cưỡng. Dẫu vậy, Cánh đồng bất tận vẫn là một thiên truyện đọc cảm động từ dòng đầu đến cuối, vì tính nhân văn dồi dào trong nội dung, cũng như còn làm độc giả say đắm bởi một số đặc sắc nghệ thuật rất riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Cánh đồng bất tận được chú ý như là cánh én báo hiệu một mùa đổi mới văn chương, sẽ có nhiều tác phẩm được sáng tác theo hướng của Cánh đồng bất tận.

4.2.3. Tiểu thuyết Anna Karenina (Lev Tolstoy)

– Do tính chất đồ sộ của thể loại tiểu thuyết (cả về dung lượng lẫn khả năng phản ánh hiện thực đời sống) nên khi hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm, sau khi các em đã đọc toàn vẹn văn bản, chúng tôi thường đưa ra cho các em một số câu hỏi đọc hiểu mang tính chất định hướng tiếp nhận. Các em sẽ viết thu hoạch phần tự đọc hiểu của mình. Những vấn đề các em chưa rõ sẽ được đưa ra thảo luận ở lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

– Với tác phẩm Anna Karenina (Lev Tolstoy), những câu hỏi mà chúng tôi định hướng cho các em là:

+ Em có hiểu biết gì về nhà văn Lev Tolstoy?

+ Tiểu thuyết Anna Karenina ra đời trong hoàn cảnh như thế nào?

+ Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm.

+ Trong tác phẩm này, nhà văn Lev Tolstoy đã đề cập tới những vấn đề gì?

+ Nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật của Lev Tolstoy.

+ Em hiểu thế nào là phép biện chứng tâm hồn? Làm rõ phép biện chứng tâm hồn qua nhân vật Anna.

– Sau đây là bài thu hoạch của em Lê Thị Hồng Hạnh (học sinh lớp 12A6, giải Ba vượt cấp HSG Quốc gia năm 2017 – 2018)

Lev Tolstoy là một tiểu thuyết gia người Nga vĩ đại, là khởi nguồn của những thành công và sự đổi thay to lớn trong văn học thế giới cuối thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Tấm gương lao động nghệ thuật quên mình của ông và những tác phẩm vĩ đại như Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenia, Phục sinh… để lại một kho tàng những kinh nghiệm vô giá cho các nhà văn. Đương thời, chính Đôxtôiepxky đã có lần gọi Lev Tolstoy là “vị thần nghệ thuật”. Sau này, ông được coi là “viện hàn lâm của các nhà văn”, “là một dòng suối mát mà nhân loại mãi mãi đến uống”.

Tư chất bẩm sinh cộng với khả năng tự đào luyện mình đã giúp L. Tolstoy trở thành một người vô cùng uyên bác. Ông tích lũy được vốn kiến thức vô cùng lớn về tâm lý, tôn giáo, âm nhạc, mỹ học, lịch sử, khoa học… Ông thành thạo hai mươi ngoại ngữ, đọc hàng vạn cuốn sách có ghi chép cẩn thận.

  1. Tolstoy cũng là một người lao động nghệ thuật vô cùng nghiêm túc. Phương châm của ông là: “Hãy đồng hóa những người đi trước và đi xa hơn nữa”. Bao giờ ông cũng suy nghĩ kỹ càng trước khi viết, ông nghiên cứu đến tận cùng vấn đề để có những hiểu biết sâu sắc. Và khi đã bắt tay vào viết, ông luôn trăn trở, chọn lựa chi tiết hết sức kỹ càng, nghĩ ra vô vàn yếu tố, vô vàn mối liên hệ, và sau đó chọn lấy những gì là hợp lý nhất. Bản thảo của ông được viết đi, viết lại hàng chục lần. Thậm chí, khi đã xuất bản, ông vẫn tiếp tục sửa chữa để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.

Điều đáng nói nữa, dù đọc sách và học tập rất nhiều, nhưng ông không phải là nhà văn chôn thân mình trong tháp ngà nghệ thuật. Khi còn là một chàng trai trẻ, ông đã xin ra chiến trường, viết những truyện ngắn đầu tiên ở chiến hào. Sau này ông đã đi rất nhiều nơi trong và ngoài nước, đã thâm nhập vào nhiều cảnh đời, đã thấu hiểu sâu sắc muôn mặt của đời sống, thấu hiểu đủ loại người từ những vị vua, vị anh hùng, các tướng lĩnh, người nông dân, cha cố và cả những cô gái điếm… Thấu hiểu những vấn đề sâu thẳm trong lịch sử và thấu hiểu hiện tại, L. Tolstoy đã dành tất cả khả năng, tất cả tâm huyết của mình để sáng tác văn học, nhằm ca tụng “nhân dân kỳ diệu vô song”; nhằm “tìm kiếm cái đẹp”.

Có thể nói, cống hiến mới mẻ nhất của ông là ở chỗ, ông là người đầu tiên đã kết hợp được yếu tố tự sự song song với yếu tố tâm lý trong anh hùng ca Chiến Tranh và hòa bình mà trước đây, từ thời Homer cổ đại, qua thời trung cổ đến thế kỷ 18 đều chưa đạt được.

  1. Tolstoy đặc biệt nhấn mạnh đến sự thể hiện “sự thật về tâm hồn con người” như là mục đích chính yếu nhất của nghệ  thuật. Ông viết: “Nghệ thuật chính là cái kính hiển vi hướng nhà nghệ sỹ soi rọi vào những bí ẩn của tâm hồn mình và biểu hiện những bí ẩn chung đó cho tất cả mọi người”. Với suy nghĩ ấy, ông đã tìm ra tính lưu chuyển của tâm lý con người, đến những quy luật của nó hay nói một cách khác, cống hiến vĩ đại của  L. Tolstoy chính là tính biện chứng tâm hồn. Ông có cái nhìn sâu thẳm vào thế giới bên trong của nội tâm con người, phát hiện ra “con người trong con người”; đồng thời miêu tả “tất cả các chiều sâu của tâm hồn con người”. Để đạt được mục đích của mình, ông tìm mọi thủ pháp để thể hiện tâm lý, mà đáng nói nhất là nghệ thuật độc thoại và phép soi gương.

Tác phẩm Anna Karenina là thành quả của hơn 4 năm sáng tác (1873 – 1877), được nhà văn manh nha ý tưởng từ năm 1870 với dự định ban đầu viết về một người đàn bà thượng lưu hư hỏng nhưng “đáng thương chứ không đáng tội”, sau 12 lần sửa đổi nội dung và tổi tên. L. Tolstoy cho rằng: “Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong đời tôi đã bám chặt lấy tâm hồn tôi và lôi cuốn toàn thân tôi”.

Cốt truyện xoay quanh nhân vật trung tâm là Anna, vợ của một quan chức cao cấp của triều đình ở Sankt-Peterburg. Gia đình người anh trai của Anna có sự bất hòa và nàng đã đi tàu đến Moskva để giúp anh trai và chị dâu hòa giải. Nàng đi cùng toa với bá tước phu nhân Vroskaya. Đến Moskva, anh trai của Anna đón ở ga và con trai của bá tước phu nhân là Alexei Vronsky, một chàng trai tuấn tú, giàu có, quý phái và có tương lai xán lạn ở triều đình và trong quân đội cũng ra đón mẹ. Lúc này, mọi người chưa kịp xuống tàu thì xảy một tai nạn khủng khiếp: một người công nhân bị tàu cán chết. Sự kiện này làm mọi người hết sức kinh hoàng.

Cùng thời gian này, Levin, một điền chủ hầu như quanh năm chỉ sống ở nông thôn, cũng đến Moskva với mục đích cầu hôn với cô con gái út của gia đình Cherbatsky là Kitty – người mà đã để ý và có tình cảm từ lâu, song đã bị Kitty từ chối, bởi tâm hồn nàng đã hướng về Vronsky nhiều hơn.

Anna nhanh chóng giải quyết mối mâu thuẫn cho vợ chồng người anh. Vẻ xinh đẹp và khả ái của Anna đã hấp dẫn mọi người xung quanh kể cả Kitty. Trong buổi khiêu vũ tổ chức tại nhà người quen ít lâu sau, cả Kitty và Anna đều đến. Kitty hạnh phúc và mong chờ được nhảy cùng Vronsky, nhưng khi nàng thấy vẻ mặt của Vronsky khi nhảy cùng Anna, nàng bất ngờ nhận ra rằng Vronsky đã say mê Anna, điều đó khiến Kitty vô cùng đau khổ.

Anna đón nhận tình cảm của Vronsky và xao xuyến vì tình cảm đó nên nàng cảm thấy có lỗi. Nàng đã vội vã rời Moskva nhưng trên chuyến tàu trở về Sankt-Peterburg. Vronsky đã đi theo “để có mặt nơi nào nàng có”.

Chồng của Anna là Alexei Karenin, lớn hơn nàng nhiều tuổi, là một con người có tâm hồn khô khan, cằn cỗi, khuôn sáo và có lối sống tẻ nhạt. Anna lấy Karenin là do sự sắp đặt của người cô ham tiền và ham địa vị. Vì vậy, sau bao năm chung sống với chồng, nàng không hề có tình yêu. Sự xuất hiện của Vronsky cùng với tình cảm nồng nhiệt của chàng đã đánh thức những khát khao yêu đương trong Anna. Ban đầu nàng cố gắng đấu tranh, song cuối cùng nàng không kháng cự nổi và đã lao vào cuộc tình với Vrosky. Cuộc tình vụng trộm đó không giấu được lâu nhưng thật bất ngờ chồng Anna biết nhưng không ghen tuông mà còn lo lắng cho danh dự và tiếng tăm của ông ta lẫn Anna. Nàng có thai với Vronsky và suýt chết trong khi sinh nở. Karenin đã cao thượng tha thứ cho nàng, chăm sóc nàng cùng đứa bé gái mới sinh khiến Anna cảm động ăn năn và Vronsky thì thấy nhục nhã định tự tử nhưng không chết. Tuy nhiên, sự cao thượng của Karenin chỉ tách Anna ra khỏi Vronsky trong thời gian ngắn mà không dập tắt nổi ngọn lửa tình yêu giữa hai người. Không thể sống thiếu nhau, Anna quyết định bỏ nhà, chia tay với đứa con trai mà nàng yêu quý, để cùng Vronsky và đứa con gái nhỏ ra nước ngoài.

Levin sau khi bị Kitty từ chối “lời cầu hôn” liền rời Moskva quay trở về với nông thôn. Chàng trở lại với công việc quản lý điền trang và tìm thấy sự an ủi trong công việc, trong sự hòa nhập với thiên nhiên và cuộc sống của những người lao động. Chàng biết được việc của Kitty (sau khi bị Vronsky từ chối nàng đã rất đau khổ và bệnh nặng) phải ra nước ngoài dưỡng bệnh. Một lần tình cờ sau buổi làm việc ngoài đồng, trên đường về Levin nhìn thấy cỗ xe ngựa chở Kitty chạy qua (nàng đang trên đường từ nước ngoài trở về). Khi nhận ra tình cảm của mình dành cho nàng vẫn còn nguyên vẹn, Levin quyết định đi Moskva để cầu hôn lần nữa. Lần này, chàng đã thành công. Họ nhanh chóng làm đám cưới và sau đó trở về nông thôn, sống cuộc đời bình yên, hạnh phúc.

Trong khi đó hạnh phúc của Anna và Vronsky thật không dễ dàng, nó phải đổi bằng những hy sinh: Vronsky phải từ bỏ con đường danh vọng, Anna phải rời xa đứa con trai mà nàng rất mực thương yêu và chịu những lời chê trách gièm pha. Họ cũng không thể sống mãi ở nước ngoài nên một thời gian sau họ trở về Nga. Vronsky dù yêu Anna, song cũng đã mệt mỏi vì cuộc sống không chính thức của hai người, trong khi đó Anna vẫn không giải quyết được việc ly hôn với chồng vì vướng bận chuyện con trai. Những khó khăn đó cộng với sức ép của dư luận, của những người quen thuộc xung quanh làm cho quan hệ tình cảm giữa hai người càng lúc càng trở nên căng thẳng. Cuối cùng nàng đã quyết định bắt Vronsky phải hối hận nên đã giải thoát cho mình bằng cách lao đầu vào xe lửa. Đau khổ sau cái chết của An-na, Vronsky đã xin gia nhập vào quân đội tình nguyện giúp người Serbia trong cuộc chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kỳ.

 Trước hết giá trị nội dung của Anna Karenina nằm ở chỗ nó đã phơi bày chân thực bộ mặt xã hội Nga với tất cả những gì đang diễn ra trong nó. Nước Nga trong những năm sau cải cách hiện ra trong tác phẩm với đầy đủ những quan hệ cơ bản và phức tạp. Tolstoy bày ra trước mắt chúng ta những nhân vật đại diện cho các lực lượng xã hội tiêu biểu: quý tộc quan lại đang tư sản hoá, quý tộc thất thế, quý tộc tự do chủ nghĩa, quý tộc bảo thủ, những con buôn, thực lợi, những người trí thức tư sản và tầng lớp nhân dân chủ yếu là nông dân. Về cơ bản, nhà văn đã phản ánh đúng quá trình suy tàn không tránh khỏi của tầng lớp quý tộc: người thì bước vào con đường tư sản hoá, người  thất thế ăn chơi xa hoa, người thì ra sức học mót từ thế giới tư sản Tây Âu, người căm giận trật tự xã hội mới và nuối tiếc nước Nga trước cải cách. Đồng thời với sự lung lay của tầng lớp này là sự lên ngôi, thắng thế của giai cấp tư sản.

Qua hệ thống nhân vật trong Anna Karenina, Lev Tolstoy đã mô tả gần như hoàn chỉnh những thói tật của xã hội thượng lưu Nga lúc bấy giờ. Những trò tiêu khiển xa hoa, vô vị và có phần man rợ (như cuộc đua ngựa mà tại đó, con Lao Xao của Vronsky đã gãy xương sống và bỏ mạng) hay những buổi tiệc hào nhoáng của giới quý tộc mà chủ đề duy nhất để có thể duy trì cuộc nói chuyện giữa các phu nhân là nói xấu người khác, những cuộc ngoại tình, lối sống đạo đức giả của giới thượng lưu…

Không chỉ phản ánh bức tranh hiện thực xã hội toàn diện, sinh động,  tác phẩm còn dựng lên một bức tranh hiện thực tâm hồn con người vô cùng phong phú, tinh tế, khi hướng ngòi bút tới chủ đề gia đình và tình yêu cá nhân – cùng những bi kịch của nó. Đây cũng là cảm hứng mới mẻ so với cuốn Chiến tranh và hòa bình trước đó. Tác phẩm xoay quanh những mối quan hệ hôn nhân, tình cảm: Cuộc hôn nhân của Anna với Karênin môn đăng hộ đối nhưng bị ràng buộc bởi mối quan hệ đạo đức; cuộc hôn nhân của Stephan và Dolly đang đứng trước những rạn nứt, khi Stephan có mối quan hệ ngoài luồng; cuộc hôn nhân hạnh phúc, êm ấm giữa Levin với Kitty; mối tình giữa Anna và Vronsky lại dựa trên tình yêu, đam mê mãnh liệt, có nguy cơ dứt bỏ mọi quan niệm ràng buộc về đạo đức của xã hội phong kiến. Xây dựng bốn mối quan hệ hôn nhân, tình cảm ấy, ban đầu, Lev Tolstoy muốn xây dựng một cuốn tiểu thuyết để khẳng định, ngợi ca nền tảng của gia đình dựa trên các mối quan hệ ràng buộc bởi đạo đức, đồng thời lên án những mối tình chạy theo dục vọng tầm thường. Tuy nhiên, sau đó, bằng tấm lòng nhân đạo của mình cùng sự nhạy bén giữa một xã hội đang dịch chuyển, giao thoa giữa cái cũ và cái mới thì ngòi bút nhà văn lại âm thầm đồng tình với những khát vọng chân thực của con người. Vì thế, cuối cùng nhân vật An-na lại trở nên đáng thương hơn đáng trách. Qua đây, chúng ta cũng thấy được ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt của Lev Tolstoy. Ban đầu, nhà văn muốn bảo vệ nền tảng đạo đức của xã hội phong kiến nhưng sau đó ông không thể không thừa nhận những rạn nứt của nó khi nước Nga bước vào cuối thế kỉ 19. Lev Tolstoy đã trở thành một nhà biện chứng tâm hồn khi tuân thủ tuyệt đối sự chi phối của hoàn cảnh đối với tính cách, số phận nhân vật. Anna cuối cùng phải chết không phải vì nhà văn muốn thế mà bởi vì nàng quá đơn độc trong cuộc chiến nổi loạn, chống lại cả xã hội với những giáo lí đạo đức phong kiến khắt khe.

Để làm nổi bật tính cách các nhân vật một cách khách quan, nhà văn thường dùng phép so sánh và đối chiếu. Ví dụ, ông không vạch thẳng thói xấu Vronsky mà đem vị hoàng thân nước ngoài ra đối chiếu để làm hiển lộ những thói xấu đó. Tính cách vui vẻ yêu đời của Kitty khi đặt cạnh bên vẻ cằn cỗi, đơn điệu của Varenca làm nổi bật sự tương phản và khắc họa sâu hơn tính cách riêng của mỗi người. Trái ngược với Levin thuần khiết là cả một loạt người đủ màu vẻ: Oblonsky với thói quen hưởng thụ lạc thú, Pet’rixki thích bừa bãi và rất nhiều người khác nữa, những kẻ sống trụy lạc ở thành phố, tất cả họp lại thành cái nền trên đó nổi bật phẩm chất đạo đức của Levin với lối sống lành mạnh, giản dị ở thôn quê.

L.Tolstoy khám phá nhân vật này trong sự soi chiếu và cảm nhận của nhân vật khác. Tính cách của Karenin hiện lên thông qua cảm nhận của Anna: “Lòng háo danh, mong ước được thành đạt trong tâm hồn ông ta chỉ có thế, còn như những quan niệm cao thượng, lòng yêu học vấn, tôn giáo, tất cả những cái đó, chỉ là phương tiện giúp sao cho thành đạt”. Đời sống của Karenin theo lời Anna nhận xét là quen “nuôi sống bằng sự dối trá”. Sự dối trá này bộc lộ rõ nhất khi Karenin biết được sự thật về mối quan hệ giữa Anna và Vronsky. Ông muốn che giấu tất cả, thừa nhận sự dối trá để bảo toàn thể diện của mình. Tâm hồn Karenin được miêu tả sinh động từ nhiều mặt, đôi lúc gợi ra một sự đáng thương. Có những lúc Karenin đã sống thành thực, đã yêu và đau khổ đến nói nhịu và líu lưỡi. Ông cũng có lúc vị tha, đã sống theo triết lý tha thứ cho kẻ thù. Nhưng những giây phút lóe sáng như vậy trong tâm hồn Karenin cũng nhanh chóng tắt đi. Về sau, chính ông đã cảm thấy rất hổ thẹn và hối tiếc về những hành động cao thượng của mình đối với Anna. Trong con người Karenin, có một sự giằng co giữa tiếng nói lương tri và thói quen sinh hoạt giả dối, tàn nhẫn của xã hội thượng lưu. Tolstoy gọi đó là sự giằng co giữa sức mạnh tinh thần tốt và sức mạnh thô bạo. Cuối cùng, sức mạnh thô bạo đã hoàn toàn chi phối hành động và cuộc sống của Karenin. Qua Karenin, ta thấy bản chất giả dối và nhẫn tâm không chỉ xuất phát từ tự thân nhân vật, mà còn là sự hội tụ, phản chiếu và là kết quả của quá trình hòa nhập của nhân vật với xã hội của anh ta.

Diễn tiến tình yêu của Anna với Vronsky được nhà văn mô tả hợp lý và từ tốn. Thoạt đầu, Vronsky cũng chỉ xem mối quan hệ với Anna là trò tiêu khiển đang được thịnh hành trong giới quý phái. Nhưng sau đó, chàng đã thật lòng yêu. Quá trình tan vỡ của mối tình Anna – Vronsky cũng diễn biến một cách thuyết phục. Vronsky hối hận vì yêu Anna mà mất cả tự do, nhưng vẫn giấu nỗi bực mình dưới lời lẽ dịu dàng, lịch sự. Đối với chàng, tình yêu còn mang màu sắc chiến thắng và khi hư vinh đó giảm dần thì chàng bắt đầu chán. Anna thèm muốn hạnh phúc thật sự. Nàng yêu tha thiết vì mong đó là con đường thoát khỏi mọi trói buộc giả dối, độc ác của giới thượng lưu. Nhưng Vronsky không phải là người có thể đánh giá đúng mong ước đó. Những cơn ghen tuông của Anna thật vô lý nhưng lại hoàn toàn có thể hiểu được. Chúng càng làm trầm trọng thêm mối bất hòa giữa nàng và Vronsky. Ngay cả khi họ làm lành với nhau sau những cuộc ghen tuông giận hờn, những chi tiết nhỏ nhặt nhà văn đưa ra cũng cho thấy dấu hiệu quan hệ của họ là vô hy vọng. Con mắt nhận xét chăm chú và sắc sảo của nhà văn nhìn bao quát và thấu suốt mọi sự vật, từ việc lớn mà đôi mắt bình thường không hiểu nổi đến cái vụn vặt một người lơ đễnh thường bỏ qua; tất cả cái đó giúp nhà văn miêu tả tâm hồn con người với mọi vẻ sâu sắc, cụ thể và bất ngờ nhất.

Lev Tolstoy là một nhà văn hiện thực vĩ đại của Nga thế kỷ XIX. Các sáng tác của ông thể hiện một tâm hồn trăn trở của một văn hào, một nhà tư tưởng cả đời đi tìm chân lý để cải biến xã hội. Anna Karenina là một thành công lớn của Tolstoy và trở thành một trong những kiệt tác của văn chương hiện thực. Trong tiểu thuyết Anna Karenina, sự quan sát sâu sắc cuộc sống đã giúp Tolstoy thể hiện đúng đắn những bản chất của xã hội đương thời, đồng thời cũng thể hiện một khả năng tinh tế trong việc nắm bắt những trạng thái tế vi nhất trong tâm hồn con người. Từ tiểu thuyết này, tác giả cũng đặt ra nhiều vấn đề của xã hội, mà chính tác giả cũng phải khó khăn để giải quyết. Nhà văn Đức Henric Man đã viết: “Khi Tolstoy vô song viết Anna Karenina, chính ông cũng chưa hiểu rằng cái xã hội được nhìn thấu suốt như thế thì không thể nào còn có thể tiếp tục lâu dài hơn được nữa”.

 

Chương III. Hệ thống bài tập giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm ngoài chương trình

  1. Dạng bài tập nhận biết văn bản

– Đối với tác phẩm thơ:

+ Một bài thơ trữ tình được viết theo một thể thơ cụ thể với một hình thức tương ứng. Mỗi thể thơ có một số yếu tố hình thức đặc sắc lựa chọn từ những yếu tố hình thức tiêu biểu của thơ ca nói chung. Thông qua các yếu tố ấy, nhà thơ thổ lộ nỗi niềm, tâm tư, tình cảm; chuyển tải tư tưởng, nghĩ suy của bản thân trước một đối tượng. Để có thể đọc hiểu toàn bộ bài thơ, học sinh cần có năng lực nhận biết các yếu tố hình thức riêng lẻ với 2 yêu cầu quan trọng:

/ Yếu tố hình thức đó là gì? Có gì đặc sắc?

/ Yếu tố đó có tác dụng gì trong việc biểu đạt nội dung?

+ Có nhiều yếu tố hình thức tạo nên bài thơ, sau đây, chúng tôi chỉ tập trung vào một số yếu tố cơ bản: Nhan đề, thể thơ (căn cứ vào số câu, số tiếng), vần thơ và các yếu tố âm thanh, nhịp thơ, các biện pháp tu từ, ngôn ngữ và hình ảnh.

+ Áp dụng với bài thơ “Bóng chữ” (Lê Đạt), khi kiểm tra học sinh chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

STT Câu hỏi Nội dung trả lời của HS
1 Nhan đề bài thơ “Bóng chữ” gợi cho em những suy nghĩ gì? “Bóng chữ” là một nhan đề vừa lạ lùng vừa gợi nhiều suy tưởng. Xét về mặt ngữ nghĩa, “chữ” là sự tồn tại của các kí tự và “bóng chữ” là sự phản chiếu những nét nghĩa ra bên ngoài vỏ ngôn từ để người đọc tự do suy ngẫm. Hiểu một cách giản dị, “bóng chữ” là lớp nghĩa đằng sau vỏ ngôn từ . Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì thật không đúng với phong cách thơ Lê Đạt. Quả vậy, nhan đề ấy còn có sức gợi sâu xa, là bóng dáng một thời đã qua nhưng chưa bao giờ phai nhạt, là “bóng nàng” nửa hư, nửa thực, vừa như có thể kéo lại gần, vừa quá diệu vợi xa xôi…
2 Bài thơ viết theo thể thơ gì? Vai trò của thể thơ trong việc chuyển tải nội dung cảm xúc của bài thơ? Bài thơ viết theo thể thơ tự do, ngắn gọn, trừ nhan đề chỉ vẻn vẹn 49 tiếng, không bị gò bó về vần, nhịp. Những đặc điểm ấy vừa tạo nên độ hàm súc cho bài thơ vừa giúp nhà thơ bộc lộ những trạng thái cảm xúc rất tự nhiên mà lay động.
3 Cảm nhận về âm hưởng, giọng điệu chung của bài thơ? Âm hưởng, giọng điệu chung của bài thơ nhẹ nhàng, tình cảm như lời thủ thỉ, tâm tình, lời bộc bạch rất đỗi tự nhiên nhưng chứa đựng bên trong là những day dứt, trăn trở, những ám ảnh khôn nguôi.
4 Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong bài thơ và nêu tác dụng. Những biện pháp tu từ nổi bật của bài thơ là: Nghệ thuật so sánh ở hai câu đầu. Hình ảnh so sánh “Như một thời thơ thiếu nhỏ” tạo nên cách diễn đạt rất gợi cảm, giàu hình ảnh, so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng. Cách so sánh đem lại cho chúng ta nhiều cách hiểu. Đó vừa là thời đã qua, vừa là sự thu hẹp dần về mức độ nhỏ, khuyết, vắng, xa …

Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Em về trắng đầy cong khung nhớ” kết hợp câu hỏi tu từ “Em vẫn đây mà em ở đâu” diễn tả nỗi nhớ của chủ thể trữ tình vừa hữu hình, cụ thể, vừa da diết, khôn nguôi.

5 Ngôn ngữ, hình ảnh trong bài thơ có gì đặc biệt? Lấy ví dụ minh họa. Ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ rất mới lạ, hấp dẫn, gợi nhiều cảm xúc và liên tưởng. Đặc biệt là cách sử kết hợp từ độc đáo:

Ví dụ: Câu thơ “Mưa mấy mùa, mây mấy độ thu” Hai chữ “mây mưa” tách ra đứng đầu mỗi nhịp thơ gợi ra cái vòng tuần hoàn, vần xoay của vũ trụ, của thời gian. Lê Đạt sử dụng năm phụ âm “m” liên tiếp gợi ra cảm giác chơi vơi, mênh mang. Dường như có một chút gì là lo lắng, là tiếc nuối của nhân vật trữ tình trước sự biến chuyển của thiên nhiên, vũ trụ.

6 Cảm xúc bao trùm của nhân vật trữ tình trong bài thơ ? Cảm xúc bao trùm của nhân vật trữ tình là niềm nuối tiếc, nhớ thương da diết, khắc khoải. Có ý thức muộn màng, có nhớ nhung tràn trề đắm say, có xót thương, ngậm ngùi.

– Đối với văn bản tự sự nói chung, văn bản truyện nói riêng yêu cầu nhận biết các yếu tố bề nổi của văn bản bao gồm: Tóm tắt cốt truyện; xác định đề tài, chủ đề; ngôi kể; ngôn ngữ trần thuật; tình huống truyện; kết cấu; nghĩa nhan đề, bối cảnh (không gian và thời gian)…

+ Ví dụ với truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi đã thiết kế một số bài tập sau đây:

STT Nội dung câu hỏi
1 Hãy tóm tắt cốt truyện Cánh đồng bất tận. Nhận xét về kết cấu câu chuyện.
2 Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
3 Trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một tình huống truyện như thế nào? Nêu ý nghĩa của tình huống ấy trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
4 Xác định bối cảnh không gian của truyện ngắn Cánh đồng bất tận.

+ Sau đây là bài thu hoạch của một em học sinh lớp 12A6

Yêu cầu của

câu hỏi

Nội dung trả lời
Tóm tắt cốt truyện

Nhận xét về kết cấu

Truyện kể về cuộc sống nay đây mai đó của một gia đình gồm người cha (ông Út Vũ) và hai đứa con (Nương và Điền) sau khi người mẹ đã bỏ đi theo một người đàn ông khác. Hận vợ phụ tình, ông Vũ đốt nhà, dắt con phiêu bạt trên chiếc ghe đi chăn vịt từ cánh đồng này đến cánh đồng khác. Thời gian thấm thoát trôi, những cánh đồng mà cha con ông Vũ đi qua không sao kể xiết, nhưng nỗi hận trong lòng ông vẫn không thể nguôi ngoai. Nó khiến ông ngày càng trở nên cộc cằn và cáu gắt. Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu uất ức và căm hận của ông vì thế đều trút lên hai đứa con của mình và lên những người đàn bà mà ông bắt gặp. Ông hận tất cả đàn bà. Ông để họ yêu mình và rồi lại bỏ rơi họ theo cách mà ông đã từng bị bỏ rơi.

Thế rồi sự xuất hiện của Sương, một cô gái điếm được chị em Nương cứu vớt đã mang lại chút không khí đầm ấm cho 2 đứa bé thiếu tình thương của cha mẹ, cho những bữa cơm của Nương và Điền thêm phần ấm áp và cho cuộc sống tinh thần của 2 chị em bớt tẻ nhạt. Tuy nhiên, đối với ông Vũ, sự xuất hiện của Sương càng khiến vết thương của ông thêm phần nhức nhối. Mặc cho ông Vũ lạnh lùng, cáu gắt, Sương đem lòng yêu ông. Cô làm tất cả để bảo vệ 3 cha con ông, kể cả việc “bán thân” để đổi lấy đàn vịt. Tuy nhiên, tình yêu ấy lại được đáp lại bằng sự chua chát và thái độ thù hận. Sương quyết định bỏ đi. Điền cũng bỏ nhà đi tìm Sương. Chỉ còn lại Nương và ông Vũ, tiếp tục cuộc hành trình cô độc trên những cánh đồng bất tận…Cho đến một ngày, khi trái tim của ông Út Vũ dần nguôi ngoai, tình thương của người cha quay về thế chỗ cho những hận thù thì một biến cố lớn lại ập đến cho gia đình ông Vũ, cho cô con gái tội nghiệp của ông…Trên “Cánh đồng Bất Tận”, con gái ông bị bọn côn đồ ăn cắp vịt cưỡng hiếp trước sự bất lực của người cha.

Kết cấu: Truyện mở ra là không gian cánh đồng, kết thúc tác phẩm cũng là cánh đồng. Đây là kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng. Cánh đồng là nơi mở đầu cũng là nơi kết thúc những bi kịch trong gia đình của Nương bởi họ đã nhận ra sự hận thù chỉ đem lại cho bản thân những nỗi khổ đau. Dưới ánh mặt trời le lói trên cánh đồng, nỗi sợ hãi về sự ra đời của một sinh linh nhỏ bé tràn ngập trong tâm trí Nương nhưng một ý nghĩ tươi sáng hơn cũng đã dần hình thành hướng nàng đến một cuộc sống mới. “Phải ! Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Kết thúc tác phẩm, nhà văn gieo một niềm tin vững chắc vào bản lĩnh của con người có thể chấp nhận đối mặt và vượt qua được thách thức của cuộc sống.

Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm – Nghĩa thực: Những cánh đồng rộng lớn không có tên, không gian đặc trưng của miền tây Nam Bộ.

– Nghĩa biểu tượng: Cánh đồng bất tận là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng gợi lên không gian hun hút, mênh mang. Nơi đó có những kiếp người lầm lũi, vô tình với chính đồng loại mình.

=> Nhan đề chứa đựng nội dung, chủ đề tác phẩm đó là hiện thực cuộc sống bế tắc, tăm tối của con người cùng bài học nhân sinh sâu sắc.

Tình huống Truyện xây dựng được một tình huống hấp dẫn, lôi cuốn, đó là tình huống “thắt nút”. Đây là dạng tình huống mà nhân vật chính trong các truyện ngắn thường gặp và bị tác động, bị ảnh hưởng bởi một sự cố, một biến cố bất ngờ xảy đến với cuộc đời họ. Trong truyện ngắn đó là sự việc Mẹ của Nương và Điền ngoại tình với một người đàn ông, sau đó bỏ nhà ra đi; cha của Nương và Điền tức giận đốt nhà và bắt đầu cuộc sống “du mục” rày đây mai đó trên những “cánh đồng bất tận”. Bi kịch về sau của Nương cũng bắt đầu từ đó.
Không gian nghệ thuật Không gian chủ đạo làm bối cảnh cho câu chuyện Cánh đồng bất tận là không gian sông nước miền Tây Nam Bộ. Đó là những cánh đồng quê nắng khô, cỏ cháy, một không gian sông nước gắn liền với những bến quê, cái sàn nước, những chiếc ghe thương hồ rày đây mai đó trên những dòng sông. Trong đó, cái không gian “chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi” xuất hiện xuyên suốt trong suốt cuộc hành trình bất tận của ba cha con Út Vũ.

Ấn tượng đầu tiên đập vào mắt người đọc là hình ảnh cánh đồng bất tận được đề cập ngay ở cách đặt tựa đề của truyện ngắn. Hai từ “bất tận” bản thân nó có nghĩa là không bao giờ hết. Có lẽ đó cũng chính là số phận lênh đênh, bạc bẽo mà trời đã xếp đặt cho những con người “nghèo rơi, nghèo rớt”, chúng sẽ mãi đeo bám lấy họ. Sự “bất tận “ không phương hướng, không ngày mai, họ cứ đi, cứ sống như thế. “Cánh đồng bất tận” như gợi ra trước mắt ta một khung cảnh hoang sơ, heo hút và mang một nỗi buồn man mác “những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang…”. Từ “bất tận” cả hai đều là vần trắc, khi đọc, ta lên giọng ở từ “bất” nhưng rất ngắn, để rồi sau đó là một tiếng “tận”, có cảm giác như có một cái gì đó vô hình ghì xuống, dẫu có lên nhưng chỉ trong phút chốc rồi lại vụt tắt lịm như cuộc đời của những người nông dân nghèo khổ. Từ đó, ta có thể thấy rằng ẩn đằng sau cái nhan đề đó là ý nghĩa sâu sắc mà Nguyễn Ngọc Tư muốn truyền tải đến người đọc. Cánh đồng bất tận là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng gợi lên không gian hun hút, mênh mang. Nơi đó có những kiếp người lầm lũi, vô tình với chính đồng loại mình.

 

  1. Dạng bài tập đọc hiểu toàn bộ văn bản

– Với tác phẩm thơ: Chúng tôi thiết lập các dạng câu hỏi sau:

+ Xác định chủ đề của bài thơ.

+ Làm rõ một số chi tiết, hình ảnh, câu thơ trong bài thơ.

+ Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

+ Làm rõ vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Ví dụ: Với bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, chúng tôi kiểm tra năng lực học sinh qua các câu hỏi sau:

STT Nội dung câu hỏi
1 Em hãy nêu chủ đề của bài thơ.
2 Cảm nhận của em về bốn câu thơ sau:

“Em về trắng đầy cong khung nhớ

Mưa mấy mùa, mây mấy độ thu

Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Em vẫn đây mà em ở đâu”

3 Cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
4 Vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

 

– Đối với văn bản truyện dạng bài tập này bao gồm: Bài tập phân tích tình huống truyện, bài tập phân tích nhân vật, bài tập phân tích các chi tiết, bài tập phân tích nghệ thuật trần thuật

Với văn bản truyện ngắn Cánh đồng bất tận, chúng tôi đưa ra cho học sinh các dạng bài tập như sau:

BT1: Phân tích tình huống truyện ngắn Cánh đồng bất tận.

BT2: Cảm nhận của em về nhân vật Nương trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”.

BT3: Phân tích bi kịch của nhân vật Út Vũ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”

BT4: Phân tích nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn Cánh đồng bất tận

BT5: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Cánh đồng bất tận.

  1. Dạng bài tập đánh giá văn bản

– Đánh giá văn bản nhằm phát triển năng lực đọc hiểu có phê phán, học sinh cần biết phê bình văn học, đọc một cách tích cực, có quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá riêng của bản thân người đọc trước một vấn đề, một ý kiến của người khác về văn bản hoặc lấy văn bản tác phẩm để làm rõ cho một ý kiến khác.

– Chẳng hạn với bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra năng lực đánh giá của các em qua hai bài tập sau:

BT1: Về bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, PGS.Tiến sĩ Lê Huy Bắc đã nhận định: “Đây là một trong những thi phẩm hiếm, tiêu biểu bậc nhất cho thi đàn Việt Nam sau 1975 và thơ ca hậu hiện đại Việt Nam”. Anh/chị có đồng tình với ý kiến đó không?

BT2: Trong bài thơ Vân chữ, Lê Đạt viết:

Mỗi công dân đều có một dạng vân tay

Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn”

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chỉ rõ dạng “vân chữ” “không trộn lẫn” của Lê Đạt qua bài thơ Bóng chữ.

  • Với truyện ngắn Cánh đồng bất tận:

BT1: Cái nhìn hiện thực của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận có điểm gì độc đáo?

BT2: Nhà phê bình người Nga Bi-ê-lin-xki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào. Hãy làm sáng tỏ ý kiến bằng truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

BT3: “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Aimatop)

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự cảm nhận của mình về truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, hãy làm sáng tỏ ý kiến.

  1. Dạng bài tập “trải nghiệm, thức nhận”

Như trên đã nói tiếp nhận văn học thực chất là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật. Quá trình khám phá đó không chỉ giúp người đọc thức tỉnh được những điều sâu sắc về hiện thực đời sống mà còn bừng ngộ nhiều điều về lẽ sống để có thể hoàn thiện nhân cách của bản thân, từ đó kiến tạo con người văn chương, kiến tạo nên chính tâm hồn mình.

Bởi vậy với học sinh chuyên văn, giáo viên cần tăng cường cho học sinh thực hành dạng bài tập “trải nghiệm, thức nhận” để các em có thể bộc lộ những nhận thức mới mẻ của mình về hiện thực cuộc sống, cũng như những sự “bừng ngộ” của bản thân về lẽ đời.

Chẳng hạn chúng tôi đưa ra cho các em một số bài tập sau:

BT1: Theo em, qua bi kịch của nhân vật Út Vũ trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư muốn gửi tới độc giả thông điệp gì?

BT2: “Phải ! Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Những suy nghĩ của Nương trong phần kết thúc truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư giúp em hiểu thêm điều gì về cách sống của con người?

BT3: Theo em, tại sao nhân vật Anna trong tiểu thuyết Anna Karenina của nhà văn L. Tolstoy cuối cùng lại tìm đến cái chết để giải thoát cuộc đời mình? Cái chết ấy của nhân vật đã giúp em nhận ra được những bài học nhân sinh sâu sắc nào?

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

Về khả năng áp dụng của chuyên đề: chúng tôi nhận thấy đây là chuyên đề có tính thực tiễn cao trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học ngoài chương trình, thực hiện được với đối tượng học sinh Chuyên Văn, học sinh giỏi cấp Tỉnh, học sinh giỏi cấp Quốc gia, các giáo viên dạy chuyên.

Với học sinh, các tác phẩm ngoài chương trình vô cùng phong phú và khó tiếp cận. Qua chuyên đề này, các em sẽ tự nhận thấy mình cần phải tự trang bị kĩ năng đọc hiểu cơ bản, chắc chắn, cần tiếp cận tác phẩm đến nơi đến chốn.

Với giáo viên đây cũng là những định hướng cơ bản để các thầy cô giáo dạy chuyên củng cố thêm về phương pháp dạy học cũng như ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi.

Về ý kiến đề xuất: chúng tôi mong muốn nhận được sự góp ý của các thầy cô dạy chuyên ở các trường trong cả nước. Vì thực tế trình độ, năng lực của học sinh mỗi trường, mỗi địa phương, mỗi vùng là khác nhau. Ngoài ra, chúng tôi cũng mong ở cuộc thi học sinh giỏi quốc gia, các thầy giáo, cô giáo trong hội đồng chấm thi cũng đưa ra những nhận xét về các lỗi mắc phải của học sinh khi làm bài thi, đặc biệt là lỗi lựa chọn, khai thác dẫn chứng, để chúng tôi có thể tự mình rút kinh nghiệm trong quá trình rèn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi.

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Nguyễn Thanh Hùng, Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục Việt Nam 2001.
  2. Nguyễn Thanh Hùng, Kĩ năng đọc văn, NXB ĐH Sư Phạm 2011.
  3. Nhiều tác giả, Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 11, NXB Giáo dục Việt Nam 2010.
  4. Trần Đăng Suyền, Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, 2012.
  5. Nhiều tác giả, Lí luận văn học tập 1: Văn học, nhà văn, bạn đọc, NXB Đại học Sư phạm, 2009.
  6. Nguyễn Trọng Hoàn, Tiếp cận văn học, NXB Khoa học xã hội 2002.
  7. Nguyễn Huy Quát – Hoàng Hữu Bội, Một số vẫn đề về phương pháp dạy – học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục Việt Nam 2001
  8. Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục 2008.
  9. Đỗ Ngọc Thống, Tài liệu chuyên Văn tập một, hai, ba, NXB Giáo dục Việt Nam 2016.
  10. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục Việt Nam 2000.
  11. Trần Đình Sử, Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong dạy học Ngữ văn hiện nay, Nguồn: http://trandinhsu.wordpress.com.
  12. Tạp chí KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Tập 14, Số 4b (2017): 138-148

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *