Bộ 6 đề thi tốt nghiệp Ngữ Văn 2021 – có đáp án

Đề thi THPT Quốc Gia

ĐỀ 1

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

Tôi viết cho ai bài thơ hạ cuối

Ve râm ran xao xác cả khung trời

Ồ vẫn vậy, vẫn ve, vẫn phượng…

Cớ sao mình nước mắt lại rơi

Trận mưa đầu của ngày cuối chia phôi

Rơi ướt cả một bờ áo trắng

Vô tư thế, hỡi mưa, hỡi nắng?

Biết hay không hạ cuối đã về rồi?

Tháng 6 mùa thi

Ta bỏ lại một thời

Trong trắng như hoa

Hồn nhiên như cỏ

Cho kỷ niệm và cho nỗi nhớ

Cho những tháng ngày xanh biếc xanh.

Đôi mắt nào chiều ấy long lanh

Như muốn nói thật nhiều mà không thể

Tháng năm ơi sao trôi nhanh đến thế

Phượng bùng lên cháy đỏ một khung trời.

Lưu bút trao tay, ánh mắt trao lời

Màu mực tím mênh mang trang giấy trắng

Ai bật khóc trong chiều không bình lặng

Xa thật rồi, áo trắng học trò ơi.

(Hạ cuối, Dương Viết Cương)

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Kí ức về tuổi học trò được tác giả thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh nào?

Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về cảm xúc của của lứa tuổi học trò cuối cấp: “Đôi mắt nào chiều ấy long lanh”/ “Như muốn nói thật nhiều mà không thể”?

Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả được thể hiện qua bài thơ.

  1. LÀM VĂN

Câu 1

Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, Anh/chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa mùa hạ cuối của học sinh lớp 12.

Câu 2.

Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.

          Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.

          Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.

          Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.

          Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi…

           Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì.

          Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.

          A Sử hỏi:

          – Mày muốn đi chơi à?

          Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.

          Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!”.”Mị vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

(Trích, Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ qua đoạn văn trên. Từ đó bình luận ngắn gọn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

Phần

Câu

Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 Thể thơ tự do
2 Kí ức về tuổi học trò được tác giả thể hiện qua những hình ảnh: ve râm ran, phượng, áo trắng.
3 – NT hoán dụ: đôi mắt.

– Khơi gợi cảm xúc không nói nên lời, gợi nhắc về kí ức đẹp của một thời học sinh hồn nhiên, trong sáng.

4 – Tình cảm của tác giả thể hiện qua bài thơ:

+ Nhiều kí ức trong sáng của lứa tuổi học sinh ùa về, cảm xúc dạt dào không nói nên lời.

+ Nhà thơ nặng lòng với mái trường, không muốn chia xa thời áo trắng.

II Viết 01 đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về mùa hạ cuối của học sinh lớp 12
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Mùa hạ cuối của học sinh lớp 12

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa mùa hạ cuối của học sinh lớp 12. Có thể theo hướng sau:

+ Mùa hạ cuối của thời HS mang lại nhiều ý nghĩa, cảm xúc trong cuộc đời mỗi con người;

+ Chia tay mái trường, thầy/cô, bạn bè;

+ Những kỉ niệm, cảm xúc lắng đọng;

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

2 Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ qua đoạn văn trên. Bình luận ngắn gọn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ qua đoạn văn trên. Bình luận ngắn gọn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

  * Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và vấn đề cần nghị luận
  – “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.

– Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

  * Nội dung và nghệ thuật đoạn trích
  – Mị là một cô gái Mèo, vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lí nên bị bắt về làm dâu trừ nợ, làm vợ cho A Sử. Cuộc sống làm dâu, làm vợ vô cùng khổ, Mị muốn chết. Nhưng vì thương cha già không đủ sức làm nương trả nợ, Mị đành chấp nhận cuộc sống hiện tại và lâu dần trở thành con người vô cảm. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, A Sử không cho, trói Mị Lại.

* Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:

– Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con đi hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một niềm mong đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.

– Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi chơi.

→ Vẻ đẹp gợi cảm của không khí  ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của người Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.

* Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:

– Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại.

– Mị nhẩm thầm bài  hát của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”.

+ Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.

– Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách  uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp tới.

– Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi theo Mị.

– Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên vui sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.

– Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống.

– Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi. Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau.

– Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên man theo tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm giác thể xác đau đớn.

– Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận “mình không bằng con ngựa”. Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết. Mị sợ chết. Sợ chết có nghĩa là không muốn chết. Mị vẫn rất ham sống và muốn sống.

→ Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá khứ, đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị.

=> Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với lòng người tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu. Dù bị đè nén, vùi dập tới đâu cũng không thể hủy diệt.

  Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.

– Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.

Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.

– Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ.

– Biểu hiện sau cùng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác.

  * Đánh giá chung
  – Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được.

– Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu      

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

ĐỀ 2

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

Người chìa tay và xin con một đồng.

Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng.

Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng.

Lần thứ ba con phải biết lắc đầu.

Và đến lần thứ tư con hãy im lặng, bước đi.


Đừng vui quá. Sẽ đến lúc buồn

Đừng quá buồn. Sẽ có lúc vui

Tiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lại

Lùi bước để hiểu mình. Con cứ lùi thêm nhiều bước nữa

Chẳng sao

Hãy ngước nhìn lên cao để thấy mình còn thấp

Nhìn xuống thấp. Để biết mình chưa cao.

Con hãy nghĩ về tương lai. Nhưng đừng quên quá khứ

Hy vọng vào ngày mai. Nhưng đừng buông xuôi hôm nay

May rủi là chuyện cuộc đời. Nhưng cuộc đời nào chỉ chuyện rủi may

Hãy nói thật ít. Để làm được nhiều – những điều có nghĩa của trái tim.

Nếu cần, con hãy đi thật xa. Để mang về những hạt giống mới. Rồi dâng tặng  cho đời. Dù chẳng được trả công.


Hãy hân hoan với điều nhân nghĩa

Đừng lạnh lùng trước chuyện bất nhân

Và hãy tin vào điều có thật:

Con người – sống để yêu thương.

(Gửi con, Bùi Nguyễn Trường Kiên)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Anh/Chị hiểu thế nào về ý nghĩa các câu thơ sau: Người chìa tay và xin con một đồng/Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng/Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng. Lần thứ ba con phải biết lắc đầu/Và đến lần thứ tư con hãy im lặng, bước đi.

Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả nói rằng:

Tiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lại

Lùi bước để hiểu mình. Con cứ lùi thêm nhiều bước nữa

Chẳng sao

Hãy ngước nhìn lên cao để thấy mình còn thấp

Nhìn xuống thấp. Để biết mình chưa cao.

Câu 4. Thông điệp được tác giả gửi gắm qua bài thơ dặn con là gì?

  1. LÀM VĂN

Câu 1

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về 2 câu thơ trong văn bản ở phần Đọc hiểu: Và hãy tin vào điều có thật/Con người – sống để yêu thương.

Câu 2

Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…Mị phảng phất nghĩ như vậy.

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…

Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị vẫn tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

                         Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

                         – A Phủ cho tôi đi.

                         A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

                         – Ở đây thì chết mất.

                         A Phủ chợt hiểu.

                         Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.

                         A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

(Trích, Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn giá trị nhân đạo trong phẩm “Vợ chồng A phủ” của nhàn văn Tô Hoài.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI

Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 –  Thể thơ tự do
2 –  Ý nghĩa 2 câu thơ: Người cha nhắc nhở con về việc giúp đỡ người khác trong cuộc sống. Cần giúp đỡ mọi người song phải biết giới hạn, và đôi khi, từ chối cũng là một cách giúp đỡ. Học cách giúp đỡ người khác, nhiệt tình, đúng mực để sự giúp đỡ ấy phát huy giá trị tốt đẹp.
3 – Bởi vì, cuộc sống của mỗi người luôn cần có ước mơ, khát vọng, nỗ lực vươn lên và phải biết khẳng định mình. Tuy nhiên, tiếnngước lên không phải để ganh đua, bon chen, hãnh tiến, không vì vật chất, danh lợi bản thân mà bán rẻ lương tâm, phẩm giá. Điều cần thiết là tiếnngước lên để biết lùi, biết nhìn xuống, biết nhìn nhận, suy ngẫm, đánh giá về chính mình để giữ gìn nhân cách. Đó là cuộc sống thanh thản, hạnh phúc.
4 – Chúng ta cần biết giúp đỡ người khác, nhiệt tình, đúng mực để sự giúp đỡ ấy phát huy giá trị tốt đẹp.

+ Không nên tự cao, tự đại mà phải biết tự đánh giá và nhận ra tài năng, vị trí xã hội của mình.

+ Bình tâm trước những vấn đề được- mất, thăng tiến bằng chính tài năng của mình và luôn giữ gìn đức độ, nhân cách.

+ Cuộc sống luôn cần có tình yêu thương. Tình yêu thương đem đến hạnh phúc cho nhân loại.

II LÀM VĂN
1 Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về 2 câu thơ trong văn bản ở phần Đọc – hiểu: “Và hãy tin vào điều có thật/Con người – sống để yêu thương.”
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Suy nghĩ về 2 câu thơ trong văn bản ở phần Đọc hiểu: Và hãy tin vào điều có thật/Con người – sống để yêu thương.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa nội dung của 2 câu thơ trong phần Đọc hiểu. Có thể theo hướng sau:

– Yêu thương là sự quan tâm, thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia, quý mến, trân trọng… con người. Đây là một lối sống đẹp xuất phát từ trái tim chân thành của con người.

– Sống yêu thương hiện hữu ở khắp nơi, muôn màu muôn vẻ. Đó là sự cảm thông, quan tâm, giúp đỡ những người bất hạnh hoặc là tình cảm yêu mến và trân trọng những người có phẩm chất đạo đức. Sống yêu thương cuộc sống sẽ đẹp đẽ hơn.

– Sống yêu thương mang lại những điều kì diệu cho cuộc đời. Người cho đi yêu thương được nhận bình yên và hạnh phúc. Người được nhận yêu thương là nhận được rất nhiều. Cuộc sống không có yêu thương sẽ vô cùng tẻ nhạt, lạnh lẽo.

– Cần phê phán những hiện tượng sống thờ ơ, vô cảm, ích kỉ trong xã hội hiện nay.

– Chúng ta hãy mở rộng cánh cửa trái tim, tấm ung yêu thương, mang tình yêu đến với mọi người. Bởi yêu thương chính là hạnh phúc của con người, của nhân loại.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

2 Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích. Bình luận ngắn gọn giá trị nhân đạo trong phẩm “Vợ chồng A phủ” của nhàn văn Tô Hoài.
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích và bình luận ngắn gọn giá trị nhân đạo trong phẩm “Vợ chồng A phủ” của nhàn văn Tô Hoài.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

  * Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và vấn đề cần nghị luận
  – Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Năm1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, chuyến đi đem lại cảm hứng để ông sáng tác truyện “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

– Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, tác phẩm phản ánh cuộc sống lầm than tủi nhục, khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ của người dân nghèo miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến. Sức sống tiềm tàng, sự phản kháng mạnh mẽ của Mị được thể hiện rõ nét trong đêm đông cởi trói cứu A Phủ.

  * Nội dung và nghệ thuật đoạn trích
  – Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, có tài thổi sao, thổi lá giỏi, nhiều người theo, với nhiều phẩm chất đáng quý: chăm chỉ, hiếu thảo, tự trọng.

– Từ khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhừ thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa về thể xác, áp chế về tinh thần, dần trở nên vô cảm, chai sạn, chấp nhận cuộc sống đau khổ, tủi nhục lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.

– Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, trong đêm tình mùa xuân năm trước, sức sống ấy đã từng trỗi dậy nhưng bị A Sử dập tắt khi trói đứng Mị vào cột nhà, không cho đi chơi.

– Diễn biến tâm trạng và hành động trong đêm đông:

+ A Phủ đánh A Sử nên phải làm nô lệ trả nợ cho thống lí Pá Tra. Do sơ ý để hổ bắt mất một con bò nên anh bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài.

+ Lúc đầu, Mị vô cảm thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Từ mùa xuân năm trước, khi bị trói đứng, Mị đã trở lại con người trước kia chai sạn, vô cảm, cam chịu. Cô đã không còn quan tâm đến chính cuộc sống của mình huống gì là người khác.

+ Nhưng sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của anh ta. Mị nhớ lại tình cảnh của mình năm trước khi bị trói đứng nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Sự đồng cảm bắt nguồn từ sự thương cảm bởi có thương mình thì mới thương người thương người như thể thương thân. Mị nhận ra nỗi đau đớn của mình năm trước trong nỗi đau của A Phủ. Tô Hoài miêu tả diễn biến tâm lí rất tự nhiên, phù hợp.

+ Mị tỉnh táo nhận ra sự độc ác của cha con nhà thống lí, của bọn chúa đất phong kiến chúng nó thật độc ác, thấy lo A Phủ sẽ chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.

+ Lòng trắc ẩn của người đàn bà đau khổ trỗi dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị hành động:  táo bạo, dũng cảm.

+ Mị cắt dây trói, cứu A Phủ rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, nhưng Mị không cảm thấy sợ, lúc này tình thương mạnh hơn nỗi sợ. Mị giục A Phủ chạy trốn.

+ Mị đứng lặng trong bóng tối giằng xé, suy nghĩ đi hay ở. Ở lại thì chỉ có con đường duy nhất là chết thay A Phủ, còn bỏ trốn thì may ra tìm được một con đường sống.

+ Nhìn thấy hình ảnh A Phủ dù đã kiệt sức nhưng vẫn vùng lên chạy, Mị như được tiếp thêm sức mạnh và cô vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ.

– Mị cứu A Phủ vì thương người cùng cảnh ngộ với mình, cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là cắt đứt sợi dây trói đời mình với nhà thống lí Pá Tra. Mị cũng tự cứu đời mình vì khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Qua đó cũng cho thấy tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị, cũng là của người dân lao dộng bị áp bức ở vùng núi Tây Bắc.

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo, chọn lọc chi tiết đặc sắc của Tô Hoài.

– Khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm: Giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó.

– Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở:

+ Nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông, thương xót trước số phận đau khổ, bất hạnh của những con người lao động nghèo khổ ở vùng núi Tây Bắc, thể hiện qua cuộc đời bất hạnh của Mị.

+ Nhà văn lên tiếng tố cáo, phê phán bọn chúa đất phong kiến miền núi đã dùng cường quyền, thần quyền và lợi dụng những tập tục cổ hủ của người Mèo để áp bức, bóc lột người dân.

+ Nhà văn cũng phát hiện, trân trọng, khẳng định và ngợi ca những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó là sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân và sự phản kháng trong đêm cứu A Phủ.

+ Nhà văn cũng thể hiện niềm tin sâu sắc và chỉ ra cho nhân vật  của nhân vật con đường đến với tự do, hạnh phúc: phản kháng và hướng đến ánh sáng cách mạng.

  * Đánh giá chung
  – Với màu sắc dân tộc đậm đà, chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, nghệ thuật miêu tả nội tam nhân vật tinh tế, sắc sảo, đoạn trích cho thấy sức sống tiềm tàng và sức mạnh phản kháng mãnh liệt của Mị khi cởi trói cứu A Phủ, đó cũng chính là khát vọng sống, tinh thần vùng dậy của nhân dân laoo động nghèo khổ dưới ách thống trị của bọn chúa đất phong kiến.

– Qua tác phẩm, chúng ta thấy rằng, truyện ngắn đã thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

ĐỀ 3

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

(1) Sống trong đời sống.

Cần có một tấm lòng 

Để làm gì em biết không? 

Để gió cuốn đi 

Để gió cuốn đi 

(2) Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông 

Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông 

Ôi trái tim đang bay theo thời gian 

Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian (…)

(3) Hãy yêu ngày tới.

Dù quá mệt kiếp người

Còn cuộc đời ta cứ vui

Dù vắng bóng ai

Dù vắng bóng ai

(Trích Để gió cuốn đi – Trịnh Công Sơn)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.

Câu 2. Anh/chị hiểu như thế nào về thông điệp được đề cập ở đoạn 1?

Câu 3. Hình ảnh trái tim ở đoạn (2) sử dụng biện pháp tu từ nào? Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét về thông điệp của tác giả được thể hiện ở đoạn (3) của văn bản? (Trả lời từ 5-7 câu).

  1. LÀM VĂN

Câu 1.

Từ nội dung phần Đọc hiểu, Anh/Chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày về ý nghĩa của “cho” và “nhận” trong cuộc sống.

Câu 2.

 Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng (…)

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

(…) Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.

À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. 

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

                                                                                        (Trích, Vợ nhặt – Kim Lân)

Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, khái quát giá trị nhân đạo tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 – Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
2 Tấm lòng là toàn thể tình cảm thân ái, tha thiết, sâu sắc nhất đối với người mình yêu quý hay cảm phục.

Có một tấm lòng không phải để mong được người khác ghi nhận, trả ơn mà đó là một cách sống không toan tính để cuộc đời ta được thanh thản và bình yên.

3 – Biện pháp tu từ hoán dụ: trái tim.

– Tác dụng: trái tim biểu trưng cho tình cảm nồng ấm của con người, là sự kết nối yêu thương.

4 – Học sinh cần chọn cho mình một thông điệp phù hợp và trình bày từ 5-7 câu.

– Gợi ý: Đây là ca từ thể hiện một lối sống đẹp, là điều cần có ở mỗi con người trong cuộc sống. Chúng ta cần rèn luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp, rèn luyện tấm lòng mình cho ý nghĩa; phê phán sự thờ ơ, vô tâm, vô cảm trong xã hội.

II LÀM VĂN
1 Ý nghĩa của “cho” và “nhận” trong cuộc sống
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Trình bày về vấn đề chonhận trong cuộc sống.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của “cho” và “nhận” trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau:

– Trao đi yêu thương để nhận lại vốn là một quy luật luôn có trong cuộc sống.

+ Cho đi không phải là khó nhưng cho đi phải thật lòng khi đó người nhận mới cảm thấy vui và thoải mái.

+ Mỗi chúng ta phải biết cho đi như chính cái nghĩa của chúng, luôn phải xuất phát từ tấm lòng, từ tình thương.

– Mỗi chúng ta không chỉ sống cho bản thân mà còn sống cho gia đình và xã hội.

– Vì vậy cần biết cho và nhận đúng nghĩa của nó; được vậy thế giới này sẽ tràn ngập tình yêu thương.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

2 Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích. Khái quát giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim lân.
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích. Khái quát giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim lân.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

  * Giới thiệu tác giả Kim Lân, tác phẩm “Vợ nhặt” và vấn đề cần nghị luận
  – Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về những phong tục văn hóa cổ truyền, đời sống làng quê với giọng văn chân thật, xúc động, tài hoa. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện “Con chó xấu xí”, tiền thân của truyện ngắn này là “Xóm ngụ cư”. Truyện tố cáo thực dân, phát xít đẩy dân ta vào nạn đói thê thảm đồng thời ca ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc và hướng tới cách mạng đầy tin tưởng.

– Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

  * Nhân vật Tràng
  – Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với khuôn mặt hốc hác u tối, Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp.

– Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Anh xấu xí, thô kệch hai con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu. Là người ko bình thường, ngờ nghệch vừa đi vừa nói, ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.  Ăn nói thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn, thậm chí thô tục làm đếch gì có vợ.

– Là người hiền lành, vui vẻ nên trẻ con trong xóm rất mến anh. Tràng nhân hậu, mời người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho Thị ăn ko phải vì để trả ơn hay lợi dụng mà vì sự cảm thông, vì tình người.

– Tràng nhặt vợ thật dễ dàng, chỉ bằng câu nói nửa đùa, nửa thật này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng kên xe rồi cùng về. Khi người phụ nữ quyết định theo mình, Tràng nghĩ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nỗi ko, lại còn đèo bồng. Cuối cùng anh quyết định liều lĩnh dẫn Thị về. Nghĩa là anh khao khát có hạnh phúc gia đình, khao khát lứa đôi, điều mà trong hoàn cảnh bình thường, với Tràng chỉ là mơ ước.

– Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng. Tràng chậc lưỡi kệ cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và đang thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình.

– Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ:

+ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người phụ nữ.

+ Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư Tràng thấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.

– Khi dẫn Thị vào nhà:

+ Xăm xăm bước vào trong nhà, dọn dẹp nhà cửa, thanh minh về cảnh nhà bừa bộn vì thiếu tay đàn bà. Ngượng nghịu đứng ngây ra giữa nhà chờ mẹ về. Cũng vì Tràng và thị chưa hiểu gì về nhau. Hơn nữa, Tràng sợ thị đổi ý vì gia cảnh quá nghèo. Cũng có thể Tràng sợ mẹ ko chấp nhận.

– Khi thấy mẹ về:

+ Tràng reo lên như một đứa trẻ, mời mẹ vào trong nhà, trình bày ngắn gọn câu chuyện lấy vợ đặc biệt của mình và cũng là để xin phép mẹ. Và khi được mẹ đồng ý thì Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi…bước từng bước dài ra sân.

– Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

– Chi tiết: Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Tràng thật sự phục sinh tâm hồn đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

– Câu kết truyện Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

  Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.

– Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” thể hiện ở việc tác giả bộc lộ niềm đau xót, thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của người dân nghèo trong nạn đói.

– Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo thể hiện ở việc nhà văn tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta.

– Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này thể hiện ở việc nhà văn khám phá, phát hiện, trân trọng và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân.

– Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích cực cho người dân khốn cùng.

  * Đánh giá chung

– “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người .

– Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

ĐỀ 4

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

Xin dâng lời của nắng

Mang lửa ấm mặt trời

Xin dâng lời biển cả

Mang bao dung tình người

Chiến tranh đã qua rồi

Bão tố đã qua rồi

Vết thương còn rỉ máu

Mầm non không đâm chồi

Ánh mắt cho em thơ

Thắp lửa từ ngàn nắng

Nụ cười cho em thơ

Kết tình yêu biển rộng

Bắt đầu từ giọt nắng

Góp nên lửa mặt trời

Bắt đầu từ hạt muối

Kết vị mặn biển đời

Ước làm một hạt phù sa

Ước làm một tiếng chim ca xanh trời

Ước làm tia nắng vàng tươi

Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi.

(Xin làm hạt phù sa, Lê Cảnh Nhạc)

Câu 1. Xác định thể thơ.

Câu 2. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ.

Câu 3. Đoạn thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về tâm tình của tác giả: Ước làm một hạt phù sa/Ước làm một tiếng chim ca xanh trời/Ước làm tia nắng vàng tươi/Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi.?

Câu 4. Thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/chị qua đoạn thơ trên?

  1. LÀM VĂN

Câu 1

Từ văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa của một lối sống đẹp mà anh/chị cho là cần thiết phải rèn luyện, tu dưỡng của thế hệ trẻ ngày nay.

Câu 2

Phân tích hình tượng các nhân vật trong đoạn văn sau để thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình , đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên dường . Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi  và mùi gây của xác người.”

          (…) Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

– Trống gì đấy, u nhỉ?

– Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

– Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

– Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít… Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

– Việt Minh phải không?

– Ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác.

À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

(Trích, Vợ nhặt – Kim Lân. SGK 12, tập hai, tr 24)

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI

Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 – Thể thơ tự do.
2 – Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.
3 – Biện pháp tu từ điệp ngữ: ước làm; liệt kê, ẩn dụ: hạt phù sa, tiếng chim ca, tia nắng, giọt mưa rơi

– Khát vọng sống khiêm nhường, giản dị của nhà thơ được cống hiến hết mình cho cuộc đời.

4 – Nêu thông điệp, lí giải hợp lí, thuyết phục về thông điệp.
II LÀM VĂN
1 Ý nghĩa của một lối sống đẹp cần thiết phải rèn luyện, tu dưỡng của thế hệ trẻ ngày nay
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Ý nghĩa của một lối sống đẹp.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

– Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần nêu rõ, ý nghĩa của một lối sống đẹp cần thiết phải rèn luyện, tu dưỡng của thế hệ trẻ ngày nay. Có thể theo hướng sau:

– Sống đẹp: sống có ích, có ý nghĩa.

– Thế hệ trẻ cần phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng lối sống đẹp: sống cống hiến, biết hi sinh, nhân ái, nghĩa tình, có trách nhiệm.

– Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, cho nên cần phải có đủ tài và đức.

– Sống đẹp đem lại nhiều ý nghĩa cho bản thân, cuộc đời, đất nước; ngăn chặn cái xấu, cái ác.

– Phê phán thái độ sống sai trái.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

2 Phân tích hình tượng các nhân vật thị, TRàng, bà cụ Từ để thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.  
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

 
  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Cảm nhận về hai đoạn văn để thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

 
  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

 
  * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, yêu cầu đề ra  
  (Xem đề trước)  
  * Nội dung và nghệ thuật đoạn trích  
  * Phân tích đoạn đầu:

– Hoàn cảnh nảy sinh nạn đói: 1940 Nhật xâm lăng đông dương, nước ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp – Nhật, dân ta lâm vào nạn nói khủng khiếp cướp đi hơn hai triệu đồng bào từ Quảng trị đến Bắc kỳ.

–  Cái đói làm cho cảnh vật sơ xác, tiêu điều: Người sống (dẫn chứng); Người chết (dẫn chứng); không khí, âm thanh (dẫn chứng)

-> Nhận xét giá trị hiện thực của đoạn trích.

 
  * Phân tích đoạn kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt:

– Bữa ăn ngày đói thật thảm hại, cả ba người ăn vẫn ngon lành.

– Trong bữa ăn họ bàn về cảnh người đói đi phá kho thóc của Nhật

 Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.

 
  – Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.

– Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.

 
  * Nhận xét hai đoạn văn  
  – Giá trị hiện thực.

– Giá trị nhân đạo.

– Sự chuyển biến từ cuộc sống nghèo đói, chết chóc sang cuộc sống có niềm tin hy vọng vào tương lai.

 
  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

 
  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

 

ĐỀ 5

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc đoạn trích sau:

Một đời vô danh đá sống vẫn thờ ơ 

Nhọc nhằn năm tháng, tháng năm nhọc nhằn thêm 

Đá sống không thật gần ai và cách xa mọi người 

Dường như không biết yêu và dường như không biết nhớ 

Vì con tim giá băng nên tâm hồn vô nghĩa 

Vốn sống đời tha phương 

Mòn gót bước mà thấy trong lòng như luôn luôn lẻ loi 

Đừng sống giống như hòn đá, giống như hòn đá 

Sống không một tình yêu 

Sống chỉ biết thân mình 

Tâm hồn luôn luôn băng giá 

Đừng hóa thân thành đá 

Vì tâm hồn đá giá băng 

Từng ngày cuộc sống thoáng chốc lại đổi thay 

Bầu trời mỗi tối có biết bao sao đổi ngôi 

Nhưng có bao giờ hòn đá ấy bỗng khóc như loài người 

Vì đá không biết yêu và vì đá không biết nhớ 

Vì con tim giá băng nên tâm hồn vô nghĩa 

(Trích Tâm hồn của đá – Trần Lập)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.

Câu 2. Chỉ ra và phân tích hiệu quả của một biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 3. Trong lời hát trên, có một câu hát được hát lại nhiều lần. Nêu cách hiểu về ý nghĩa câu hát đó.

Câu 4. Thông điệp nào có ý nghĩa nhất mà anh/chị cảm nhận được trong lời bài hát trên?

  1. LÀM VĂN

Câu 1.

Hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa lời hát: Đừng sống giống như hòn đá… sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng.

Câu 2

Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:

          – Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được, đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây.

          Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu. Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục bảo:

           – Để nó cho tau!

          Nó giật lấy cây nứa.

          Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó dí cây lửa lại sát mặt anh:

          – Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không?

Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.

          Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.

          Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!

Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy, bọn lính gạt ra. Tiếng kêu ré của đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?

          Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “giết”! Tiếng chân người đạp lên trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết, đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về.

Tiếng anh Prôi nói, trầm tĩnh:

          – Tnú! Tnú! Tỉnh dậy chưa? Đây này, chúng tôi giết hết rồi. Cả mười đứa, đây này! Bằng giáo, bằng mác. Đây này!

          Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.

(Trích, Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành)

Phân tích nhân vật Tnú trong đoạn trích trên. Từ đó khái quát tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

 

 

GỢI Ý ĐÁP ÁN

Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 – Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
2 – Học sinh có thể chỉ ra một trong các biện pháp: điêp từ, điệp cấu trúc, nhân hóa, ẩn dụ…

– Tác dụng: gắn với từng biện pháp và cần bám sát vào nội dung văn bản.

3 – Câu hát: Vì con tim giá băng nên tâm hồn vô nghĩa.

– Con tim giá băng: chỉ sự ích kỉ, vô tâm, chỉ biết thân mình, không có tình yêu thương. Tâm hồn vô nghĩa: một trái tim ích kỉ, không có tình yêu thương thì cũng sẽ đi cùng một tâm hồn trống rỗng, khô cằn.

4 – Học sinh có thể rút ra một số thông điệp sống từ lời bài hát:

+ Sống phải biết yêu thương, hòa đồng, sẻ chia.

+ Tránh xa lối sống ích kỉ, cô độc, vô cảm.

II LÀM VĂN
1 Suy nghĩ về ý nghĩa lời hát: “Đừng sống giống như hòn đá… sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng”.
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Suy nghĩ về ý nghĩa lời hát: Đừng sống giống như hòn đá… sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa lời hát: Đừng sống giống như hòn đá… sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng. Có thể theo hướng sau:

– Giải thích:

+ Đá là vật cứng rắn, vô tri, vô giác.

+ Sống không tình yêu, sống chỉ biết thân mình, tâm hồn băng giá: đều tập trung chỉ lối sống ích kỉ, vô cảm, khô khan, thiếu tình người.

-> Trong lời hát trên, tác giả muốn mượn hình ảnh hòn đá để nói tới lối sống ích kỉ, hẹp hòi đồng thời đưa ra lời cảnh báo với mọi người nên tránh xa cách sống tiêu cực đó: nếu như sự cứng nhắc của đá là bản chất thì nhiều người cũng đang tự biến mình thành đá bởi trái tim lạnh lùng, vô cảm. Hãy sống bằng trái tim ấm áp, biết yêu thương.

– Bàn luận:

+ Nếu con người sống giống như hòn đá, lạnh lùng, không quan tâm đến thế giới xung quanh, chỉ biết đến bản thân mình thì cuộc sống sẽ trở nên u ám, đáng sợ vô cùng: Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương.  Thiếu đi tình yêu thương, con người sẽ trở nên độc ác, ích kỉ, sẽ gây ra những tổn hại cho xã hội và cho chính mình.

+ Ngược lại, tình yêu thương chính là sức mạnh vĩ đại nhất mà con người có trong tay, chính tình yêu thương đã gắn kết con người với con người, giúp con người vượt qua những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống, giúp chúng ta cùng tạo ra những thành quả đẹp đẽ.

+ Sống nhân ái, lấy tình yêu thương là cốt lõi, lẽ sống ở đời; mỗi người sẽ luôn thấy hạnh phúc đồng thời sẽ lan tỏa hạnh phúc đến những người xung quanh. Người biết yêu thương sẽ luôn biết làm những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Tấm lòng ấm áp tình người sẽ xóa đi lạnh giá của tự nhiên, lạnh giá của cuộc đời và cả sự ích kỉ, nhỏ nhen trong lòng người.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

2 Phân tích nhân vật Tnú trong đoạn trích. Khái quát tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Phân tích nhân vật Tnú trong đoạn trích và khái quát tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

  * Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm “Rừng xà nu” và vấn đề cần nghị luận

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc sống và con người Tây Nguyên, trong đó Rừng xà nu được đánh giá là sử thi tây nguyên thời chống Mĩ.

– Mùa hè năm 1965 đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. “Rừng xà nu” ra đời trong hoàn cảnh ấy. Truyện được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

– Nguyễn Trung Thành đã rất thành công với nghệ thuật điển hình hóa nhân vật, đặc biệt là Tnú với hình ảnh bàn tay mười ngón bị đốt cụt mỗi ngón một đốt, mà nó có thể được coi là trung tâm của mọi vẻ đẹp của nhân vật này.

  * Nhân vật Tnú
  – Truyện ngắn “Rừng xà nu” là câu chuyện kể về cuộc đời của nhân vật Tnú, tiêu biểu cho số phận và con đường đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam.

– Hình ảnh đôi bàn tay thể hiện cuộc đời giản dị và tính cách anh hùng của nhân vật Tnú – người con và niềm tự hào của dân làng Xô Man kiên cường, bất khuất.

  – Vì tham gia cách mạng nên Tnú bị kẻ thù bắt, bị tra tấn dã man. Đặc biệt, kẻ thù đốt đôi bàn tay vừa để chấm dứt cơ hội cầm giáo cầm súng của anh và uy hiếp tinh thần làng Xô Man không đứng lên chống giặc và che chở cho cách mạng.

– Ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là hình ảnh đôi bàn tay Tnú bị giặc quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt cháy trong cái đêm anh bị bắt. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của kẻ thù, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu tính tạo hình, được nhà văn Nguyễn Trung Thành chủ ý tô đậm và nhấn mạnh. Bọn giặc đốt mười ngón tay Tnú nhằm khủng bố và tiêu diệt ý chí phản kháng của dân làng Xô Man. Thằng ác ôn Dục đã giơ cao ngọn đuốc, cười sằng sặc và dọa: Đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây ! Kẻ thù tìm mọi cách để tiêu diệt lòng yêu nước của dân làng Xô Man. Chúng tra tấn Tnú ngay trước sân nhà rông, trong không khí căm thù sôi sục của dân làng.

– Tác giả miêu tả rất kĩ hình ảnh mười ngón tay Tnú bị giặc đốt cháy bằng những câu văn gây xúc động mạnh mẽ: Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng. Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi. Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!

– Hình ảnh đôi bàn tay cháy rừng rực của Tnú thể hiện phẩm chất dũng cảm phi thường của người anh hùng thời đại. Tuy da thịt bị thiêu đốt đau đớn tột cùng nhũng anh không hề khóc lóc, kêu van. Thái độ căm thù giặc mãnh liệt hiện rõ trong đôi mắt mở trừng trừng, trên đôi môi bị chính anh cắn nát, trong vị máu mặn chát ở đầu lưỡi. Nỗi đau nén lại trong lồng ngực để rồi òa vỡ ra thành một tiếng thét dữ dội. Tnú đã thét lên tiếng thét căm hờn, khinh bỉ vào mặt lũ tay sai tàn ác. Tiếng thét ấy làm cho dân làng Xô Man bừng tỉnh, thôi thúc dân làng vùng dậy cầm giáo cầm mác giết chết cả tiểu đội lính ngụy: Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “Giết!”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết”. Cụ Mết đúng rồi, cụ Mết đã đúng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Ttú mang từ đỉnh Ngọc Linh về…

– Nỗi đau đớn tột cùng và lòng căm thù sôi sục của Tnú đã truyền sang dân làng Xô Man. Trong khoảnh khắc, cụ Mết đã lãnh đạo dân làng dùng giáo mác giết sạch bọn thằng Dục có trang bị vũ khí đầy đủ. Mười ngọn đuốc cháy rừng rực trên hai bàn tay Tnú không làm cho lòng người Xô Man nao núng, khiếp sợ như kẻ thù mong muốn; ngược lại, hình ảnh đó càng nung nấu căm thù và tiếp thêm sức mạnh cho mọi người dũng cảm vùng lên giết giặc. Sự man rợ của kè thù là một trong những nguyên nhân thúc đẩy hành động quật khởi của dân làng Xô Man trong cái đêm đáng nhớ ấy.

– Đôi bàn tay Tnú là dấu ấn khắc ghi quá khứ đau thương, mất mát cũng như sự trưởng thành của anh. Giống cánh rừng xà nu với sức sống bất diệt, đôi bàn tay bị giặc đốt cháy của Tnú vẫn giúp anh đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ, diệt ngụy và anh đã trở thành niềm tự hào to lớn của dân làng Xô Man bất khuất, kiên cường.

  * Khái quát tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành
  – Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc.

– Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở các phương diện:

+ Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời.

+ Nhà văn xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng.

+ Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa.

+ Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

  * Đánh giá chung
  – Đằng bút pháp sử thi, với những hình ảnh đặc tả giàu khả năng gợi cảm, tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nhân vật Tnú thành hình tượng tiêu biểu cho con người Tây Nguyên dũng cảm, kiên cường trong thời đại chống Mĩ cứu nước.

– Hình ảnh đôi bàn tay Tnú được nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm như một biểu tượng đầy ý nghĩa về cuộc đời đau thương, mất mát, hờn căm; là chứng tích tội ác của kẻ thù, thể hiện tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giải phóng và vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú tượng trưng cho sức sống mãnh liệt không bạo lực nào có thể tiêu diệt được của con người Tây Nguyên. Hai bàn tay Tnú đã trở thành một chi tiết nghệ thuật đặc biệt có giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa khái quát lớn lao, sâu sắc.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu      

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

ĐỀ 6

  1. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

Những tình yêu thật thường không ồn ào

chúng tôi hiểu đất nước đang hồi khốc liệt

chúng tôi hiểu điều ấy bằng mọi giác quan

bằng chén cơm ăn mắm ruốc

bằng giấc ngủ bị cắt ngang cắt dọc

bằng những nắm đất mọc theo đường hành quân

có những thằng con trai mười tám tuổi

chưa từng biết nụ hôn người con gái

chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời

câu nói đượm nhiều hơi sách vở

khi nằm xuống

trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời

hạnh phúc nào cho tôi

hạnh phúc nào cho anh

hạnh phúc nào cho chúng ta

hạnh phúc nào cho đất nước

có những thằng con trai mười tám tuổi

nhiều khi cực quá, khóc ào

nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ

phanh ngực áo và mở trần bản chất

mỉm cười trước những lời lẽ quá to

nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc.

(Trích Thử nói về hạnh phúc – Thanh Thảo)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích trên.

Câu 2. Hãy chỉ ra những khó khăn của đất nước trong hồi khốc liệt được nhắc đến trong đoạn trích trên.

Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về những trăn trở của tác giả: hạnh phúc nào cho tôi/hạnh phúc nào cho anh/hạnh phúc nào cho chúng ta/hạnh phúc nào cho đất nước

Câu 4. Anh/chị có đồng ý với quan điểm Những tình yêu thật thường không ồn ào không? Tại sao?

  1. LÀM VĂN

Câu 1

Từ văn bản trên, anh/chị hãy nói về hạnh phúc theo quan niệm của bản thân trong đoạn văn khoảng 200 chữ.

Câu 2

Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần,hoặc buổi sáng sớm và xế chiều,hoặc đứng bóng và sẩm tối,hoặc nủa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn

Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã … Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng …

Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.

                                                                    (Trích, Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành)

Anh/chị hãy phân tích hình tượng cây xà nu trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật đặc sắc được nhà văn Nguyễn Trung Thành được thể hiện qua tác phẩm “Rừng xà nu”.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 – Thể thơ tự do.
2 – Những khó khăn được nhắc tới: chén cơm mắm ruốc (sinh hoạt đạm bạc), giấc ngủ bị cắt ngang cắt dọc (bom đạn khốc liệt), nắm đất mọc theo đường hành quân (chết chóc, hy sinh).
3 – Sự trăn trở, nghĩ suy của người lính trẻ về hạnh phúc của mỗi cá nhân, của mọi người và của đất nước.

– Thể hiện tinh thần trách nhiệm của công dân trước vận mệnh của dân tộc.

4 – Nêu rõ quan điểm bản thân: đồng tình hay không đồng tình. Lí giải hợp lí, thuyết phục.

+ Đồng tình: Những tình yêu thật thường không ồn ào là cách thể hiện tình yêu chân thành, giản dị bằng hành động cụ thể, giản đơn mà ý nghĩa. Những tình cảm chân thật không nhất thiết phải nói ra bằng lời hoa mĩ hay thể hiện bằng hành động khoa trương.

+ Không đồng tình: Trong một số trường hợp đặc biệt, tình cảm lớn lao cũng cần được thể hiện bằng hành động phi thường có tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa trong xã hội.

+ Vừa đồng tình, vừa không đồng tình: kết hợp cả hai ý trên.

II LÀM VĂN
1 “Nói về hạnh phúc” theo quan niệm của bản thân
  a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành.

  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Nói về hạnh phúc theo quan niệm của bản thân.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ, nói về hạnh phúc theo quan niệm của bản thân. Có thể theo hướng sau:

– Hạnh phúc là trạng thái thỏa nguyện của con người khi đạt được điều gì đó.

– Quan niệm về hạnh phúc là: sự chia sẻ về vật chất hoặc tinh thần; sự cống hiến, hi sinh; cũng có thể là sự hưởng thụ vật chất hoặc đón nhận tình cảm từ người khác; có thể là hạnh phúc trong khoảnh khắc hay hạnh phúc dài lâu…

– Hạnh phúc sẽ khiến cuộc sống tốt đẹp hơn, con người sống nhân văn, nhân ái hơn.

– Quan niệm về hạnh phúc của mỗi người, mỗi thời không giống nhau nên hạnh phúc hay không là do chính chúng ta cảm nhận và tạo ra.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận

 

2 Phân tích hình tượng cây xà nu trong đoạn văn. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật đặc sắc được nhà văn Nguyễn Trung Thành được thể hiện qua tác phẩm “Rừng xà nu”.
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.

  b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Phân tích hình tượng cây xà nu trong đoạn văn và nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật đặc sắc được nhà văn Nguyễn Trung Thành được thể hiện qua tác phẩm “Rừng xà nu”.

  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

  * Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm “Rừng xà nu” và vấn đề cần nghị luận
  – Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc sống và con người Tây Nguyên, trong đó Rừng xà nu được đánh giá là sử thi tây nguyên thời chống Mĩ.

– Mùa hè năm 1965 đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. “Rừng xà nu” ra đời trong hoàn cảnh ấy. Truyện được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Hình tượng cây xà nu là linh hồn của  tác phẩm, là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của người dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

  * Nội dung và nghệ thuật đoạn văn
  – Xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống mạch hồn của tác phẩm. Khi cầm bút sáng tác thiên truyện này, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí ông là cây xà nu, những cánh rừng xà nu. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phẩm, nó chiếm giữ những vị trí quan trọng nhất của truyện ngắn: nhan đề, mở đầu và kết thúc. Hình ảnh cây xà nu còn trở đi trở lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.

– Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống con người Tây Nguyên. Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm là một loài cây đặc thù, tiêu biểu cho vùng đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo dựng được hình ảnh hùng vĩ và hoang dã mang đậm màu sắc Tây Nguyên cho câu chuyện.

– Cây xà nu luôn gắn bó gần gũi với đời sống của dân làng Xô man, có mặt trong đời sống hàng ngày của dân làng. Lửa xà nu cháy dần dật trong mỗi bếp, trong đống lửa của nhà ưng tập hợp dân làng, khói xà nu xông bảng nứa để Tnú và Mai học chữ. Khi Tnú trở về đơn vị, cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn.

– Cây xà nu còn tham gia vào những sự kiện trọng đại của dân làng: ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ chuẩn bị nổi dậy. Mười ngón tay Tnú bị đốt vì giẻ tẩm nhựa xà nu, và chính vì cảnh tượng đau thương ấy dân làng đã nổi dậy để đống lửa xà nu lớn giữa nhà soi rõ xác mười tên lính giặc nằm ngổn ngang.

– Cây xà nu cũng đã thấm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của người Tây Nguyên. Tnú cảm nhận về cụ Mết ngực cụ căng như cây xà nu lớn. Trong câu chuyện về Tnú, cụ Mết cũng nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào: Không có gì mạnh bằng cây xà nu nước ta, cây xà nu đã trở thành máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Tây Nguyên.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. Ta có thể thấy ý đồ nghệ thuật này khi tác giả miêu tả song hành hai hình tượng cây xà nu và những con người Tây Nguyên.

+ Thương tích của rừng xà nu do đại bác của giặc gây ra tượng trưng cho những mất mát đau thương vô bờ mà người dân Tây Nguyên phải chịu đựng. Nếu rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương thì con người Tây Nguyên cũng vậy. Những cây xà nu non bị đại bác chặt đứt làm đôi thì tượng trưng cho những đứa con của Tnú và Mai. Còn những cây xà nu trưởng thành đại bác không giết nổi chúng thì cũng giống như Tnú và Dít, những con người trưởng thành từ những đau thương mất mát của chiến tranh.

+ Cây xà nu có đặc tính ham ánh sáng, đặc tính ấy tượng trưng cho niềm khát khao tự do của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết ít có loài cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế…Con người Tây Nguyên cũng vậy luôn khao khát tự do, mặc dù bon giặc đã giết bà Nhan, anh Xút vầ cả anh cán bộ Quyết nhưng Tnú và Mai vẫn kiên trì nuôi giấu cán bộ.

+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu và sự rộng lớn của rừng xà nu giúp ta gợi liên tưởng dến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy, cạnh một cây xà nu mới ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Làng Xô man cũng có hững thế hệ tiếp nối như vậy: cụ Mết là cây xà nu lớn. Tnú, Mai và Dít là những cây xà nu trưởng thành và bé Heng là cây xà nu con rắn rỏi.

+ Sự tồn tại của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt và khả năng vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong chiến đấu.

– Hình tượng rừng xà nu có quan hệ mật thiết với hình tượng nhân vật Tnú. Hai hình tượng này không tách rời nhau mà gắn bó khăng khít với nhau. Rừng xà nu sẽ không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt khi con người chưa thấm thía bài học chúng nó đã càm súng mình phải cầm giáo.

  * Nghệ thuật đặc sắc được tác giả Nguyễn Trung Thành qua tác phẩm “Rừng xà nu”
  – Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật).

– Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít…)

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

  * Đánh giá chung
  – Nguyễn Trung Thành đã kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan khi miêu tả cây xà nu tạo nên hình ảnh cây xà nu đầy sức lực, tràn trề sưc sống. Tác giả luôn miêu tả hình tượng cây xà nu với con người, các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hung vĩ của thiên nhiên và gợi ra những lien tưởng về con người.

– Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt suốt tác phẩm tượng trưng cho vẻ đẹp hào hùng đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó chất thơ và chất sử thi hòa làm một thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành: vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giỏi tạo hình vừa giàu tính khái quát.

  d. Chính tả, dùng từ, đặt câu  

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

  e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *