Đề thi học sinh giỏi môn văn khối 10

Đề thi khối 10
HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN

VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI BÌNH

 

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 10

NĂM 2018

Thời gian làm bài: 180 phút

( Đề thi gồm 02 trang)

 

Câu 1 (8,0  điểm)

NGỤ NGÔN CỦA MỖI NGÀY

 

Ngồi cùng trang giấy nhỏ

Tôi đi học mỗi ngày

 

Tôi học cây xương rồng

Trời xanh cùng nắng, bão

Tôi học trong nụ hồng

Màu hoa chừng rỏ máu

 

Tôi học lời ngọn gió

Chẳng bao giờ vu vơ

Tôi học lời của biển

Đừng hạn hẹp bến bờ

 

Tôi học lời con trẻ

Về thế giới sạch trong

Tôi học lời già cả

Về cuộc sống vô cùng

 

Tôi học lời chim chóc

Đang nói về bình minh

Và trong bia mộ đá

  Lời răn dạy đời mình.

 

(Theo Internet, Đỗ Trung Quân)

Từ bài thơ trên, anh/ chị có suy nghĩ gì về việc học trong cuộc sống?

 

Câu 2 (12,0  điểm)

“ Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ”, tác giả Chế Lan Viên viết:

…Câu thơ ư, là cách truyền lửa qua muôn đời

    Ai hơi đâu truyền đuốc tắt mà chơi”

Bằng cảm nhận về một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

 

——– HẾT ——–

 

 

Người ra đề: Lê Nga

HƯỚNG DẪN CHẤM THI MÔN NGỮ VĂN 10

Câu 1. (8,0 điểm)

  1. Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách vận dụng kĩ năng làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý để tạo lập văn bản. Bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

  1. Yêu cầu về kiến thức:

1.Nêu vấn đề nghị luận: Từ quan niệm của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bày tỏ suy nghĩ của mình về việc học mỗi ngày từ cuộc sống

  1. Giải thích:

– Học ( học tập, học hành, học hỏi) là quá trình tiếp xúc và tiếp thu kiến thức mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức nâng cao, các kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có liên quan đến việc tổng hợp các thông tin khác nhau.

– Bài thơ đã thể hiện một quan niệm đúng đắn, tốt đẹp của tác giả Đỗ Trung Quân về việc học: học không phải chỉ là ở trường, lớp mà học còn là một cuộc hành trình tìm kiếm – khám phá – lĩnh hội từ những điều bình dị trong cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, con người luôn luôn có thể học tập thêm kiến thức, bồi dưỡng cho tâm hồn mình giàu có và phong

phú hơn. Cuộc sống chính là một trường học lớn giúp ta trải nghiệm mỗi ngày để thêm yêu đời và sống tốt đẹp hơn.

  1. Bàn luận:

– Những bài học hữu ích có thể đến từ chính những điều bình dị quanh mình
+ Học được từ thiên nhiên, cỏ cây vạn vật: sự thích nghi để tồn tại của cây xương rồng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, luôn chắt chiu nhựa sống giữa trời xanh và nắng bão); sự tận hiến kiệt cùng của nụ hồng dâng sắc tỏa hương điểm tô cho đời màu hoa chừng rỏ máu; sự phóng khoáng, tự do nhưng  không vu vơ của gió; sự rộng lượng, bao dung không hạn hẹp bến bờ của biển; sự vui vẻ,  lạc quan, yêu đời của những con chim líu lo hót chào bình minh…

+ Học được từ con người: sự hồn nhiên, sạch trong từ lời của trẻ thơ; sự từng trải, kinh nghiệm quý giá của người già về cuộc sống vô cùng; ngay cả “bia mộ đá” trên nấm mồ hoang lạnh cũng mang đến “ lời răn dạy”, nhắc nhở ta về cuộc đời hữu hạn, hãy yêu và trân trọng sự sống, cuộc sống quý giá này.

– Những bài học cuộc sống sẽ giúp tâm hồn ta thêm phong phú, rộng mở, hoàn

thiện nhân cách, hướng tới lối sống tích cực, hữu ích

– Học phải chọn lọc những điều hay, loại trừ những điều không tốt.

4.Bài học trong nhận thức và hành động

– Học đi với hành, để kiến thức trở thành văn hóa trong mỗi hành vi ứng xử.

– Học một cách bền bỉ trong suốt quá trình sống: từ nhỏ đến khi trưởng thành, cho đến suốt cuộc đời.

III. Cách cho điểm:

7 – 8 điểm: Đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu, nghị luận có sức thuyết phục, diễn đạt có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ.

5 – 6 điểm: Đáp ứng khá đầy đủ yêu cầu ; nghị luận tương đối có sức thuyết phục, không có sai sót lớn về diễn đạt.

3 – 4 điểm: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách làm bài nghị luận xã hội, tuy vậy bài viết còn sơ sài về nội dung hoặc mắc nhiều lỗi.

1 – 2 điểm: Chưa hiểu rõ vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc quá nhiều lỗi

0 điểm: Lạc đề hoàn toàn hoặc không viết bài

Câu 2. (12,0 điểm)

  1. Yêu cầu về kĩ năng:

– Học sinh biết cách làm bài bình luận ý kiến về một vấn đề lí luận văn học. Bài viết phải vừa có sắc thái lý luận, vừa thể hiện rõ những cảm nhận tinh tế về tác giả, tác phẩm

– Biết xác định đúng luận đề, luận điểm sáng rõ, lập luận chặt chẽ, kết cấu rõ ràng.

– Diễn đạt mạch lạc, trong sáng, giàu chất văn.

– Hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.

Yêu cầu về kiến thức:

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, trên cơ sở cảm nhận ý thơ của Chế Lan Viên, vận dụng kiến thức lý luận văn học và cảm thụ một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, tổng hợp các thao tác của bài nghị luận để bày tỏ ý kiến của mình,

Giải thích (2 điểm)

– Lửa là nhiệt, là ánh sáng, tượng trưng cho tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ. Người viết câu thơ như đốt lên ngọn đuốc để truyền lửa qua muôn đời, thắp lửa trong trái tim người đọc.

-> Câu thơ thể hiện suy ngẫm của tác giả về vai trò, sứ mệnh của người nghệ sĩ trong sáng tạo thơ ca và vai trò, chức năng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng . Thiên chức cao đẹp của người nghệ sĩ trong sáng tạo với cuộc hành trình truyền lửa qua muôn đời, tạo sự kết nối trong quá trình tiếp nhận lĩnh hội văn bản: tác giả- tác phẩm- độc giả.

  1. Bàn luận. ( 8 điểm)

– Văn học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ môn nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ để tái hiện cuộc sống, truyền tải tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ thông qua hình tượng nghệ thuật, tác động tới tâm hồn người đọc.

– Thơ là thể loại nảy sinh sớm nhất trong đời sống nhân loại. Bản chất của thơ là trữ tình, là tiếng nói của cảm xúc, qua đó biểu hiện những tư tưởng, đúc kết những quy luật của đời sống, cảm xúc được thể hiện một cách mãnh liệt nhất, sôi sục nhất, dâng trào nhất, thăng hoa nhất. Thơ là tiếng hát tâm hồn con người với khát vọng sống, khát vọng sáng tạo, sự thăng hoa cảm xúc, là sự diễn đạt cái đẹp của ý của tình trong cái đẹp của lời của tiếng để hòa điệu trong trái tim mọi người

–  Một tác phẩm chân chính, có giá trị đích thực sẽ là những ngọn lửa sáng tạo được đốt lên từ trái tim cháy bỏng của người nghệ sĩ, bùng lên thành ngọn đuốc để truyền lại cho muôn đời, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của con người thông qua thế giới hình tượng nghệ thuật. Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng không giáo dục một cách trực tiếp, tức thì mà giáo dục một cách lâu dài.

– Tác động của thơ đối với người đọc bằng con đường tình cảm. Nhà thơ phải tạo được những cảm xúc mang tính nhân đạo , tính thẩm mỹ để khơi dậy trong tâm hồn người đọc những tình cảm tốt đẹp, hướng thiện, làm thanh lọc và bồi đắp tâm hồn người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn

Chất liệu để đốt lên ngọn lửa truyền qua muôn đời là thế giới hình tượng trong tác phẩm. Chất liệu ấy sẽ nhen nhóm những rung động đầu tiên với những thiện cảm, thích thú, yêu mến trong người đọc rồi ngấm dần và vun đắp thành những suy tư, chiêm nghiệm về sự sống, cuộc sống và con người, thấm sâu và trở thành máu thịt, thành nhân cách và lẽ sống của con người.

3. Đánh giá, mở rộng vấn đề ( 2 điểm)

– Khẳng định, nhấn mạnh chức năng và vai trò tiếp nhận văn học trong thưởng thức nghệ thuật.

– Đề cao vai trò, trách nhiệm của người cầm bút : phải dấn thân, phải cháy hết mình trong mỗi câu thơ, để thơ trở thành ngọn đuốc với ánh sáng Chân- Thiện-Mỹ.

 

*Học sinh chọn dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu trong chương trình lớp 10 để chứng minh

III. Cách cho điểm:

– Điểm 10-12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu . Diễn đạt giàu chất văn, lập luận rõ ràng, dẫn chứng thuyết phục, phân tích sâu sắc. Khuyến khích các bài văn có tính sáng tạo

– Điểm 7-9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt.

– Điểm 4-6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, hoặc liệt kê dẫn chứng đơn thuần. Còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt.

– Điểm 1-3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu thuật kể dẫn chứng. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu.

– Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài.

———-Hết———-

Người soạn đáp án: Lê Thị Nga

           

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *