Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay

Sáng kiến kinh nghiệm

TÓM TẮT ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NAY

 PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài
  2. Mục đích của đề tài

III. Bố cục chuyên đề

PHẦN NỘI DUNG

  1. Khái quát quan niệm nghệ thuật về con người
  2. Khái niệm

1.1. Đối tượng của văn học là con người

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

  1. Vai trò của quan niệm nghệ thuật về con người
  2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
  3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 – 1975

1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

  1. Sự thống nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người
  2. Quan niệm nghệ thuật về con người ở từng chặng đường văn học được biểu hiện cụ thể và có những đặc điểm riêng
  3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay

2.1. Hoàn cảnh lịch sử và những chuyển biến về xã hội, văn hóa, tư tưởng

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

  1. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
  2. Những kiểu con người chủ yếu
  3. Vài nét về sự chuyển biến trong phương thức biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người

III. Một số câu hỏi, đề bài luyện tập

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 

 

 

 

 

 

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NAY

 

 

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

1.1. Có nhiều con đường đi vào tìm hiểu tác phẩm văn chương và một trong những hướng khai thác được chú ý nhiều trong bối cảnh lí luận văn học hiện đại hiện nay là tiếp cận dưới góc độ thi pháp học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những phạm trù quan trọng chi phối sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, đặc biệt là miêu tả con người của văn học.

1.2. Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay đã phát triển trong những điều kiện lịch sử, xã hội đặc biệt, có nhiều biến động. Đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, rồi sau đó khi hòa bình trở lại, cả dân tộc quay trở về với quỹ đạo đời thường, hòa nhập sâu hơn với thế giới,…Văn học cũng có sự chuyển biến để phù hợp với tình hình mới. Từ 1945 đến 1975 là nền văn học phát triển trong thời chiến, từ sau năm 1975 đến nay văn học tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh hòa bình. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì con người cũng là mục đích và là đối tượng trung tâm của văn học. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người sẽ giúp chúng ta cắt nghĩa, lí giải được hình tượng con người được biểu hiện trong tác phẩm, thông qua đó nhận thức được hiện thực cuộc sống đang diễn ra, những đặc sắc và những cách tân độc đáo trong nghệ thuật thể hiện, thấy được quá trình phát triển, đổi mới của các giai đoạn, các thời kì văn học,…

1.3. Trong thực tế, có rất nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người. Tuy nhiên những bài viết này thường tập trung tìm hiểu quan niệm con người của một tác giả cụ thể, một giai đoạn văn học nhất định. Có ít công trình đi vào nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong cả thời kì văn học Việt Nam từ 1945 đến nay. Thực hiện đề tài này chúng tôi muốn góp phần làm rõ những nét cơ bản về quan niệm con người, vai trò của nó được thể hiện ở mỗi giai đoạn văn học, thông qua đó thấy được diện mạo chủ yếu, và sự chuyển biến của văn học Việt Nam từ 1945 đến nay.

1.4. Hiện nay trong nhà trường, những tác phẩm thuộc thời kì văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay chiếm vị trí quan trọng, đối với cả thi học sinh giỏi, tốt nghiệp và đại học. Việc nghiên cứu, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người do đó không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn mang tính thời sự, tính thực tiễn đối với cả người học và người dạy văn. Nó cung cấp cơ sở lí luận cho việc xác lập các tiêu chí đánh giá văn học, rèn luyện tư duy phân tích, lí giải các vấn đề liên quan đến việc thể hiện con người của tác giả trong tác phẩm văn học,…

 

  1. Mục đích của đề tài

Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng tới mục đích chỉ ra các đặc điểm cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, vai trò của nó trong việc thể hiện ý nghĩa hiện thực đời sống và sự lựa chọn các phương thức, phương tiện biểu hiện của văn học để biểu hiện con người, so sánh để thấy được sự chuyển biến trong quan niệm con người giữa hai giai đoạn văn học: giai đoạn từ 1945 đến 1975 và giai đoạn từ sau 1975 đến nay dẫn đến sự thay đổi diện mạo của nền văn học.

 

III. Bố cục của chuyên đề

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề được chia làm ba phần:

– Khái quát quan niệm nghệ thuật về con người

– Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay

– Một số câu hỏi, bài tập

                                 

PHẨN NỘI DUNG

  1. Khái quát quan niệm nghệ thuật về con người
  2. Khái niệm

1.1. Đối tượng của văn học là con người 

Gor-ki đã từng khẳng định Văn học là nhân học. Đúng vậy, đối tượng chủ yếu của văn học chính là con người.  Dù có miêu tả thần linh, ma quỷ, đồ vật, con vật,… thì mục đích cuối cùng vẫn là để thể hiện con người. Thông qua con người, nhà văn thể hiện sự nhận thức, khám phá, đánh giá về hiện thực đời sống. Hiện thực ấy có chân thực, sâu sắc, có đi được vào lòng người hay không chính là nhờ con người. Con người vừa là phương tiện để đánh giá hiện thực nhưng qua việc đánh giá hiện thực nhà văn cũng nhằm mục đích miêu tả con người. Có thể nói con người là đối tượng trung tâm trong sáng tác văn học của mọi thời đại.

Tuy nhiên con người trong tác phẩm văn học không hoàn toàn giống với con người ở ngoài đời thực. Nhiều khi đọc một tác phẩm, người ta ồ lên rằng: Tôi đã gặp anh ta ở đâu đó rồi. Sự giống nhau ấy chính là bởi hình tượng con người trong tác phẩm đã được xây dựng từ con người ngoài cuộc sống. Nhưng qua sáng tạo của nhà văn, đó không còn là những con người cụ thể, thô mộc ngoài hiện thực mà đã chuyển thể thành hình tượng nghệ thuật, gửi gắm trong đó những vấn đề có tầm khái quát lớn lao hơn rất nhiều. Con người trong tác phẩm vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người nghệ sĩ (Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử).

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

Theo cách hiểu trong Từ điển Tiếng Việt, quan niệm là hiểu, nhận thức thế nào đó về một vấn đề, Từ điển Bách khoa triết học định nghĩa là cách hiểu, cách cắt nghĩa một sự vật, hiện tượng, quá trình nào đó. Như vậy nói đến quan niệm là nói về sự nhận thức, sự cắt nghĩa, lí giải của chủ thể đối với khách thể. Trong tác phẩm văn học, nhà văn thể hiện sự nhận thức, đánh giá của mình về hiện thực, về cuộc sống thông qua hình tượng trung tâm là con người. Quan niệm nghệ thuật về con người theo giáo sư Trần Đình Sử là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó (Dẫn luận thi pháp học). Định nghĩa này khẳng định quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ, lí giải về con người và được thể hiện thành các nguyên tắc, biện pháp, qua đó thấy được giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đưa ra cách hiểu đó là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với cách phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật. Dù cách diễn đạt khác nhau nhưng cách hiểu quan niệm nghệ thuật về con người tương đối thống nhất, đều nói lên được bản chất, cốt lõi của vấn đề. Đó là cách nhìn, cách hiểu, cách cảm, cách phân tích, cắt nghĩa về con người được nhà văn biểu hiện trong tác phẩm thông qua các phương tiện, biện pháp nghệ thuật. Nhân vật trong tác phẩm chính là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học. Nhân vật có thể giống với con người ở ngoài đời thực (về ngoại hình, tính cách) nhưng cũng có thể không giống với đối tượng có thật. Đó là con người được sáng tạo trong những tình huống nhất định để thể hiện cách cảm thụ chủ quan của chủ thể.

Quan niệm nghệ thuật về con người có cơ sở từ thực tế lịch sử, ảnh hưởng của nền văn hóa, tư tưởng trong thời đại xã hội ấy. Vì thế mà trong thời kì trung đại ở Phương Tây, người ta xem con người là sản phẩm sáng tạo của chúa Trời, thời kì Phục hưng đến Khai sáng, con người được xem là sản phẩm của tự nhiên, các tác phẩm văn học đều tôn vinh vẻ đẹp của con người trần thế (Các tác phẩm của Uyliam Sếch –xpia). Từ thế kỉ XIX, con người được xem như vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Không chỉ chịu sự chi phối của nền văn hóa, tư tưởng, quan niệm nghệ thuật về con người còn in đậm dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ, thể hiện cái nhìn độc đáo của mỗi tác giả về thế giới. Đó là lí do tạo nên sự đa dạng, phong phú trong thế giới nhân vật của các nhà văn, nhà thơ.

  1. Vai trò của quan niệm nghệ thuật về con người

Có một nhà văn đã từng viết: Con người trong sự miêu tả của nhà văn là một trong những trung tâm điểm từ đấy tỏa ra các sợi dây chi phối cơ chế nghệ thuật của tác giả. Là một tiêu điểm mà qua đó phong cách nhà văn được thể hiện sáng rõ hơn bao giờ hết (…). Và cũng chính những nguyên tắc miêu tả con người ấy đã cung cấp chìa khóa để giúp ra hiểu được phương pháp sáng tạo của người nghệ sĩ. Lời nhận xét ấy đã khẳng định được vai trò quan trọng của quan niệm nghệ thuật về con người đối với việc sáng tạo của nhà văn. Trên cơ sở cách nhìn, cách cảm, cách lí giải về con người tác giả sẽ lựa chọn và tạo nên những hình tượng phù hợp để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.

Ở mỗi một thời đại, với cách giải thích và cảm nhận mới về con người cũng sẽ làm cho văn học đổi mới. Khía cạnh này một lần nữa nhấn mạnh quan niệm con người đã tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật (Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử). Có những tác phẩm cùng sử dụng một đề tài, một tích truyện, cũng vẫn những nhân vật ấy, con người ấy nhưng dưới những góc nhìn khác nhau sẽ tạo thành những sáng tác có giá trị khác nhau. Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tác dựa trên tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Dù có vay mượn cốt truyện, nhân vật nhưng với cách giải thích, cách cảm nhận hoàn toàn mới, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác có một không hai trong văn học Việt Nam. Nhà thơ đã biến một câu chuyện tình (tài tử giai nhân) thành một khúc ca đứt ruột về số phận của những người bạc mệnh, biểu hiện những cảm xúc nhân sinh về những điều trông thấy trong cuộc đời.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm luôn hướng vào con người với tất cả chiều sâu của nó, và theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đây chính là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của một hiện tượng văn học (…). Người nghệ sĩ đích thực là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người (Dẫn luận thi pháp học). Nếu như không đi sâu vào tìm hiểu, khám phá con người, anh sẽ không mang được điều gì mới, tác phẩm của anh chỉ là sự minh họa giản đơn, hời hợt bên ngoài, không có chiều sâu, rất dễ sinh ra nhàm chán, và không động được đến trái tim người đọc. Bởi như chúng ta vẫn biết, con người là đối tượng trung tâm của văn học và cũng là cái đích mà văn học hướng tới. Chỉ có những gì chạm vào sâu thẳm tâm hồn mới đủ sức lay động, và có thể làm thay đổi cả thế giới này. Giá trị nhân văn của tác phẩm nằm ở đó, nằm ở chỗ nhà văn cắt nghĩa, lí giải, cảm nhận sâu sắc ở mức độ nào về con người.

Một tác phẩm hay là phải đạt tới sự hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Các yếu tố hình thức cũng chịu sự chi phối của quan niệm con người, quy định sự lựa chọn các thủ pháp nghệ thuật của nhà văn để xây dựng hình tượng (chẳng hạn như kết cấu, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu trần thuật,… ). Trong những tác phẩm của Nam Cao, chúng ta có thể bắt gặp kiểu người rất phổ biến đó là con người tự ý thức. Hộ trong Đời thừa, Điền trong Giăng sáng, Thứ trong Sống mòn, và ngay cả Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên cũng có bóng dáng của kiểu người này.  Nhân vật của Nam Cao thường mang trong mình những mâu thuẫn, giằng xé dữ dội giữa ranh giới của cái thiện và cái ác, lương tâm, trách nhiệm và hiện thực tàn khốc, giữa người và vật, giữa ý thức và vô thức. Tự ý thức giúp phân biệt con người với con vật, là quá trình đấu tranh với chính bản thân mình, vươn lên hướng tới sự hoàn thiện. Trong bi kịch của một nhà văn, Hộ khinh bỉ chính bản thân mình, tự mắng mình là một kẻ bất lương, đê tiện khi đã viết những tác phẩm nhạt nhẽo, để lại những tình cảm rất nhẹ, rất nông, không có ấn tượng gì. Hộ đau đớn, lương tâm của một nhà văn chân chính đang dày vò Hộ khiến anh ta cảm thấy mình là một người vô ích, một người thừa. Trong sâu thẳm tâm hồn Hộ vẫn khao khát về một cái gì đó rất xa xôi… những mộng đẹp ngày xưa… Quá trình tự ý thức, tự đấu tranh để vươn lên ấy cũng thể hiện rất rõ trong nhân vật Chí Phèo. Gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí đã rẽ ngoặt sang một hướng mới. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại một thời nay đang khao khát được làm người lương thiện và Thị Nở sẽ là người mở cánh cửa cho hắn trở về. Khao khát quá lớn va đập với hiện thực tàn khốc khiến Chí đau đớn, tuyệt vọng. Nhưng sự thức tỉnh của lương tâm đã khiến anh dứt khoát lựa chọn đứng về ranh giới của cái Thiện, để được chết như một con người, hơn là phải sống kiếp của một con vật bị người ta lảng tránh, ghê sợ. Có thể nói sự lựa chọn kiểu con người tự ý thức đã giúp cho Nam Cao phát huy được biệt tài miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật rất sắc sảo. Ông giống như một bác sĩ tâm lí khơi sâu vào trong đời sống tâm hồn của nhân vật để khám phá những góc khuất, để khơi lên những vẻ đẹp tiềm ẩn trong đó, để cho bản chất Người thực sự tỏa sáng. Ví dụ này chứng minh quan niệm nghệ thuật về con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật (Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử)

Bên cạnh đó quan niệm con người còn có ý nghĩa quan trọng trong tiếp nhận tác phẩm văn học, mở đường cho độc giả hiểu được phương pháp sáng tạo, cá tính độc đáo của người nghệ sĩ. Tại sao như vậy? Bởi chính cách cảm nhận, cắt nghĩa về con người sẽ giúp người đọc lí giải được các mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, hiểu được sự lựa chọn các yếu tố nghệ thuật, khả năng đi sâu tìm hiểu, khám phá về con người của nhà văn. Nói cách khác quan niệm con người sẽ tạo cơ sở để bạn đọc nắm bắt được phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Có thể thấy được điều này qua những truyện ngắn của Thạch Lam. Con người trong tác phẩm của ông thường thiên về đời sống nội tâm. Chính cách quan niệm ấy đã giúp cho Thạch Lam đi sâu vào thế giới tinh thần của con người để mô tả đầy đủ và tinh tế những cung bậc tình cảm, những biến thái tinh vi, những cảm xúc, cảm giác mong manh trong tâm hồn con người. Đây chính là nét đặc sắc trong ngòi bút của Thạch Lam, tạo nên những trang văn thấm đẫm chất thơ, lắng đọng tình đời, tình người.

Như vậy quan niệm nghệ thuật về con người có ý nghĩa quan trọng trong sáng tạo của nhà văn và trong cả quá trình tiếp nhận của độc giả.

 

  1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
  2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 – 1975

1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

             Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay phát triển trong điều kiện lịch sử, xã hội đặc biệt với nhiều biến động dữ dội. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công không những đã đem lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam mà còn khơi dậy mạnh mẽ ý thức cộng đồng, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài ba mươi năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã tác động mạnh mẽ đến văn nghệ. Nền văn học giai đoạn này mang những đặc điểm cơ bản: chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước, tập trung hướng về đại chúng trước hết là công nông binh, đề cao vai trò vĩ đại của quần chúng nhân dân trong cách mạng. Các tác phẩm đã thể hiện được những sự kiện lịch sử trọng đại có ý nghĩa lớn lao của toàn dân, đất nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xây dựng được những nhân vật kết tinh đầy đủ sức mạnh và phẩm chất của cộng đồng bằng vốn ngôn ngữ trang trọng, giàu tính ước lệ. Khuynh hướng sử thi đòi hỏi người cầm bút phải nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt không chỉ của cá nhân mà chủ yếu bằng con mắt khái quát có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời đại. Tố Hữu gọi đó là con mắt nhìn bốn hướng / Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau / Trông bắc trông nam trông cả địa cầu. Còn Chế Lan Viên gọi là con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa. Cảm hứng bao trùm là cảm hứng lãng mạn, hướng về lí tưởng, về tương lai với niềm tin và niềm vui chiến thắng.

Có thể khẳng định văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã có sự biến đổi trên nhiều phương diện, từ nội dung cảm hứng, đề tài, chủ đề đến ngôn ngữ, giọng điệu, nhân vật,… Sự biến đổi này đến từ nhiều nguyên nhân mà trước hết là sự thay đổi quan niệm về con người. Như ở trên chúng ta đã phân tích, quan niệm con người có ý nghĩa quyết định trong việc lựa chọn và miêu tả con người của nhà văn. Quan niệm ấy bao giờ cũng chịu tác động của văn hóa, tư tưởng của xã hội, thời đại. Một thời đại mới sẽ kéo theo những quan niệm mới. Tuy nhiên giai đoạn văn học 1945 – 1975 với sự thống nhất về khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật nên cũng không có sự phức tạp, đa dạng trong quan niệm con người. Các tác giả đều sáng tác dưới sự chi phối của một quan niệm thống nhất nhưng đó là sự thống nhất trên nét lớn. Trong từng chặng đường của văn học, quan niệm cũng có sự phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh của xã hội, của đất nước, của cách mạng.

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

  1. Sự thống nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người

* Về nội dung quan niệm: con người được nhìn nhận và đánh giá chủ yếu ở tư cách con người công dân, con người dân tộc, con người giai cấp (Nguyễn Văn Long). Nếu như trước đó, văn học Việt Nam luôn đề cao con người cá nhân đặc biệt là khả năng hướng nội, đào sâu vào cái tôi bản thể thì giờ đây, với quan niệm mới, con người chủ yếu được các nhà văn miêu tả trong mối quan hệ với xã hội, cộng đồng, dân tộc, với cách mạng. Tất cả đời sống vật chất, tâm hồn, tình cảm của con người đều xoay xung quanh những vấn đề có tầm vóc lớn lao, liên quan đến vận mệnh của đất nước. Những tình cảm cá nhân, đời thường không còn là tâm điểm chú ý của văn học. Vì thế ở giai đoạn này chúng ta rất hiếm khi gặp con người với tư cách đời tư, thế sự. Mọi sự đánh giá đối với con người cũng được quy chiếu trên lập trường chính trị. Bởi vậy những tình cảm chủ yếu của thơ ca giai đoạn này là tình cảm công dân, tình cảm chính trị. Đó là tình yêu nước, tình cảm đồng chí, đồng bào, tình quân dân, tình cảm đối với Đảng, với Bác Hồ,… Những tình cảm riêng tư (tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng) không phải không có nhưng được nâng lên thành tình đồng chí, đồng đội. Chẳng thế mà tiếng súng giệt thù đã trở thành ngôn ngữ của tình yêu, của lòng chung thủy ở nhiều tác phẩm. Trong tiểu thuyết Người mẹ cầm súng, những đêm tập kích, hai vợ chồng ở hai nơi nhưng chị Út Tịch đã nói với chồng: Tôi chia lửa cho chồng đó nghen; trong Giấc mơ của đất vợ chồng chị Hạnh nói với nhau Đứa đầu ghềnh, đứa cuối bãi, thời buổi này lấy tiếng súng làm tin. Có thể nói phẩm chất chính trị đã trở thành thước đo của mỗi con người. Và để cổ vũ cho quan điểm đó, nhiều nhà văn đã xây dựng kiểu nhân vật người Đảng (nhân vật A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, anh Quyết trong Rừng xà nu của Nguyên Ngọc) – những người đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng đi theo tiếng gọi của Đảng. Sự giác ngộ cách mạng rõ ràng là minh chứng rõ nhất cho phẩm chất của con người trong thời buổi này, là khía cạnh được các tác giả đặt lên hàng đầu để ngợi ca, để tôn vinh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng.

Nói con người trong văn học 1945 – 1975 là con người giai cấp bởi vì cách mạng và kháng chiến phải dựa hẳn vào lực lượng công nông và trước hết nhằm giải phóng công nông. Cho nên văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu tất yếu phải hướng về công nông binh. Đây chính là đối tượng phản ánh, là công chúng của văn học và cũng là lực lượng sáng tác chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh đương thời khi trả lời cho câu hỏi Viết cho ai? cũng nhấn mạnh: Viết cho đại đa số công nông binh (…). Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng. Với quan điểm đó, nhiều tác phẩm văn học giai đoạn này đã thể hiện được vai trò vĩ đại của người nông dân trong cách mạng, tiêu biểu phải kể đến Đôi mắt của Nam Cao. Tác giả đã dùng biểu tượng đôi mắt để gửi gắm cách nhìn nhận cuộc đời, nhìn nhận về người dân quê. Cùng trước một hiện tượng là người dân quê, Hoàng nhìn vào chỉ thấy đó là những người ngu độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện, vừa ngố, vừa nhặng xị thì Độ lại thấy được họ có thể làm cách mạng và làm cách mạng hăng hái lắm. Độ cũng thấy những người dân quê đó răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh nhưng khi ra trận thì xung phong, can đảm lắm. Đây cũng là cái nhìn của rất nhiều những nhà văn khác đặc biệt là những nhà văn đã được lột xác nhờ cách mạng…

* Về nghệ thuật biểu hiện con người

            Để thể hiện quan niệm con người dân tộc, con người công dân, con người của giai cấp, văn học 1945 – 1975 đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật tiêu biểu như việc lựa chọn thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ,… Khác với thơ ca thời kì trước đó, thời kì này, các tác giả thường hướng tới khai thác những hình thức nghệ thuật gần gũi với đại chúng, tiếp thu từ kho tàng văn học dân gian và truyền thống, ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, dễ hiểu, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân,… Ở đây chúng tôi đi sâu vào hai yếu tố chủ yếu là giọng điệu và ngôn ngữ.

Về giọng điệu: Hình ảnh con người Việt Nam thời kì này được tái hiện bằng giọng điệu chủ đạo là ngợi ca, trang trọng, phù hợp với mục đích của một nền văn học phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Sắc thái hào sảng, lạc quan, tự hào là điều dễ nhận thấy trong các tác phẩm, đặc biệt là thơ ca. Những dòng thơ viết về đất và người Việt Bắc, những chiến công vang dội của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp đều thấm đẫm chất anh hùng ca, tràn ngập niềm tự hào, tôn vinh của tác giả: Những đường Việt Bắc của ta/Đêm đêm rầm rập như là đất rung/Quân đi điệp điệp trùng trùng/Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan/Dân công đỏ đuốc từng đoàn/Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay/Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/Đèn pha bật sáng như ngày mai lên (Việt Bắc). Bản hùng ca của dân tộc đã được cất lên hùng hồn, khắc họa thành công hình ảnh của những đoàn quân đông đảo, lớn mạnh đang hồ hởi tiến ra mặt trận. Âm thanh mạnh mẽ của một loạt động từ, tính từ rầm rập, điệp điệp, trùng trùng, bước chân nát đá,… đã cho thấy được khí thế ngất trời, có thể làm lay chuyển núi sông của quân dân ta. Những gương mặt anh hùng được ngợi ca, ngưỡng mộ xuất hiện ngày càng nhiều trong văn học: người con gái Việt Nam kiên cường Trần Thị Lý, anh Núp, chị Út Tịch, Tnú, Chiến, Việt,… và còn biết bao những con người Việt Nam có tên và không tên khác. Họ đã hóa thân mình để làm nên Đất Nước, làm nên một xứ sở huyền thoại, một lịch sử hào hùng. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả tâm trạng của Thùy (trong tiểu thuyết Cửa sông) khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng với sự hứng khởi, say mê Từ bên này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ khuôn mặt các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối tình lớn ấy. Nguyễn Trung Thành lại dùng một thứ ngôn ngữ diễn tả sự tuyệt đối, phi thường để ngợi ca Tnú. Sự mau lẹ, dũng mãnh của Tnú được so sánh như một con cá kình, như một  con sóc, sự căm thù đốt cháy trong đôi mắt Tnú như hai cục lửa lớn và mười ngón tay của anh bị đốt cháy thành mười ngọn đuốc,…

Không chỉ trong chiến tranh, giọng điệu ngợi ca, tự hào cũng được sử dụng để khắc họa hình ảnh con người trong cuộc sống mới ở miền Bắc khi hòa bình lập lại. Sự đổi đời của người dân, niềm vui say với cuộc sống mới đã chắp cánh cho những tác phẩm của Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Huy Cận,… Trong chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh, Huy Cận đã thực sự hòa nhập vào không khí làm việc hăng say, tràn đầy lạc quan, tin tưởng của người dân miền biển mặc dù cuộc sống còn nhiều vất vả: Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then đêm sập cửa/Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/Câu hát căng buồm cùng gió khơi (Đoàn thuyền đánh cá).

Có thể nói giọng điệu chính là phương tiện quan trọng để thể hiện hình tượng con người trong văn học thời kì này.

Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ văn cách mạng đã có sự biến đổi mạnh mẽ so với giai đoạn văn học trước đó, không còn cầu kì kiểu cách mà trở về với đời sống, phản ánh cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đó là một thứ ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng. Trong thơ chúng ta bắt gặp cách sử dụng khá phổ biến từ ngữ, cách nói mang tính chất khẩu ngữ Anh kể chuyện tôi nghe/Trận chợ Đồn, chợ Rã/Ta đánh giặc chạy re/Hai đứa cười ha hả (Cá nước, Tố Hữu). Chất liệu ca dao, thành ngữ được sử dụng khá nhiều trong thơ ca, khắc họa thành công tâm tư, tình cảm của quần chúng Mình về mình có nhớ ta/Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng/Mình về mình có nhớ không?/Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn (Việt Bắc, Tố Hữu), Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính… (Đồng chí, Chính Hữu). Trong văn xuôi, các nhà văn cũng rất chú trọng học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân. Tô Hoài nhận ra ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận cho nhà viết tiểu thuyết, nhân dân chính là ông thầy lớn của mình về tiếng nói. Vì thế ông đưa vào trong tác phẩm cả những từ ngữ thông tục như đánh bỏ mẹ, sợ đếch gì, giã bọt mép,… ; những thành ngữ, quán ngữ như gà sống nuôi con, ngậm đắng nuốt cay, túng thiếu làm càn,… Nguyễn Thi lại rất thành thạo, nhuần nhuyễn trong việc sử dụng ngôn ngữ của người dân Nam Bộ. Hãy nghe cách nói của chú Năm hai đứa cháu tôi một lòng theo Đảng tôi cũng mừng. Xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong, rồi cách trả lời của Việt với Chiến bộ mình chị biết đi trả thù à?, cái cách mà Chiến thể hiện quyết tâm của mình Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à! (Những đứa con trong gia đình)

Việc sử dụng ngôn ngữ đời sống đã giúp cho văn học 1945 – 1975 khiến cho người dân dễ hiểu, dễ tiếp thu, làm cho văn học thâm nhập sâu sắc vào quần chúng, nói lên được tiếng nói, tâm tư, tình cảm của quần chúng, phục vụ xuất sắc nhiệm vụ cách mạng, kháng chiến của dân tộc.

  1. Quan niệm nghệ thuật về con người ở từng chặng đường văn học được biểu hiện cụ thể và có những đặc điểm riêng

* Chặng đường văn học từ 1945-1954

  • Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

Cách mạng tháng Tám thành công quả thực đã đem lại những ngày hội lớn lao cho non sông, đất nước. Trong không khí ấy, dường như tất cả mọi con tim chung một nhịp đập, đều hướng về Tổ quốc, về nhân dân, quần chúng, về tình nghĩa đồng bào, đồng chí. Một thời kì mới được mở ra cho dân tộc, một thời kì mới cũng mở ra cho văn học. Và tiếp nối sau cách mạng tháng Tám, nhân dân ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp (1946 -1954). Quan niệm nghệ thuật về con người trong chặng đường văn học này cũng được biểu hiện với những nét riêng.

  • Quan niệm nghệ thuật về con người

Đắm mình trong không khí náo nức của ngày độc lập, các nhà văn đồng thời cũng phát hiện ra sức mạnh lớn lao của quần chúng cách mạng và vẻ đẹp bình dị ở nơi họ đã tạo nên thắng lợi vĩ đại. Hình ảnh quần chúng trong những ngày đầu giải phóng đã được ghi lại trong khá nhiều tác phẩm: kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng, Rãnh cày nổi dậy của Mạnh Phú Tư, Đường vô Nam của Nam Cao, bài thơ Đèo Cả của Hữu Loan,… Gương mặt quần chúng hiện lên sinh động với sự ngợi ca, trân trọng của các nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng viết vở kịch Bắc Sơn giúp người đọc hiểu được ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa và sức mạnh cảm hóa của cách mạng đối với quần chúng. Tác giả lấy bối cảnh của vở kịch là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (xảy ra năm 1940 – 1941) và những biến cố xung quanh gia đình cụ Phương, một gia đình người Tày. Cụ Phương và người con trai là Sáng hăng hái tham gia chiến đấu còn bà cụ Phương và cô con gái là Thơm lại ngại ngần, xa lánh. Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một tình huống đặc biệt để làm nổi bật xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thông qua diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật Thơm – nhân vật trung tâm của vở kịch thấy được sức mạnh cảm hóa của cách mạng. Ban đầu, Thơm còn ngây thơ, còn cả tin vào người chồng theo giặc nhưng sau đó khi biết rõ sự thật, cô đã lột xác để trở thành một con người bình tĩnh, tự tin, can đảm, dám bảo vệ đến cùng những cán bộ cách mạng. Câu nói của Thơm trong cơn mê sảng đã chứng minh cho tình cảm với cách mạng, cũng là lời cổ vũ, sự hưởng ứng, đồng tình của nhân dân dành cho cuộc khởi nghĩa: Trường Vũ Lăng ta lại chiếm được kia kìa! Đi mau lên, các ông! Các ông cố lên nha! Mau lên! có phải cờ ta đấy không? Được thật rồi!. Trong lúc đó, tiếng hát của du kích quân cất lên vang lừng, hùng dũng, văng vẳng.

Bước vào thời kì chống Pháp, văn học hướng hẳn đến đối tượng công nông binh. Vẫn là gương mặt quần chúng nhưng không còn chung chung nữa mà đã được xác định cụ thể hơn. Quần chúng đã trở thành nguyên tắc xây dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm: tác phẩm phải biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, khát vọng của quần chúng. Sở thích và sự đánh giá của quần chúng là thước đo thành công và giá trị của tác phẩm nghệ thuật (Nguyễn Văn Long). Vì văn học viết cho đại chúng và muốn đi sâu vào đại chúng không thể hời hợt, bề ngoài, mà phải hiểu được đời sống, tâm tư, tình cảm của họ, giúp họ nói lên tiếng nói của tầng lớp mình. Vì văn học viết về đại chúng nên phải khai  thác những cách thể hiện nghệ thuật quen thuộc với đại chúng mới dễ đi vào lòng người. Ngôn ngữ phải thật bình dị, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, cách diễn đạt phải thật dễ hiểu, phải gần gũi chứ không phải là những lời kiểu cách. Hình thức nghệ thuật dân gian được các nhà văn, nhà thơ tích cực khai thác, vận dụng trong sáng tác: thể thơ lục bát, song thất lục bát của ca dao, chất liệu thành ngữ, tục ngữ, những giai điệu quen thuộc trong những khúc hát dân ca, những điệu hò ví dặm,….

Trong thơ ca, cảm quan hiện thực đã giúp các tác giả đưa thơ trở về gần với đời sống thực tại hàng ngày của quần chúng kháng chiến, xây dựng được hình ảnh của con người bình dị, gần gũi nhưng không kém phần cao đẹp. Đó là những người lính nông dân hiền lành, chất phác, ra đi từ nơi nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, vốn chẳng hẹn quen nhau nhưng lại gắn kết bởi cùng một lí tưởng, gọi nhau hai tiếng thiêng liêng đồng chí! Những chi tiết rất thực của đời thường đã ùa vào thơ làm sống dậy những gương mặt thật thân quen mà ta có thể gặp ở bất cứ nơi đâu trên đất nước này. Không chỉ có người lính, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh của những người mẹ, người chị, người em, những anh vệ quốc quân, và rất nhiều những con người khác. Họ hiện ra đúng như cuộc đời thực của mình trong lao động, sinh hoạt, trong suy nghĩ, việc làm, trong đời sống tình cảm. Có thể kể đến những tác phẩm của các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, các nhà thơ trưởng thành trong đấu tranh cách mạng như Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên… Và người thành công nhất với xu hướng này là Tố Hữu. Với một loạt những bài thơ như Cá nước, phá đường, Bầm ơi, Bà mẹ Việt Bắc, Voi,… Tố Hữu đã đem thơ lại gần với quần chúng và thật dễ hiểu vì sao thời ấy người ra thuộc thơ ông nhiều như thế, chính là bởi những dòng thơ bình dị, dễ đi vào lòng người: Em là con gái Bắc Giang/Rét thì mặc rét nước làng em lo (Phá đường, Tố Hữu)

Cái tôi của Tố Hữu nhập thân vào quần chúng để thể hiện tâm tư, tình cảm của quần chúng. Đó là tình nghĩa gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến được thể hiện trong niềm nhớ thương của những bà mẹ nông dân với đứa con vệ quốc quân, là tình cảm cá nước của người cán bộ với anh bộ đội chỉ qua một lần gặp gỡ tình cờ trên dường kháng chiến, là mối tình gắn bó keo sơn giữa miền ngược và miền xuôi Mình về mình có nhớ ta/Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng (Việt Bắc)

Bên cạnh xu hướng xây dựng con người bằng cảm quan hiện thực, một hướng khai thác khác cũng được chú ý đó là miêu tả con người bằng cảm hứng lãng mạn anh hùng. Xu hướng này xuất hiện trong những năm đầu thời kì chống Pháp. Hình ảnh con người được tập trung thể hiện thường là những người anh hùng (không phải là một người mà là tập thể anh hùng), ở họ luôn thấy thấp thoáng bóng dáng của những đấng trượng phu, tráng sĩ thuở trước: Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa/Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng/Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng/Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa (Ngày về, Chính Hữu); hay Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến, Quang Dũng). Trong đó, Tây Tiến được xem như một bài thơ xuất sắc, độc đáo, một thi phẩm toàn bích đại diện cho xu hướng này. Có một thời bài thơ bị xem là mộng rớt, là tiểu tư sản bởi những câu thơ như: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Thời gian đã chứng minh cho sức sống của bài thơ ấy trong lòng người, không phải là mộng rớt mà chính là sự lãng mạn, hào hoa, là nỗi nhớ sâu thẳm đã làm nên một hình tượng riêng độc đáo về người lính chống Pháp – những con người xuất thân từ tầng lớp thanh niên trí thức Hà thành.

Truyện và kí thời kì này cũng trực tiếp hướng tới đối tượng là quần chúng kháng chiến với nhiều khám phá và cách thể hiện đặc biệt trên phương diện trần thuật. Đó là sự hòa nhập, thống nhất giữa quan điểm của tác giả – người kể chuyện với nhân vật quần chúng. Trong những tác phẩm ở thời kì đầu kháng chiến, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật vẫn còn. Người đọc có thể hình dung được hình ảnh của tác giả đang hướng cái nhìn từ bên ngoài vào để quan sát, miêu tả quần chúng, thấy được sự thay đổi, bày tỏ sự ngưỡng mộ, khâm phục trước sức mạnh và vẻ đẹp của họ trong Đôi mắt của Nam Cao, Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng hay trong tùy bút Đường vui của Nguyễn Tuân… Nhưng càng về sau, khoảng cách này dường như không còn nữa. Người trần thuật đã nhập hẳn vào hình ảnh của con người, vào suy nghĩ, tình cảm của nhân vật quần chúng, nói bằng giọng điệu và ngôn ngữ của chính quần chúng chứ không còn là sự quan sát từ bên ngoài nữa. Cách trần thuật khách quan, để cho bản thân cuộc sống tự nói lên tất cả khiến cho tác phẩm thực sự trở nên gần gũi, chân thực hơn. Có thể nhận thấy sự hòa nhập này trong Làng của Kim Lân, tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài,… Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân dường như đã nhập vào nhân vật để miêu tả diễn biến tâm lí của ông Hai từ chỗ yêu làng một cách tuyệt đối đến chỗ thù làng trong nỗi đau đớn vô hạn, rồi khi cái tin làng Chợ Dầu theo Tây được đích thân ông chủ tịch làng lên tận nơi để cải chính, ông lại vui mừng tột độ. Tâm lí ấy rất chân thực, nếu như không hòa vào nhân vật chắc chắn nhà văn không thể viết được như thế, và viết bằng một vốn ngôn ngữ đặc chất của một người nông dân, chân lấm tay bùn nhưng yêu làng tha thiết Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cũng tạo được một dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc nhờ cách kể chuyện của tác giả, nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhiều đoạn, nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp giúp người đọc nhận ra được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật, nghe được tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, tạo được sự đồng cảm giữa nhà văn, nhân vật và người đọc. Khi Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bổi hổi, khi Mị uống rượu, cứ uống ực từng bát, khi Mị nhớ lại quá khứ tươi đẹp của ngày trước, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đem đã thổi sáo đi theo Mị, rồi khi bị trói đứng vào cột nhà, tâm trạng nửa mê nửa tỉnh Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi… Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ… Đó là những đoạn độc thoại nội tâm sâu sắc mà ở đó ngôn ngữ nhà văn và nhân vật dường như đã hòa làm một, nhà văn sống trong nhân vật để nói lên tất cả những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật. Cách trần thuật này cũng giúp Tô Hoài đem được bản sắc của người dân miền núi vào trong tác phẩm, tạo được vẻ đẹp riêng khi viết về quần chúng kháng chiến.

Như vậy trong chặng đường đầu tiên của văn học cách mạng, quan niệm nghệ thuật về con người đã được thể hiện tập trung trong hình ảnh của quần chúng kháng chiến mà tiêu biểu là công nông binh. Sự thể hiện ở mỗi tác phẩm có khác nhau nhưng đều dựa trên những nguyên tắc cơ bản trong việc cắt nghĩa lí giải về con người:

– Con người được khám phá chủ yếu với tư cách công dân, ở phương diện con người chính trị, hoàn toàn không có chỗ cho con người cá nhân tồn tại. Phương diện đời tư, thế sự ít được chú ý, và nếu có thì những tình cảm cá nhân ấy cũng hòa nhập trong những tình cảm có tính chất rộng lớn hơn: tình cảm cộng đồng, dân tộc. Những con người của gia đình, của làng xóm giờ đây ý thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình không chỉ dừng lại trong phạm vi nhỏ bé ấy mà phải tham gia vào những những biến cố của đời sống lịch sử, phải hòa nhịp với cuộc cách mạng của cả dân tộc, phải nói lên tiếng nói của cộng đồng. Sự thức tỉnh ý thức chính trị ấy đã nâng họ lớn lên, phát hiện ra họ đang gánh trên vai cả cuộc kháng chiến vĩ đại, nhận ra sứ mệnh và đồng thời cũng khám phá được sức mạnh lớn lao của giai cấp mình, thế hệ mình. Số phận và con đường đi của quần chúng hoàn toàn thống nhất với vận mệnh và con đường đi của toàn dân tộc, giai cấp. Thể hiện hình ảnh con người quần chúng, văn học giai đoạn này chủ yếu nói lên những tình cảm chung trong đời sống cộng đồng: tình đồng chí, đồng bào, lòng yêu nước, căm thù giặc,… Cảm hứng ngợi ca, tự hào là giai điệu xuyên suốt các tác phẩm giai đoạn này.

– Con người kháng chiến được miêu tả chủ yếu trong các sự kiện, biến cố của cộng đồng, tham gia vào diễn biến dồn dập của lịch sử. Họ hiện lên là những con người của hành động, của ý chí. Đời sống nội tâm mặc dù có được chú ý nhưng không có nhiều mâu thuẫn phức tạp mà thường đơn giản, trong sáng, dứt khoát. Con đường họ đi thẳng hướng đến tương lai với niềm lạc quan, tin tưởng và rất ít khi nhớ về quá khứ bởi đối với họ quá khứ chỉ là khổ đau, bất hạnh.

– Một nguyên tắc miêu tả con người quần chúng của văn học giai đoạn này đó là xây dựng những hình tượng đám đông, tập thể. Con người ít được chú ý với tư cách cá nhân mà được đặt trong tập thể anh hùng bởi họ đã ý thức được sức mạnh vĩ đại của sự đoàn kết cộng đồng. Trong thơ ca, đó là tập thể những người lính Tây Tiến Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, là hình ảnh của những đoàn quân điệp điệp trùng trùng ra trận, những đoàn dân công với bước chân mạnh mẽ làm rung chuyển đất trời, đó còn là những người anh hùng áo vải rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước, Nguyễn Đình Thi). Trong văn xuôi, hình ảnh của đám đông quần chúng được xuất hiện ở nhiều tác phẩm như đại đội Trần Phú trong Xung kích của Nguyễn Đình Thi, trung đội dân công Tiến Mạnh trong Bước đường 12, đám đông công nhân trong Vùng mỏ của Võ Huy Tâm,…

* Chặng đường văn học từ 1955-1964

  • Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

Văn học giai đoạn 1955 – 1964 được phát triển với sự tác động mạnh mẽ của hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc với chiến dịch Điện Biên Phủ – một mốc son chói lọi trong chiến công của dân tộc đã thổi vào văn học hơi thở của niềm tự hào lớn lao, niềm vui hòa bình, độc lập. Tiếp sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam đã mở ra những nguồn đề tài và cảm hứng mới cho các nhà thơ, nhà văn. Quan niệm về con người trong hoàn cảnh này cũng có ít nhiều thay đổi chi phối việc xây dựng nhân vật và nghệ thuật biểu hiện của văn học.

  • Quan niệm nghệ thuật về con người

Giai đoạn văn học 1955 – 1964 là bước phát triển tiếp theo của văn học chống Pháp. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội có nhiều thay đổi không có nghĩa sẽ làm thay đổi hoàn toàn quan niệm về con người. Quan niệm này có sự phát triển trên cơ sở của sự kế thừa giai đoạn văn học trước đó. Sự kế thừa được thể hiện ở chỗ, các tác giả vẫn tiếp tục xây dựng hình tượng con người quần chúng. Tuy nhiên trong văn học 1945 – 1954, con người chủ yếu được khám phá trên phương diện con người công dân, con người chính trị, hoàn toàn không có chỗ cho con người cá nhân. Giờ đây, vẫn là con người công dân, con người chính trị đó nhưng con người cá nhân đã xuất hiện trở lại. Đó là điều tất yếu được lí giải từ đời sống xã hội. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vấn đề được đặt lên hàng đầu là dân tộc, là Tổ quốc, cho nên cái tôi không được thể hiện mà hòa tan trong tập thể. Nhưng khi đất nước đã bước sang thời kì hòa bình, nhiều vấn đề của đời sống đặt ra, con người cá nhân cũng theo đó mà trở lại. Tuy nhiên chúng ta không thấy sự đối lập giữa cá nhân và tập thể mà là sự hòa hợp giữa cái tôi riêng và cái ta cộng đồng, là con đường đấu tranh để từ bỏ cái cá nhân nhỏ hẹp, đi ra và hòa vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Sự thống nhất riêng – chung chính là đặc điểm quan trọng nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người trong giai đoạn văn học này.

Trong thơ, Xuân Diệu chính là thi sĩ đầu tiên cần phải nhắc tới khi ông đã có hẳn một tập thơ nói về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Riêng chung thể hiện những tình cảm thiết tha gắn bó, biết ơn cách mạng, biết ơn cuộc đời đã xóa đi những vết thương tâm hồn trong quá khứ, đã đưa ông trở về với nhân dân Xưa lệ sa ta oán hận đất trời mà nay Giọt nước mắt ta chan chứa tình người. Cái tôi cá nhân đã trở lại đặc biệt với những đề tài viết về tình yêu, hạnh phúc, vốn là thứ tình cảm riêng tư nhất của con người, là sự tự ý thức về nhu cầu, khát vọng của bản thân. Khi con người quay trở về với cuộc sống đời thường, những tình cảm cá nhân ấy lại có cơ hội trỗi dậy, trở thành nguồn cảm hứng của các nhà thơ. Xuân Diệu vẫn tiếp nối tiếng thơ tình yêu và tuổi trẻ từ trước cách mạng với Riêng chung (1960) và nhiều tập thơ sau này nữa. Xuân Quỳnh lại đem đến những cung bậc tình yêu đầy nữ tính nhưng cũng thật táo bạo, nồng nàn với những Chồi biếc, hay Thuyền và biển,… Cái riêng ấy không mâu thuẫn, đối lập với cái chung mà đã tìm được sự giao hòa, đồng điệu cùng tập thể. Ta không còn thấy cô đơn, lạnh nhạt, hờ hững như trong Thơ mới, mà là thấu hiểu, yêu thương và chia sẻ: Hôm nay em đến chơi/Ta đón nhau từ cửa/Miệng chưa nói ra lời/Đã hiểu nhau một nửa (Em đến chơi). Anh yêu em như yêu đất nước (Nguyễn Đình Thi) nên xa em càng nhớ thương em, xa nước càng thêm yêu đất nước là những lời bộc bạch thật chân thành của Tế Hanh. Tình yêu riêng tư đã lớn lên trong tình yêu đất nước. Và trong tình yêu nước, tình yêu đôi lứa mới thật sự toàn vẹn, đủ đầy, hạnh phúc. Điều đó lí giải vì sao ngay từ ngày đầu đến với cách mạng, Tố Hữu đã cảm nhận sâu sắc sự ràng buộc giữa cá nhân và mọi người: Tôi buộc lòng tôi với mọi người/Để tình trang trải với trăm nơi/Để hồn tôi với bao hồn khổ/Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời (Từ ấy). Bởi chỉ có hòa mình vào khối đời chung ấy, ta mới lớn hơn, mạnh hơn, mới làm chủ được chính bản thân mình. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện rõ nét trong tập Gió lộng (1961). Tố Hữu nhìn nhận vấn đề riêng – chung như là một lẽ sống của người cách mạng, là quy luật tất yếu của sự sống: Một ngôi sao chẳng sáng đêm/Một thân lúa chín chẳng nên mùa màng/Một nười – đâu phải nhân gian?/Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi! (Tiếng ru). Ánh sáng của một ngôi sao chẳng đáng kể để làm bầu trời lấp lánh, một bông lúa không thể làm nên mùa màng, một con người chẳng thể nào thay thế được thế gian. Những cá nhân ấy chỉ có ý nghĩa khi hòa vào cộng đồng rộng lớn mà thôi. Nghĩa tình cách mạng hay những niềm vui do cuộc sống mới đem lại đều được thể hiện cảm động trong sự thống nhất riêng chung: Con đã về đây ơi mẹ Tơm/ Hỡi người mẹ khổ để dành cơm/Cho con cho đảng ngày xưa ấy/Không sợ tù gông chấp súng gươm (Mẹ Tơm). Tình cảm của người con với mẹ Tơm vừa là riêng tư của bản thân tác giả vừa là tình cảm của những đứa con cách mạng hướng về người mẹ Việt Nam với trái tim vĩ đại Buồng mẹ buồng tim giấu chúng con. Khi nước nhà độc lập, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Tố Hữu say xưa viết về cuộc sống mới, con người mới với niềm tự hào sâu sắc: Đi ta đi! Khai phá rừng hoang/Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng/Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?/ Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy/ Hỏi đâu thác nhảy cho điện quay chiều? Hỡi những chàng trai, những cô gái yêu/ Trên những đèo mây những tầng núi đá/ Hai bàn tay ta làm nên tất cả/Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai/ Khói những nhà máy mới ban mai (Bài ca mùa xuân 1961).

Quan niệm nghệ thuật về con người với sự thống nhất riêng – chung có ý nghĩa quan trọng đối với các tác giả trong việc lựa chọn cách thể hiện như xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm, ngôn ngữ,… trong những tác phẩm truyện, kí. Các nhân vật có tính điển hình, vừa mang những nét chung tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của quần chúng nhân dân lại vừa mang được những nét riêng về diện mạo, tính cách, về con đường đi của mỗi cá nhân trước những biến cố lịch sử của xã hội. Anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên, chị Tư Hậu trong Một chuyện chép ở bệnh viện,… là những nhân vật như thế.

Xã hội mới đã đem đến nhiều cơ hội làm thay đổi cuộc đời của con người, góp phần khẳng định sự thống nhất riêng – chung trong văn học. Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ, Sông Đà của Nguyễn Tuân, Riêng chung của Xuân Diệu hay Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên,… đều cho thấy sự biến đổi về số phận và tính cách của nhân vật theo hướng ngày càng trở nên tốt đẹp khi sống trong môi trường tập thể. Đào là nhân vật chính của Mùa lạc từ một số phận có nhiều bất hạnh (cuộc sống không gia đình, không người thân, cô đơn, nay đây mai đó khi đã luống tuổi) đến một cuộc đời hạnh phúc, có ý nghĩa (có gia đình, có bạn bè, có tương lai, có những ước mơ trong cuộc sống). Đào lên nông trường với tâm lí con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã chịu nhưng ở nơi đây, Đào đã xóa đi mặc cảm tự ti để hăng say lao động, tìm được niềm vui, hạnh phúc trong sự gắn bó, chan hòa, trong tình yêu thương với mọi người. Cũng trong mạch cảm hứng về sự hồi sinh ấy, Chế Lan Viên lại nói về sự đổi đời của chính bản thân mình qua tập Ánh sáng và phù sa : ánh sáng dọi soi tôi và phù sa bồi đắp tôi, ánh sáng tinh thần và phù sa vật chất của lý tưởng tôi. Nếu như trước đây ông luôn băn khoăn với câu hỏi Ta là ai? thì nay câu hỏi mà nhà thơ muốn trả lời là Ta vì ai? Tìm được đáp án, Chế Lan Viên đã thắp lại triệu chồi xanh, phá cô đơn hòa hợp với người.

Không phải ngay từ đầu người ta đã tìm thấy sự thống nhất mà đó là cả một quá trình đấu tranh để tự vượt lên. Nếu như không thể hiện nhân vật với những dằn vặt như vậy thì rất dễ tạo nên cái nhìn hời hợt, dễ dãi, không phản ánh đúng hiện thực đời sống. Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên đã diễn tả sâu sắc sự phấn đấu trong tâm tưởng, trong tâm hồn của nhà thơ để từ bỏ quá khứ với những lầm lạc, cô đơn của mình, hướng tới hòa nhập với nhân dân: Suốt một đời ăn gạo của nhân dân/Lần thứ nhất nhà văn đi học cấy/Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy/Chửa vì đời bằng một bữa cơm ăn (Đi thực tế). Quá khứ là ngọn gió siêu hình, là câu hỏi hư vô, là câu thơ nước chảy đã khiến nhà thơ khi nghĩ lại không khỏi nuối tiếc, day dứt, ân hận: Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn (Người đi tìm hình của nước). Cuối cùng nhà thơ đã vượt thoát ra khỏi nỗi buồn đau, bế tắc, không còn phải mải miết chạy theo cái mông lung, ám ảnh của một cánh chim thu lạc cuối ngàn như trước cách mạng nữa. Giờ đây Chế Lan Viên đã tìm lại được niềm tin và sức mạnh, tìm thấy chính bản thân mình trong cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Thực ra quá trình đấu tranh ấy cũng là quá trình giải quyết mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung mà Chế Lan Viên gọi là đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người, từ phù du đến phù sa.

Sự thống nhất riêng – chung thể hiện trong quan niệm con người văn học giai đoạn 1955– 1964 đã chi phối nhiều phương diện trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn, nhất là xây dựng nhân vật trong truyện kí và cái tôi trữ tình trong thơ. Một số tác giả đã khá thành công trong việc thể hiện sự đổi thay số phận, cuộc đời của con người theo hướng ngày càng tốt đẹp hơn, bộc lộ được những tình cảm sâu nặng của cá nhân với quê hương, đất nước, với đồng bào miền Nam ruột thịt. Tuy nhiên bên cạnh những thành công ấy cũng cần phải nhìn nhận một số hạn chế do quan niệm nghệ thuật con người giai đoạn này mang lại. Có những nhân vật được xây dựng quá công thức, khuôn sáo mang tính chất minh họa, đời sống nội tâm, cá tính không được chú ý làm nổi bật,… Phương diện đời tư, thế sự ít được khai thác mà chủ yếu là để thể hiện cái chung, cái cộng đồng.

* Chặng đường văn học từ 1964-1975

  • Hoàn cảnh lịch sử, xã hội

Cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra trên cả nước, kéo dài suốt mười năm với nhiều hi sinh mất mát nhưng cuối cùng đã giành được thắng lợi trọn vẹn. Thơ văn chặng đường này cũng tham gia tích cực vào những sự kiện lớn lao đó, phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại của quân và dân ta. Quan niệm nghệ thuật về con người một lần nữa có sự chuyển biến để phù hợp với tình hình lịch sử, xã hội mới và phục vụ cách mạng

  • Quan niệm nghệ thuật về con người

Nếu giai đoạn 1955 – 1964 đánh dấu sự trở lại của con người cá nhân được khai thác trong sự thống nhất với lí tưởng chung của tập thể thì giai đoạn này với sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, con người cá nhân đã nhường chỗ cho con người của cộng đồng, dân tộc. Vẫn tiếp tục kế thừa quan niệm đã có trong những năm trước đó nhưng quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1964 – 1975 đã có sự phát triển mới, được đẩy lên mức độ cao nhất, lí tưởng nhất, đó là con người sử thi. Thực ra ở giai đoạn trước đó trong thơ, cái tôi sử thi cũng đã xuất hiện nhưng đến chặng đường này mới đạt tới đỉnh cao. Con người sử thi thường được thể hiện ở thang giá trị cao nhất, đẹp nhất, hoàn hảo nhất. Tâm trạng của tác giả khi thể hiện những nhân vật sử thi hay cái tôi trữ tình mang tính sử thi là sự sùng bái và ngưỡng mộ. Lời nói của sử thi là lời của nhân dân, lời của cộng đồng… Văn học sử thi hướng tới cái chung, cái cao cả, sự kiện lịch sử, số phận toàn dân, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nó thường phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Vì thế, sử thi không phải là những số phận cá nhân mà là tiếng nói của cộng đồng, của dân tộc trước thử thách quyết liệt. Nhân vật trung tâm không đại diện cho con người cá nhân, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, thời đại với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Con người sống chủ yếu với hiện tại và tương lai.

Phẩm chất cao đẹp của con người sử thi được thể hiện trước hết ở lí tưởng cao cả về độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc (Nguyễn Văn Long). Trong thơ, Tố Hữu đã dặt dân tộc ta vào vị trí của “người lính đi đầu” trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, hướng tới lí tưởng xã hội chủ nghĩa: Nếu được làm hạt giống để mùa sau/Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/Vui gì hơn là người lính đi đầu/Trong đếm tối, tim ta làm ngọn lửa! (Chào xuân 67). Tầm vóc của con người, của dân tộc được tôn vinh với tất cả niềm tự hào, kiêu hãnh. Cùng với lí tưởng cao đẹp, cái tôi Tố Hữu ý thức rất sâu sắc về lịch sử và truyền thống dân tộc tạo nên âm hưởng sử thi trang nghiêm, hào hùng trong những trang thơ. Những hình tượng Mị Châu, Sơn Tinh, Thạch Sanh, Phù Đổng,… xuất hiện trong thơ ông không chỉ tô đậm ý thức về lịch sử truyền thống của dân tộc mà còn tạo sự kết nối với hiện tại và tương lai. Trong cái nhìn của Tố Hữu, lịch sử chính là dòng chảy liên tục và ở mỗi đoạn đều in dấu những chiến công vĩ đại, thể hiện sức mạnh to lớn và phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta. Khi nhận thức về Tổ quốc, về lịch sử dân tộc, con người sử thi bao giờ cũng đứng trên trục không gian và thời gian với tầm vĩ mô để phát hiện và chiêm nghiệm. Tố Hữu đối diện với cả hai mươi thế kỉ; nhìn Nam, Bắc, Tây, Đông (Chào xuân 67), Chế Lan Viên thấy Tên Tổ quốc vang xa ngoài bờ cõi; đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng (Thời sự hè 72, bình luận). Đất Nước hiện lên thật bao la tráng lệ trong chiều rộng không gian địa lí Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điểm), Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể/Một rặng núi Kì Sơn còn lắm lúc mưa nguồn (Chế Lan Viên). Bên cạnh đó, hình ảnh đất nước còn được khám phá trong chiều dài thời gian lịch sử và bề sâu văn hóa. Một mạch nguồn văn hóa dân gian âm thầm chảy trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã làm nên một góc nhìn rất riêng Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi/Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể/Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn/Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc/Tóc mẹ thì búi sau đầu/Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn,… (Đất Nước). Trong cảm nhận của nhà thơ, Đất Nước hiện lên thật bình dị, trong miếng trầu giao duyên nên nghĩa nên tình, trong búi tóc của mẹ, trong kho tàng truyện cổ tích, ca dao bà thường hay kể,…nhưng cũng thật lớn lao khi khơi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc rất đáng tự hào. Chế Lan Viên lại chiêm nghiệm Đất Nước từ những trang sử hào hùng suốt bốn ngàn năm của dân tộc: Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm/Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng/Chưa đâu và trong cả những ngày đẹp nhất/Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn/Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc/Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng). Câu hỏi Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? không chỉ là câu hỏi hướng về quá khứ mà còn là câu hỏi của hiện tại và tương lai. Như vậy Đất Nước không chỉ được nhìn nhận trong quá khứ, mà còn được nhìn nhận trong mối tương quan với thời đại, với nhân loại để khẳng định sứ mệnh lịch sử của dân tộc Việt Nam, vai trò, ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn là Vì ba ngàn triệu trên đời.

Lí tưởng cao đẹp, nhận thức sâu sắc sẽ thúc đẩy ý chí và hành động của con người sử thi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, bảo vệ Tổ quốc. Bởi vì họ thấu hiểu trách nhiệm và sứ mệnh của mình: Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai (Bằng Việt). Những nhân vật trong văn học thời kì chống Mĩ đều là những con người sử thi tiêu biểu cho khát vọng, cho ý chí chiến đấu và quyết thắng của cả dân tộc, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đặt nhân vật vào trong những tình huống thử thách ngặt nghèo, giữa ranh giới của sự sống và cái chết là một cách bộc lộ rõ nhất ý chí cách mạng của con người. Khi bị trọng thương, bị lạc đồng đội, chỉ còn một mình trong rừng, hai mắt không còn nhìn thấy, chân không đi nổi, toàn thân đau điếng và nhỏ máu, Việt (Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi) vẫn không hề sợ hãi. Nghe tiếng súng giặc vây bốn bề, cậu vẫn nghĩ: Tao sẽ chờ mày. Trên trời có mày, dưới đất có mày. Cả khu rừng này chỉ có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Đối với Việt, chúng chỉ là những kẻ tàn bạo nhưng hèn nhát: mày chỉ giỏi giết gia đình tao nhưng đối với tao mày chỉ là thằng chạy… Tư thế của Việt vẫn là tư thế sẵn sàng chiến đấu, vẫn nguyên vị trí này,… Bị giặc đốt mười đầu ngón tay bằng dẻ tẩm nhựa xà nu, Tnú không cảm thấy lửa cháy ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh đau đớn đến cùng cực, và càng đau đớn hơn, khi kẻ thù đã dùng chính lửa xà nu vốn rất gắn bó với dân làng để đốt cháy bàn tay anh. Nhưng Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: người cộng sản không thèm kêu van. Tnú vẫn nhớ lời dặn của anh Quyết và anh đã ứng xử như một người anh hùng trung dũng, bất khuất. Tội ác của kẻ thù và phẩm chất kiên cường của Tnú đã thổi bùng lên sự phẫn uất và ý chí chiến đấu của dân làng Xô Man. Kết quả bão táp nổi lên và kẻ thù phải đền tội.  Hành trình lên đường chiến đấu của những con người ấy là minh chứng cho chân lí cách mạng trong lời cụ Mết: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo (Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành), trong  câu nói nổi tiếng của Chị Út Tịch: Còn cái lai quần cũng đánh (Người mẹ cầm súng, Nguyễn Thi),… bởi họ hiểu rằng Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả (Anh Trỗi trong Sống như Anh).

Vẻ đẹp trong đời sống tư tưởng, tình cảm đã làm nên sự toàn vẹn của con người sử thi trong thời kì chống Mỹ. Tình yêu thương, lòng vị tha, đức hi sinh,…khiến cho khoảng cách sử thi được được kéo gần lại, hình tượng người anh hùng trở nên gần gũi, bình dị hơn và cũng có sức sống hơn. Người đọc thấy sự gan góc, dũng cảm phi thường của chị Út Tịch nhưng cũng thấy được sự thủy chung tình nghĩa của người vợ với chồng, tình thương sâu sắc của một người mẹ đối với con. Tnú mưu trí, mạnh mẽ, quyết liệt trước kẻ thù và cũng giàu tình yêu thương buôn làng, rừng núi, yêu gia đình. Khi xa nhà, anh nhớ da diết tiếng chày giã gạo vang lên mỗi buổi chiều. Nó gắn liền với hình ảnh của những người phụ nữ Strá dịu dàng, tần tảo như mẹ anh, như Mai, như Dít. Nó mang theo cả nhịp sống bình yên, đầm ấm của quê nhà. Nỗi xúc động đã khiến chân anh vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ ngã quẹo vào làng. Tnú nhớ từng khuôn mặt người làng Xô Man từ những cụ già đến những đứa trẻ lau nhau, mặt mày lem luốc khói xà nu. Đặc biệt là cụ Mết vẫn quắc thước như xưa, mắt vẫn sáng, bàn tay nặng trịch, giọng nói ồ ồ dội vang lồng ngực, ngực căng như một cây xà nu lớn… Và còn cả Dít nữa. Anh thấy trong Dít hình ảnh của Mai với đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt… Nhớ lại quá khứ đau thương, nhìn cảnh vợ con bị tra tấn: Tnú nhảy xổ vào giữa bọn lính… Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Anh đã không thể nghe theo tiếng gọi của lí trí, không nghe theo lời khuyên của cụ Mết khi chứng kiến cảnh vợ con bị hành hạ. Dù biết rằng sẽ phải trả giá bằng tính mạng của mình, Tnú vẫn xông vào giữa vòng vây của bọn lính, dang đôi cánh tay vững chắc che chở cho mẹ con Mai.

Có thể nói, tính chất khái quát, điển hình là đặc điểm nổi bật của con người sử thi, mỗi con người đều là đại diện tiêu biểu, kết tinh cho những gì tốt đẹp nhất của giai cấp, cộng đồng, dân tộc, thể hiện trọn vẹn ý chí, sức mạnh, phẩm chất của cả một tập thể. Vì thế cảm hứng ngợi ca, tự hào, ngưỡng mộ là cảm hứng chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm thời kì này. Các nhân vật được xây dựng thường đạt đến mức lí tưởng hóa, vừa là một thành công khi thể hiện được sức mạnh và vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam nhưng không tránh khỏi sự ca ngợi một chiều, có tính phiến diện về cuộc sống và con người trong chiến tranh. Nhận ra được điều này, những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ, một số tác giả đã có xu hướng đi sâu vào hiện thực, không chỉ ngợi ca mà còn chú ý đến sự khắc nghiệt của chiến tranh, những hi sinh, mất mát, hiện thực có phần gai góc khiến cho yếu tố sử thi bắt đầu nhạt dần. Nhưng nói chung thành tựu nổi bật vẫn là hình tượng con người sử thi.

  1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay

2.1. Hoàn cảnh lịch sử và những chuyển biến về xã hội, văn hóa, tư tưởng

Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, bước vào thời kì hòa bình, xây dựng và phát triển. Những năm đầu, dư âm của cuộc kháng chiến vẫn còn trong cuộc sống và trong lòng người, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn vẫn được tiếp nối trong văn học. Bên cạnh đó, những điều kiện lịch sử mới cũng dần làm thay đổi cách nhìn nhận của con người.

Cuộc chiến tranh vừa trải qua một lần nữa được nhìn nhận và đánh giá toàn diện, không chỉ ở thắng lợi vĩ đại cùng ý nghĩa lớn lao đối với đất nước mà còn cả ở những hậu quả mà chiến tranh để lại. Đất nước bị chia cắt, nền kinh tế lạc hậu, thấp kém, các làng mạc, thành phố bị tàn phá, bao nhiêu người đã ngã xuống, những hi sinh, mất mát quá lớn về cả vật chất lẫn tinh thần,… Thêm vào đó là sự cấm vận, cô lập của các thể lực thù địch càng đẩy Việt Nam vào tình thể khó khăn. Sự khủng hoảng và tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã tác động không nhỏ đến tình hình trong nước. Trước hoàn cảnh ấy, yêu cầu phải có sự đổi mới để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khó khăn, khủng hoảng là điều cần thiết. Đại VI (1986) của Đảng đã đề ra chủ trương mở cửa, từng bước đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, văn hóa,…

Sự chuyển biến trên lĩnh vực kinh tế, chính trị sẽ dẫn đến sự chuyển biến trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong thời chiến, cuộc sống cá nhân, riêng tư của con người bị thu hẹp đến mức tối thiểu để nhường chỗ cho đời sống chung của cộng đồng. Con người được nhìn nhận chủ yếu với tư cách của con người dân tộc, con người chính trị, con người của giai cấp. Khi hòa bình lập lại, quay trở về cuộc sống muôn mặt đời thường, với những thật – giả, tốt- xấu, trắng – đen lẫn lộn, ý thức cá nhân đã thức tỉnh với những nhu cầu mới, quan niệm thẩm mĩ mới. Nhiều giá trị trước đây được coi là bền vững nhưng giờ đây đang lung lay, rạn nứt trong khi những giá trị mới lại đang trong quá trình hình thành. Trong tình hình ấy, đời sống văn hóa – tư tưởng cũng có diện mạo diễn biến khá phức tạp, thậm chí có khi rơi vào khủng hoảng ở một bộ phận nào đó. Có khi sự phê phán những hạn chế, bất cập một thời đã qua được đẩy lên thành phủ định sạch trơn, quay lưng lại với mọi giá trị truyền thống. Cũng có không ít người rơi vào tình thế lưỡng nan, trở thành kẻ bảo thủ, lạc hậu, không tìm thấy chỗ đứng trong xã hội mới. Một bộ phận trong giới trẻ chạy theo lối sống hưởng thụ vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần, nhân bản,…

Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa,… đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của văn học Việt Nam sau năm 1975. Hiện thực mới, nhu cầu thẩm mĩ mới đã khiến cho văn học cần phải thay đổi để theo kịp với thời đại, phản ánh được những vấn đề của cuộc sống . Nhu cầu đổi mới văn học đã được đặt ra một cách cấp thiết, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ nhà văn đến độc giả, từ nội dung đến hình thức, từ sáng tác đến tiếp nhận,… Không khí dân chủ trong đời sống văn hóa, văn học đã tác động rất lớn đến sáng tác của các nhà văn. Nhiều vấn đề trong quá khứ được xem xét và nhìn nhận lại một cách khách quan, trên nhiều bình diện hơn. Những vấn đề trước đây bị né tránh thì nay được đề cập đến và đánh giá sâu sắc,… Bên cạnh đó, quá trình hội nhập sâu rộng với quốc tế đã khiến cho văn học Việt Nam không còn khép mình như trước đây nữa mà đã từng bước giao lưu, mở rộng tiếp nhận ảnh hưởng của các nền văn học nước ngoài. Rất nhiều những trường phái, trào lưu, lí thuyết hiện đại của phương Tây như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, phân tâm học, chủ nghĩa hậu hiện đại,… được giới thiệu và được tiếp nhận ở Việt Nam,… cũng khiến cho ý thức của các nhà văn thay đổi, đòi hỏi phải tìm tòi để đổi mới đáp ứng được yêu cầu hội nhập của thế giới, đồng thời thị hiếu của người đọc cũng ngày càng được nâng cao hơn,…

Tất cả những điều kiện đó đã thúc đẩy sự đổi mới văn học một cách toàn diện trên tất cả các mặt trong đó quan trọng nhất là ý thức nghệ thuật của các nhà văn, mà hạt nhân chính là quan niệm nghệ thuật về con người.

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

  1. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người

Trong văn học Việt Nam trước 1975, con người hiện ra chủ yếu với tư cách là con người của dân tộc, cộng đồng, nói như Bakhtin, đó là con người luôn khoác bộ áo xã hội, luôn trùng khít với địa vị xã hội của mình, con người đơn giản, dễ hiểu, đẹp đến mức hoàn hảo, thánh thiện, còn như nhà nghiên cứu Niculin (Nga) thì đó là con người được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng. Nhưng văn học sau 1975 đã có sự chuyển đổi rõ rệt trong quan niệm về con người được thể hiện ở hai điểm sau:

– Điểm thứ nhất là sự chuyển biến từ quan niệm con người dân tộc, con người sử thi sang quan niệm về con người theo kiểu đời tư, thế sự. Các tác giả quan tâm và đào sâu hơn vào con người cá nhân – con người không trùng khít với chính mình, con người phức tạp, đa chiều, và đầy bí ẩn. Con người cá nhân trong Thơ mới khao khát được sống thật với chính mình, với mọi cảm xúc, rung động, trong tình yêu và khi bị đẩy đến mức cực đoan, nó trở thành con người cô đơn, hoài nghi với chính nó. Nhưng con người cá nhân trong văn học sau 1975 lại được đặt trong nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình. Dòng chảy đời thường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạo mới: phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá, chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là một “tiểu vũ trụ” không thể biết hết, không thể biết trước… (Nguyễn Văn Long (cb), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Tập 2, NXB Đại học sư phạm, 2007). Quan niệm con người phức tạp, đa chiều, con người được đặt trong nhiều mỗi quan hệ đời sống giống như một sự đối thoại với quá khứ (con người một chiều, con người đơn trị), đề cao những giá trị nhân bản. Nguyễn Minh Châu – người đã đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới nhận thấy trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ. Trong Bức tranh, người họa sĩ đã đặt mình trước tòa án lương tâm để phán xét, để đánh giá về chính bản thân. Hai tiếng nói cùng đấu tranh trong con người anh ta. Một mặt, anh ta biện hộ cho hành động thất hứa của mình và cho rằng Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc người nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải phục vụ một người!. Nhưng mặt khác, khi đối diện với một người lính đã phải chịu quá nhiều mất mát qua chiến tranh, người mẹ vì không biết được tin tức của anh khóc đến lòa cả hai mắt, anh ta lại thấy mình là một kẻ dối trá. Tiếng nói tự vấn cất lên khiến người họa sĩ cảm thấy day dứt, không yên Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên quên tôi đi hả?… Có quyền lừa dối hả?. Chân dung của người họa sĩ là sự khắc họa khuôn mặt bên trong của chính mình, cho thấy hứng thú khám phá con người bên trong con người của Nguyễn Minh Châu. Quan niệm con người đa chiều, con người của những nỗi niềm nguồn cơn còn được thể hiện trong một loạt những tác phẩm sau này của ông như Hạnh, Cơn giông, Sắm vai, Chiếc thuyền ngoài xa, Mùa trái cóc ở miền Nam,… Những mâu thuẫn, giằng xé về tâm lí đã được Nguyễn Minh Châu khai thác rất sâu sắc làm hiện lên nội tâm đầy phức tạp của con người. Cùng quan điểm với ông, nhà văn Nguyễn Khải đã từng thấy ngạc nhiên khi có người ăn no mà buồn, không phải lo nghĩ mà buồn (Anh hùng bĩ vận), hiền lành là thế, hồn nhiên là thế mà có ngày sẽ trở thành sát nhân ư (Đổi đời). Chế Lan Viên thì nhấn mạnh Anh là tháp Bay-on bốn mặt/Giấu đi ba, còn lại đấy là anh (Tháp Bay – on bốn mặt). Con người đa ngã, hiện diện nhiều chiều và ở đó cái Thiện vỗ vai cái ác/ Cả hai cùng cười đi về tương lai (Trần Nhuận Minh).

Nhưng con người không chỉ phức tạp mà còn rất bí ẩn, mỗi con người là một tiểu vũ trụ mà người ta không thể đoán trước được số phận, tính cách sẽ như thế nào, và thường có những hành động, những bước rẽ ngoặt bất ngờ. Đó là con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Vàng lửa, Con gái thủy thần, Chảy đi sông ơi, Kiếm sắc,… ). Nhà văn thấy ở đó hàng loạt những nghịch lí bất ngờ: ở hiền thì lại gặp bất trắc, đi tìm cái đẹp thì gặp cái xấu xa, bỉ ổi, đi tìm điều thiện thì gặp điều ác, những kẻ có trí thức thì giả dối, dâm ô,… Con người vừa là tự nhiên vừa là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội  khiến cho  nhân vật không giản đơn mà bí ẩn, khi hành động theo sự lí trí tỉnh táo nhưng cũng có khi lại đi theo tiếng nói của vô thức, từ sâu thẳm tâm linh. Điều này cũng được thể hiện rất rõ trong thơ sau 1975. Con người luôn khao khát đào sâu vào cái vũ trụ người, khám phá những vùng mờ của tâm linh, vô thức, có thể tìm thấy trong những tác phẩm của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng,…

– Điểm thứ hai là con người được mở rộng khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm, đời sống tự nhiên, bản năng, những khát vọng cao cả và những dục vọng tầm thường, con người cá nhân, con người xã hội, con người nhân loại,….

Sự chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật về con người có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi của văn học sau 1975 so với giai đoạn văn học trước đó. Dưới đây chúng tôi đi vào một số kiểu con người chủ yếu được thể hiện trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ thời kì này.

  1. Những kiểu con người chủ yếu

* Con người cá nhân đời thường

Văn học trước 1975 chủ yếu hướng vào phản ánh và ca ngợi hiện thực đấu tranh cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Nhưng giờ đây quan niệm hiện thực của các nhà văn đang thay đổi, mở ra nhiều góc nhìn mới. Đó là hiện thực đa chiều với các quan hệ thế sự đa doan, phực tạp làm nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Con người đặt trong hiện thực ấy không còn là con người lí tưởng, toàn vẹn như trong văn học cách mạng nữa mà là con người đời thường, con người phàm tục, con người không hoàn hảo, trộn lẫn cả những cái xấu và cái tốt, ma quỷ và thiên thần,… Những mặt trái, những cái được xem như là xấu xa, tầm thường được chú ý đã phá vỡ bầu không khí vô trùng của con người sử thi, bắt buộc con người phải lăn lộn, phải giằng xé trong những nghịch lí đời thường. Ta sẽ gặp trong tác phẩm những con người bị đồng tiền làm cho biến dạng, tha hóa, trở nên độc ác (Giọt máu, Nguyễn Huy Thiệp), con người nhạt nhẽo, đói khát, tham lam (Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Mẹ con chị Hằng của Nguyễn Minh Châu, con người cứng nhắc với những khuôn mẫu, những giáo điều (Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Mùa trái cóc ở miền Nam của Nguyễn Minh Châu), con người với những nỗi buồn vì cảm thấy khủng hoảng, mất niềm tin, vì bất an trước thời cuộc (trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ,… )

Thơ Việt Nam sau 1975 vẫn tiếp nối cảm hứng sử thi trong những năm đầu như một quán tính nghệ thuật với việc xuất hiện hàng loạt những trường ca tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc (Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh,… ). Tuy vẫn mang âm hưởng hào hùng, ngợi ca chiến thắng nhưng các nhà thơ đã nói nhiều hơn về sự hi sinh, về bi kịch, về nỗi đau của con người qua chiến tranh: Một mình một mâm cơm/Ngồi bên nào cũng lệch/Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh). Tính chất sử thi nhạt dần và con người đời thường, con người của những mối quan hệ thế sự, đời tư đang trở lại. Có những nỗi buồn trước kia giấu kín nay được công khai bày tỏ. Đó là khi phải đối mặt với cuộc sống mưu sinh không dễ dàng, con người chỉ nghĩ về sự tồn tại mà xa dần truyện, bớt dần thơ (Nguyễn Duy), là khi nhận thức về hiện thực với biết bao bi kịch khổ đau, quan hệ của con người thì càng ngày càng lỏng lẻo, xã hội đầy những khiếm khuyết, những vẫn đề nhức nhối, những bất trắc, bất an,… Đối mặt với nó, con người thấy khủng hoảng, hoang mang, bế tắc, niềm tin đổ vỡ Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi (Tản mạn thời tôi sống, Nguyễn Trọng Tạo). Nỗi đau xót dâng lên khi nhìn thấy đất nước trong hiện tại thật nhiều khổ đau và những cảnh ngộ bất hạnh lắm ăn mày, lắm thứ ma, lắm trẻ con thất học, tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt,…  (Nhìn từ xa… Tổ quốc, Nguyễn Duy). Nhưng quan trọng hơn, dù còn bế tắc, còn chưa trả lời được câu hỏi Người sống với nhau như thế nào?, con người vẫn luôn tìm kiếm, vượt lên hướng tới những giá trị chân – thiện – mĩ, vẫn thành thật bộc bạch những khát vọng về hòa bình, về tình yêu và hạnh phúc riêng tư.  Xuân Quỳnh có lẽ là hồn thơ nồng nàn nhất, da diết nhất trong những khát vọng hạnh phúc đời thường. Luôn khát khao tình yêu dù biết rằng tình yêu không phải là vĩnh viễn hôm nay yêu mai có thể xa rồi nên nỗi lo âu lúc nào cũng thường trực Lời yêu mỏng mảnh như màu khói/Ai biết tình anh có đổi thay (Hoa cỏ may). Nhưng dẫu thế nào, người phụ nữ ấy vẫn luôn muốn yêu, khao khát được yêu đến tận cùng như lời Tự hát của chị Em trở về đúng nghĩa trái tim em/Là máu thịt đời thường ai chẳng có/Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa/Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi. Khát yêu, khát hạnh phúc, khát yên bình,… là những nỗi niềm thật đời thường, bình dị giữa cuộc đời nhiều sóng gió, thăng trầm. Con người trong thơ Ý Nhi cứ mải miết đi tìm một nơi chốn yên bình Này hỡi Yên bình, ngươi ở đâu? nhưng đến giữa yên bình lại thấy bồn chồn, xao xác. Hạnh phúc và buồn đau cứ đan xen nhau làm cõi lòng không thể tĩnh lặng: Giữa chiều lạnh/một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ/vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã/nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt dời/vội vã như thể đó là lần sau chót/…/Trong mũi đan kia ẩn chứa niềm hân hoan hay nỗi lo âu/trong đôi mắt kia là chán trường hay hi vọng (Người đàn bà ngồi đan). Có thể nói trở về với đời thường, phơi trải nỗi niềm riêng tư cá nhân đã trở thành một xu hướng lớn của thơ ca sau 1975. Đó cũng là điều mà Chế Lan Viên trong những năm cuối đời đã từng nhắn nhủ Anh đừng là viên ngọc/Mà là viên sỏi, cục gạch lẫn lộn cùng cỏ rác/Cũng xoàng xĩnh, vô tư, nhếch nhác/Hiểu cho hết cái đau của cuộc đời (Chuẩn bị đi).

Trong văn xuôi, những chuẩn mực, công thức của con người sử thi trước đó đã không còn nữa. Người ta chấp nhận con người cá nhân thường tình với những mặt thật – giả, trắng – đen lẫn lộn, những góc khuất tối, những nghịch lí không thể lí giải, cả sự tẻ nhạt, khiếm khuyết, không hoàn thiện. Với tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu đã đặt người lính vào cuộc chiến và cả trong đời thường, khi còn chiến tranh và hậu chiến tranh để thấy được những phần rất con người ở họ. Trong chiến đấu, Hòa là một trung đoàn trưởng anh hùng một thanh niên mới hăm chín tuổi nhưng đã được giao phó nắm sinh mệnh hàng ngàn chiến sĩ, một người dũng cảm, đứng đắn, có tài năng, đẹp trai, lập được những chiến công vang dội. Nhưng Nguyễn Minh Châu cũng để cho Quỳ – người yêu của anh nhìn thấy ở anh những điều rất con người cũng mừng rỡ hí hửng khi được thăng cấp, cũng ăn, ngủ, đi lại, cũng chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy, cũng yêu người này, nói xấu người kia sau lưng, đôi bàn tay anh có mồ hôi tay, hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính. Rõ ràng so với mẫu hình người yêu lí tưởng của cô, anh không phải là thánh nhân, anh cũng có những phần tốt, xấu như bao người khác. Quỳ vỡ mộng nhưng nó cũng khiến cô đau đớn, thức tỉnh, ân hận và nhận ra Em sẽ không đòi hỏi ở anh một con người tuyệt đối hoàn mĩ… Anh hãy sống tự nhiên. Góc độ đời thường đã làm cho người lính trở nên gần gũi biết bao. Trở về sau chiến tranh họ cũng là những số phận, những con người bi kịch, những nạn nhân của chiến tranh, những vết thương rớm máu, những vết thương không lành, những nỗi cô đơn không thể lấp đầy. Đó là Lực trong Cỏ lau và Thai – người vợ của anh. Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu cũng hướng ngòi bút vào những con người trong cuộc sống thời bình – con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu viết về những con người như thế. Người nghệ sĩ Phùng sau bao ngày chờ đợi đã bất chợt bắt gặp được một cảnh đắt trời cho, Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng; Vài bóng người lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc; Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp lung linh, huyền ảo ấy lại là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn, dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo. Người vợ nhẫn nhục, cam chịu, không hề nói lại một lời, cũng không hề có ý chống cự, không tìm cách chạy trốn những trận đòn của chồng. Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của cha, ngã dúi xuống cát. Con người hiện lên là những nạn nhân của đói nghèo, tăm tối, thất học và cái nhìn đầy âu lo của nhà văn. Nhưng không phải chỉ có thế, Nguyễn Minh Châu còn muốn người đọc nhận ra được con người ở đây tồn tại đầy những nghịch lí không thể lí giải nổi, cái nghịch kiểu như trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo. Thông điệp mà ông đưa tới là không nên nhìn con người chỉ ở cái bề ngoài, mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Người đàn ông vừa đáng lên án vì sự độc ác, tàn nhẫn, ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để giải tỏa những bực dọc trong lòng. Nhưng ở một góc độ khác, anh ta cũng là một kẻ đáng thương, tội nghiệp, có thể cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt, phải gồng mình để chèo chống con thuyền, để nuôi đặng một sắp con. Người đàn bà xấu xí, thô kệch tưởng như ít học, mông muội nhưng lại là một người mẹ giàu tình thương con, giàu đức hi sinh, biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường, biết cảm thông và thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Chấp nhận gánh chịu những trận đòn không chỉ bởi chị cần người đàn ông ấy trên thuyền để lo cho những đứa con mà bởi chị thấu hiểu và chia sẻ cùng chồng mình gánh nặng mưu sinh, bởi hiểu rằng ấy là cách để giải tỏa những ấm ức trong cuộc sống. Quan niệm về con người đời thường, con người đa chiều, trong nhiều mối quan hệ là một cách nhìn mới của nhà văn Nguyễn Mình Châu sau 1975.

            Tiếp nối Nguyễn Minh Châu, hàng loạt các tác giả khác như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Đoàn Minh Phượng,… đã thực sự đưa con người ra khỏi quỹ đạo lí tưởng hóa, linh thiêng hóa để dấn thân vào cuộc đời bộn bề, phức tạp. Con người càng hiện lên phàm tục hơn, nhiều góc cạnh xù xì hơn. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn thấy những con người bị tha hóa về nhân cách, trở nên tàn nhẫn, độc ác. Họ lấy đồng tiền làm thước đo giá trị cho mọi quan hệ, kể cả tình thân. Trong Không có vua, người đọc sẽ sửng sốt, bất ngờ trước một gia đình hỗn loạn, cha không ra cha, con cũng chẳng ra con, tình thân nhạt nhẽo như nước lã,… Lão Kiền – bố chồng bắc ghế lén xem con dâu tắm, và hoàn toàn dửng dưng trước mâu thuẫn của các con Chúng mày giết nhau đi, ông càng mừng, Đoài – em chồng chòng ghẹo, đòi ngủ với chị dâu rồi ghen vả với bố, cái cách mà họ biểu quyết cho cái chết của người bố cũng thật lạnh lùng Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé. Mọi chuẩn mực đạo lí dường như hoàn toàn bị triệt tiêu khiến cho người đọc không khỏi xa xót. Nguyễn Huy Thiệp không ngần ngại vạch trần những cái xấu xa, thấp hèn, những cái tầm thường, dung tục trong con người. Sự thực dụng của Thủy trong Tướng về hưu khiến cho ông Thuấn nhìn thấy phải khiếp sợ Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn… Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc… Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết

            Có thể nói quan niệm con người cá nhân đời thường đã khiến cho văn học sau 1975 thoát ra khỏi lối mòn quen thuộc, đem đến cách nhìn đa chiều về hiện thực, thức tỉnh ý thức cá nhân trong nhiều mối quan hệ đời sống.

* Con người trong chiều sâu nhận thức

Trong văn học sau 1975, con người thường có nhu cầu tự vấn, suy ngẫm về bản thể, khao khát đi tìm nhân cách trong đời sống tinh thần, lí giải ý nghĩa cuộc sống. Đặc biệt là từ sau năm 1986 với đường lối đổi mới của Đảng tạo ra không khí dân chủ, kích thích tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Thêm vào đó là việc giao lưu, hội nhập với văn hóa thế giới đã khiến cho ý thức tự vấn, phản tỉnh, cảnh tỉnh bản thân càng mạnh mẽ hơn. Đồng thời với sự tự vấn là khát vọng kiếm tìm cái tôi, mở rộng nhận thức đối với thế giới xung quanh.

Sự tự vấn, sự suy ngẫm, phán xét những hành động để cảnh tỉnh bản thân là một đặc điểm của kiểu con người này. Theo Nguyễn Minh Châu, sáng tác văn học thực ra là sự săn đuổi nhân cách của chính mình. Đi tìm nhân cách, hướng con người đến những điều tốt đẹp, hoàn thiện đã khiến cho nhân vật của ông thường hay nhìn nhận lại để day dứt trước tội lỗi trong quá khứ. Đó là quá trình tự nhận thức của người họa sĩ trong Bức tranh khi đối diện với người thợ cắt tóc trong hiện tại, tòa án lương tâm đã tự lên tiếng, phán xét anh ta: Tại sao ngày ấy tôi không đưa tấm ảnh đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa?. Để rồi qua sự tự vấn ấy, người họa sĩ đã thừa nhận những phần khuất tối trong con người mình, để đấu tranh hướng tới hoàn thiện bản thân. Một loạt các tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu cùng nằm trong xu hướng tự vấn này: Cỏ lau với lời tự thú của Lực, Bến quê và sự phản tỉnh của Nhĩ. Khi đi gần hết cuộc đời, Nhĩ mới nhận ra: anh ta đã phiêu lãng, viển vông ở những vùng đất xa xôi rồi quên mất cái bến quê gần gụi ngay bên cạnh nhà mình, cho đến khi muốn trở về, đặt chân lên đó thì không bao giờ có thể làm được nữa. Thông điệp mà nhà văn đưa ra là hạnh phúc ở ngay bên cạnh, trong những điều giản dị đời thường, đừng bỏ qua điều bình thường chứa đựng hạnh phúc để rồi sau này nhìn lại ta sẽ thấy nuối tiếc, bất lực, không thể quay lại được.

Khác với con người hay dằn vặt, suy ngẫm về những lỗi lầm trong quá khứ, hay một quan niệm, một lối nghĩ với những khắc khoải nội tâm trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, con người ý thức trong văn của Nguyễn Khải là những con người đang trong quá trình vận động tư tưởng, kiếm tìm chân lí để hoàn thiện mình. Nguyễn Minh Châu thường để nhân vật độc thoại nội tâm để đấu tranh với chính mình còn Nguyễn Khải lại để nhân vật của mình trong ý thức đối thoại: đối thoại với người khác, đối thoại với bản thân. Nhân vật tôi trong Một người Hà Nội là một nhân vật như vậy. Luôn được đặt trong sự đối sánh với nhân vật bà Hiền, đối thoại về cách sống, cách nghĩ để nhận ra và tôn vinh những giá trị bền vững, vĩnh hằng của con người qua nhân vật bà Hiền – một người Hà Nội đích thực của quá khứ, hiện tại và tương lai.

Trong sự tự ý thức của con người trong văn học sau 75 không thể không nói đến sự nhận thức về cái tôi, khát vọng đi tìm kiếm cái tôi, tìm kiếm bản thể của chính mình. Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài là một tiểu thuyết đặc sắc của nhà văn viết về nỗi sợ hãi trước một thế giới không tình người. Cô bé Hoài – nhân vật chính của tác phẩm là một người kì lạ – luôn mang đầy những suy tư, mặc cảm và cô đơn. Sinh ra trong một gia đình mà tất cả mọi người đều khoác trên mình những bộ mặt vô cảm và giả dối, Hoài trở nên câm lặng. Cô quá chán ngán rồi vĩnh viễn dừng lại ở mười bốn tuổi để không bao giờ phải bước vào thế giới của người lớn, thế giới tàn bạo, đảo điên xung quanh mình. Khác với những nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp ít khi suy tư, hay nói đúng hơn không có đủ những khoảnh khắc cho riêng mình để suy tư, Phạm Thị Hoài lại thường xây dựng những nhân vật tự tách mình ra để quan sát và chiêm nghiệm cuộc sống. Có thể nói trong Thiên Sứ người đọc bắt gặp nhiều nhân vật cô đơn nhưng Hoài cô đơn hơn hết thảy. Những người khác có thể cô đơn nhưng lại không có ý thức rõ rệt về điều đó. Người yêu Hoài – một công dân mẫu mực, bí thư đoàn phường, luôn đúng giờ, luôn lịch sự lại chưa bao giờ nhận ra màu mắt Hoài biến ảo; mười ngón tay mỗi ngón một giọng thì thầm. Ngay từ bé Hoài đã phải chứng kiến những trận cãi vã của cha mẹ, biết rõ vị bát canh nhạt; vị nước mưa mặn mà chưa từng biết mùi vị cái hôn của mẹ. Gia đình của cô không được xây bằng tình yêu thương, sự âu yếm mà bằng những giả dối mang tên uy tín, danh dự. Hoài thấy người bố giống như một cỗ máy, cỗ máy của bố đơn điệu, hình như càng đơn điệu, càng khó lường. Tất cả những người trong gia đình Hoài đều là những cỗ máy tuột xích, không ai có thể hiểu nổi ai, mỗi người hướng đến một cuộc sống riêng Mỗi người một phong độ. Bố tôi thưởng thức bằng cách lo sao cho những tư tưởng từ cổ kim đông tây chen vai thích cánh trong tủ sách gia đình, rồi nhốt chặt chúng sau lần bìa cứng, một đám ma giấy không đến nỗi thiếu sang trọng. Mẹ khước từ văn hóa. Hạc xóa bỏ cảm tình dành cho tất cả những điều gì gợi hơi hướng văn hóa, cười khẩy trước cái uy tín danh dự gia đình cán bộ của bố. Hùng trung lập đối với văn hóa, tiêu biểu cho toàn bộ thái độ sống của anh ở mọi lĩnh vực. Cảm nhận của bé Hoài về gia đình hoàn toàn thiếu vắng sự sống, những cỗ máy đã được định vị từ trước, không bao giờ thay đổi, rệu rã và vô hồn. Họ theo đuổi những mục đích xa lạ với Hoài, đẩy cô bé đứng ngoài, không thể hòa nhập vào chu trình của những cỗ máy ấy.  Có thể nói, Hoài là một sự biến dạng, một sự hóa thân, là tập hợp của những cái bất bình thường, quái dị nhất. Hoài có những khát vọng lạc lõng (khát vọng cảm thông, gượng nhẹ, một lời êm dịu mỗi sớm mai, một ánh nhìn chia sẻ, một nụ cười khích lệ, một bàn tay mơn man da thịt…). Sự tách mình ra khỏi thế giới của gia đình, từ chối lớn lên, ôm giấc mộng bào thai vĩnh hằng chính là một sự phản tỉnh đối với xã hội lạnh lùng, vô cảm, là khao khát muốn bảo toàn cái tôi độc lập, tách ra khỏi bầy đàn. Con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,… và sau này là hàng loạt các tác giả khác như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư,… đều có khát vọng đi tìm chính mình như thế.

Sự tự vấn, tự thú, thức tỉnh cũng trở thành xu hướng của nhiều bài thơ thời kì này. Chế Lan Viên sau năm 75 nhiều suy tư, nhiều trăn trở hơn, và ông thường cất tiếng gọi hồn mình trong nỗi xót xa khi nhìn lại mình và thơ mình ở giai đoạn trước: Đã lâu rồi tôi không nghe hồn lau gọi nữa/Xa tiếng gió xạc xào/Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ… /Chỉ nghe danh vọng ầm ào/Vinh quang xí xố/Hoa Lư ở đâu?/Hoa Lau ở đâu?/Hồn lau ở đâu?/Hồn ta ở đâu? (Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh). Đò lèn của Nguyễn Duy là câu chuyện thấm đẫm tình bà cháu nhưng trọng tâm lại là sự tỉnh ngộ – một sự tỉnh ngộ muộn mằn, đầy xa xót: Khi tôi biết thương bà thì đã muộn/Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Bên cạnh tiếng thơ tự vấn là tiếng thơ khát khao đi tìm bản thể trong thế giới này. Trần Nhuận Minh tìm mình trong khắc khoải Hư ảo hỡi giữa vô cùng còn mất/Ta là ai? thăm thẳm có ta không?. Tôi gọi tên tôi (Đinh Thị Thu Vân), Tôi tìm đến tôi (Tạ Hữu Yên), Tôi đang đi tìm tôi (Nguyễn Ngọc),… Những con người đó dường như cũng đang trên hành trình đi tìm bản thân bằng cách tách mình ra để thấy được mình, nhìn mình một cách rõ nhất. Và trong dòng chảy của khát vọng tìm kiếm bản thân ấy, Vi Thùy Linh – nhà thơ trẻ của những năm 90 đã ý thức một cách đầy mạnh mẽ: Tôi là tôi/Một bản thể đầy mâu thuẫn/Ta đã nhìn mình trong gương cả khi khóc khi cười/Bất cứ lúc nào trên sân khấu cuộc đời/Tôi vẫn là diễn viên tồi/Bởi tôi không bao giờ hóa trang để nhập vai người khác (Tôi). `

* Con người tự nhiên (bản năng)

            Nếu như trong văn học trước 1975, con người tự nhiên bản năng ít được chú ý đến, nói cách khác là bị kìm nén để phục vụ cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Nhưng sau năm 1975, khi văn học trở về với quỹ đạo đời thường, những nhu cầu bản năng của con người cũng tự nhiên trở lại, bung phá, đòi hỏi cần phải được giải tỏa, được thỏa mãn.

Khi nói đến bản năng tự nhiên của con người không thể không nói đến yếu tố hàng đầu là bản năng tính dục. Đó là khao khát được sống thật với những rung cảm tự nhiên của bản thể, sự gắn bó về thể xác trong tình yêu. Đặc biệt là trong những năm gần đây, rất nhiều tác phẩm đề cập đến con người của bản năng tính dục. Thơ của Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Hưng, Dư Thị Hoàn, Đàm Thị Lam Luyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư,… nói trực tiếp đến những khát khao tình yêu trong đó có khát khao gắn bó về thể xác. Dư Thị Hoàn lên tiếng một cách mạnh mẽ, thể hiện sự bình đẳng, tự do trong tình yêu: Mọi chuyện rồi sẽ qua đi/Chúng mình sẽ thành vợ chồng/Nếu không có một lần/Một lần như đêm nay/Sau phút giây êm đềm trên ghế đá/Anh không cài lại khuy áo ngực cho em (Tan vỡ). Được mệnh danh là người đàn bà nổi loạn, Vi Thùy Linh thực sự đem đến hình ảnh của một người phụ nữ với cá tính, khát khao táo bạo đòi được sống thật với những nhu cầu rất tự nhiên của mình Hãy xiết em, cắn em hằn lên dấu vết/Hãy nhập vào em, hãy khóa và đánh mất chìa khóa/trong em…/Môi em trong em còn bầm/Chúng ta vẫn giấu hàm răng trong tiếng cười mang nỗi đau tuyệt dịu (Lá thư và ổ khóa). Trong văn xuôi, bản năng tính dục của con người cũng được đề cập đến trong tác phẩm của nhiều nhà văn như Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Trang Hạ,… Bốn mươi chín cây cơm nguội của Nguyễn Quang Lập kể chuyện người con gái đi qua chiến tranh, đã không còn cơ hội tạo dựng được hạnh phúc nhưng vẫn khát vọng được ái ân, trở thành nỗi ám ảnh, thôi thúc khiến cho chị lao vào cơn mă mịt mù giữa đêm khuya, đi như một kẻ mộng du rồi áp vào cây cơm nguội, tưởng tượng thấy đó là khuôn ngực đàn ông,… Ma Văn Kháng miêu tả chân thực những khát vọng trong trẻo, mãnh liệt được khơi dậy trong bản năng của Tự và Xuyến Bồn chồn giữa những hồi ức đang  hiện hình mờ mờ, tỏ tỏ, anh đặt tay lên eo chị, liền nghe tiếng bật mở  giòn giã, nôn nóng của hàng cúc bấm. Ngực chị trần tươi mởn, man mát mùi bẹ cau và ngồn ngộn, sống động hai bầu vú căng tròn. (…) Anh đến với chị không phải chỉ là bản năng. Đây là sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn. Sự hòa hợp phi thực. Y như cảm giác đê mê khi anh chạm vào cặp đùi âm ấm, đầy đặn và áp vào khuôn ngực mẩy mang và bát ngát như cánh đồng màu mỡ của chị (Đám cưới không có giấy giá thú). Một số tác phẩm sau này của các nhà văn trẻ lạm dụng yếu tố tính dục nhưng nhìn chung những trang viết về bản năng tự nhiên này đã thể hiện được khát vọng mạnh mẽ, giàu tính nhân văn, nhân bản của con người hiện đại, đem lại cho văn học sau 75 sự cách tân sâu sắc.

* Con người tâm linh

Sự trở về với cuộc sống đời thường cũng mở đường cho văn học khai thác sâu hơn vào thế giới bên trong con người, thế giới của cõi tâm linh, vô thức. Đó là những vùng chưa biết, những vùng ẩn sâu, làm nên tính bất ngờ với người đọc. Nó cho thấy thế giới bên trong là một thế giới đầy phức tạp, bí ẩn, khiến cho con người không còn đơn giản, sáng suốt với sự điều khiển của lí tính nữa, mà nhiều khi trở nên mơ hồ, lẫn lộn, không thể phân biệt. Giấc mơ và những nỗi ám ảnh là biểu hiện của thế giới vô thức, được thăng hoa từ những ẩn ức, ham muốn, nỗi u hoài, khát vọng,… bị dồn nén, thể hiện ra qua những hình ảnh mang tính biểu tượng. Giải mã những giấc mơ là cách đi sâu hơn vào những góc khuất trong tâm hồn con người mà văn học trước 75 chưa khai phá.

Trong thơ, nỗ lực đào sâu vào cái tôi cá nhân đã khiến các tác giả chạm đến cõi vô thức. Bài thơ ra đời thường là kết quả của những giấc mơ, cơn say, sự mê sảng trong những đêm khuya, lúc tờ mờ sáng. Con người thường xuất hiện giữa một không gian tâm linh, hư ảo, mang tính siêu thực. Đó là không gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm với những con người của huyền thoại, truyền thuyết: An Dương Vương, Thánh Gióng…, những người của kiếp trước, những người đã khuất bóng nhân gian, những hội hè, đình đám, những phong tục tập quán cổ truyền… gắn với những địa danh lịch sử như: Tre làng Cháy, khói Yên Thế, hoa gạo giải lối Sóc Sơn, đầm Mộ Dạ, trấn Kinh Bắc… Đọc thơ Hoàng Cầm, ta thấy lúc nào thi nhân cũng như đang khấn thầm để được trở về với Mẹ, trở về với không gian của một làng quê Kinh Bắc gắn bó thân thiết với tuổi thơ, với những hình ảnh quen thuộc: chùm tóc ngô nâu gác bếp, hạt đậu xanh già nắng, cung quăng đo thân cau vại nước lưng chừng, ong rưng rưng bay đứng nắng mai, hoa mướp rơi đầy cổng ngõ, tổ chích chòe cây mít… Nhưng những hình ảnh đó không bao giờ còn hiện hữu trong hiện thực, nó thuộc về một thế giới khác, thế giới của tuổi thơ, thế giới đã đi xa mãi… Con người thường hay hướng về quá khứ, đặc biệt là tuổi thơ khi đã đi qua nhiều giông bão trong cuộc đời. Hoàng Cầm cũng vậy. Nhưng thi nhân bao giờ cũng có những giấc mơ, những liên tưởng khác thường. Vì thế không gian tuổi thơ cũng đậm chất hư ảo, siêu thực. Điểm khác biệt ở chỗ đó không phải là sự cắt dán, đảo lộn, phi logic tạo nên một không gian chưa từng có. Đó là một thực tại khác – thực tại của thế giới tâm linh đậm màu Kinh Bắc. Nó chơi vơi, không xác định, vừa gần gũi lại vừa xa xăm, vừa trong trẻo vừa lung linh vời vợi. Hoàng Cầm nhớ nhất là những ngày mưa, những cơn mưa giăng mắc nhiều thương nhớ, sầu tủi, buồn đau: Nhớ mưa Thuận Thành/long lanh mắt ướt/ là mưa ái phi/tơ tằm óng chuốt/Ngón tay trắng nuột/nâng bồng Thiên Thai (Mưa Thuận Thành). Và còn đây trong cõi riêng của nhà thơ là những buổi chiều nhạt nắng, em thơ thẩn theo Chị trên đồng chiều cuống rạ. Không gian thực hòa lẫn với giấc mơ tình ái chất chứa bao khát khao, dồn nén thành những ẩn ức đầy ám ảnh. Nhiều khi qua ảo giác, trong trạng thái vô thức, ta bắt gặp cái bát ngát, không bến bờ của không gian muôn trời, tứ hướng, mười phương… Và Hoàng Cầm thường xuyên đi về trong vũ trụ cao rộng ấy với những thủy tinh cung, phương trăng rằm, sông Ngân Hà… Cái mê lộ mơ hồ được chính nhà thơ tạo ra và bến đỗ của nó là bến hư linh, cõi trường sinh, cõi ẩn hình, miền dĩ vãng, đường tiên cảnh, cõi im vô cực, cõi đau vô tận… Những bến đỗ siêu hình trong cõi hư vô càng làm cho con người thêm cô đơn. Nó là nơi tồn tại của những kiếp ảo sinh, kiếp hướng dương, kiếp hồn trăng… Ta cảm giác dù không gian được mở rộng không giới hạn, không chiều hướng nhưng không thể làm tan chảy những nỗi đau trong lòng người. Trái lại tâm hồn nhà thơ hướng về miền cao siêu, kì di, vô thường ấy là để trải nghiệm sâu sắc nỗi đau trần thế.

Ám ảnh về những giấc mơ còn xuất hiện trong rất nhiều những tác phẩm văn xuôi sau 75. Nguyễn Minh Châu đưa người đọc vào thế giới của giấc mơ người – bò trong Phiên chợ Giát. Cuộc hành trình từ nhà lên phố để bán con bò đã già cho người làm thịt ở chợ Cầu Giát, kéo dài từ lúc hai, ba giờ sáng đến khoảng bảy giờ nhưng lại tái hiện cả một cuộc đời với biết bao khổ đau, nhọc nhằn và cả những chuyện phi lí, mơ hồ của lão Khúng. Những nét nhòe đó được tạo bởi hai giấc mơ khủng khiếp, đầy nhức nhối, ngột ngạt với nhiều mảng tối xen lẫn với màu đỏ của máu. Giấc mơ đầu tiên Lão Khúng trông thấy một ông già thân hình cao vóng… với những mảng tiết bò còn ướt hay đã khô dính hết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay; cái lão già ghê tởm ấy giang cả hai tay, nâng một chiếc búa to nặng,… bổ xuống đầu một con bò. Trong giấc mơ ấy kẻ nâng chiếc búa tạ lên đánh vào đầu con vật là lão chứ ai, nghĩa là một người nông dân như lão cũng có thể trở thành một hung thần. Lão gắn bó với con bò nhưng lão cũng nhẫn tâm bán nó đi, không muốn nhưng vẫn phải làm. Sang đến giấc mơ thứ hai, thật kì lạ, lão nhìn thấy trong cái thân hình nửa bò nửa người, máu me đầm đìa, mà lão lại vẫn bình thản y như tuân thủ một cái điều đương nhiên mà khi thức lão không hề được biết… Mang thân hình nửa bò nửa người, lão cùng lão Bời đi theo sau thằng Lạc. Giờ thì lão đã biến thành bò cũng là một nạn nhân thảm khốc chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là con bò!… máu me đầm đìa. Và lão đã giải thoát cho con bò Khoang cũng có nghĩa là tự giải thoát cho mình, thực hiện ảo tưởng tự do hoang dã của chính mình. Nguyễn Bình Phương đưa nhiều yếu tố kì ảo vào tác phẩm, đặc biệt là những giấc mơ đầy ám ảnh về quá khứ cứ lặp đi lặp lại. Thắng (Người đi vắng) mơ thấy mình giương súng nhắm bắn vào cái bóng thập thò đằng sau bức tường đổ trước mặt. Xung quanh anh đất đá tung lên từng cột rồi từ từ đổ sụp xuống không hề gây nên tiếng động. Nhưng  người mơ nhiều nhất là Hoàn (vợ Thắng) khi nằm trong trạng thái hôn mê sau tai nạn xe máy, chủ yếu vẫn là về quá khứ, về cây xà cừ vẫn rì rào lá mặc dù nó đã bị cưa từ lâu, về người bạn gái thuở nhỏ, về tuổi thơ cô độc,… Thực ra, những giấc mơ thần bí, siêu linh là kết quả của những nỗi trải nghiệm, những nỗi đau, những ẩn ức bị dồn nén trong thực tại. Phiêu linh vào thế giới siêu thực ấy là một cách để giải tỏa cảm xúc, cũng là cách để đi sâu khám phá những vùng mờ tâm thức khó nắm bắt của con người.

Thế hệ các nhà thơ trẻ sau này tiếp tục đi sâu hơn vào cõi tâm linh của con người, thể hiện được sự giao cảm linh thiêng giữa người sống và người chết, giữa âm và dương. Nguyễn Quang Thiều với Chiều trong nghĩa trang đã tìm đến với một không gian và khoảng thời gian giao hòa linh thiêng nhất giữa người đã khuất và những người còn đang sống. Hình ảnh người mẹ già lặng lẽ thắp nhang lên bia mộ trong trời chiều, gió lộng khiến cho những câu thơ tràn ngập nỗi xót xa: Mẹ ơi, mẹ về đi/Chiều phủ kín hết rồi/Sông ngửa mặt lên trời/Thở từng hơi trắng/Ai gọi đò bơ phờ bến vắng/Mẹ về đi giá lạnh, có nhiều sương/Mẹ run run đốt những nén hương/Cắm lên từng bia mộ. Nhà thơ đang gọi mẹ hay phải chăng là những đứa con trong nghĩa trang gọi mẹ. Dáng mẹ cô đơn trong bóng chiều đang xuống, bến đò thì vắng, trời thì nhiều sương, mẹ cắm nén hương trên từng ngôi mộ. Không biết bao nhiêu năm đã trôi qua, mẹ vẫn một mình giữa nghĩa trang này, thắp lên nén hương tưởng như thắp lên khao khát mãnh liệt: Chim khách góc vườn/Mười mấy năm nói dối/Cau mười mấy năm trời/ Vô ý trổ buồng đôi. Câu thơ thoáng chút trách móc. Mẹ chỉ mong một tiếng khách kêu báo người về, mong có ngày cau trổ buồng đôi, đón được người dâu hiền thảo, nhưng mười mấy năm trời cau vô ý trổ buồng đôi trước mắt mẹ. Nỗi đau đớn của mẹ khiến cho nhà thơ cảm thấy xót xa, và trong khoảnh khắc của tâm linh tương thông, thi nhân đã cất lời năn nỉ: Các anh về với mẹ một đêm thôi/Cho ngọn đèn dầu đỡ giật mình vụt tắt/Cho nồi cơm lại thêm một lần đầy đặn/Cho đũa trong nhà một bữa được so thêm/Nếu các anh về không hóa được thành người/Thì xin hóa ngọn lửa cười trong bếp/Hóa chủ các con dưới ao nhà đợi mẹ/Hóa tiếng Thạch Sùng thưa gọi mẹ trong mơ. Có rất nhiều những cuộc đối thoại tâm linh như thế trong dòng thơ hiện đại: Bài thơ riêng cho những người chết (Phùng Khắc Bắc), Thánh Gióng trở về (Đỗ Minh Tuấn),… Những linh cảm thần bí, sự giao cảm âm dương, sự chuyển hóa từ kiếp này sang kiếp khác… cũng là mối quan tâm lớn của các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Y Ban, Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương,… Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) hàng đêm vẫn nghe thấy Can trở về thì thào bên tai, cái xác bỗng chốc hóa thành làn khói trắng. Võ Thị Hảo lại khai thác con người tâm linh ở góc độ chuyển hóa từ kiếp này sang kiếp khác. Trong Giàn thiêu, tác giả đã xây dựng nhân vật Từ Lộ trong hai kiếp. Kiếp đầu là hình ảnh của nhà sư Đạo Hạnh, ban đầu là một công tử con quan sinh ra chỉ biết đọc sách, đánh cờ, thổi tiêu,… Nhưng sau đó tai họa ập đến gia đình, chàng nguyện sống để trả thù cho cha. Lặn lội đến Tây Trúc xa xôi để cốt rèn được phép thuật cao cường trờ về báo thù nhà, chàng thú nhận rằng vẫn không thể rời bỏ cõi vô minh, vẫn chọn con đường nặng nợ luân hồi lạc kiếp. Đại sư Đạo Hạnh tiếp tục đầu thai vào nhà Sùng Hiền hầu, sinh ra ở kiếp thứ hai làm công tử Lý Dương Hoán, hưởng thụ lạc thú xa hoa, tà dâm vô độ, theo đuổi tham vọng không cùng. Những chi tiết kì lạ về sự đầu thai của Từ Lộ, ánh mắt khác thường khi Dương Hoán còn nhỏ, sự biến đổi của vua qua lốt hổ, giọt nước mắt chữa bệnh của sư bà, cái chết của vua,… tạo nên sự bí ẩn của con người mà văn học trước đó chưa khai phá.

Con người tâm linh đã minh chứng cho sự bí ẩn, đa chiều của con người trong văn học sau 1975. Đi sâu vào những vùng mờ tiềm thức ấy, các tác giả đã mở ra khả năng khám phá thế giới tâm hồn và nhân cách phức tạp của con người, lí giải được những hiện tượng kì lạ, thể hiện cảm quan về một xã hội hiện đại đầy bất trắc, đứt gãy, cảnh tỉnh và hơn hết là hướng con người đến những giá trị nhân bản cao đẹp.

  1. Vài nét về sự chuyển biến trong phương thức biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người

            Sự thay đổi trong quan niệm về con người đã dẫn đến những cách tân trong nghệ thuật biểu hiện mà trước hết phải kể đến các yếu tố như cấu trúc, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật khác.

Về cấu trúc: Để đưa con người khám phá những vùng đất sâu thẳm trong tâm hồn, nhiều tác giả thơ Việt sau 1975 chủ trương thay đổi cấu trúc thơ truyền thống, xóa bỏ tính liên tục của cấu trúc thơ tuyến tính, tạo nên sự đứt quãng, không liền mạch, những bước nhảy vọt về ý, không theo logic thông thường giống như những mảnh ghép được cắt dán, ghép lại với nhau, nhiều khi hờ hững, chẳng hạn như những câu thơ của Hoàng Hưng: Ai đi sương, tóc dạ, lông, chìm/Những tiếng dài, rộng, gió, và cây, nhà, khối tượng, đá, hoa, sương. Hình ảnh chồng chéo lên nhau, đầy sự bất ngờ, phi lí, khó hiểu của dòng vô thức, tựa như được ghép lại bởi rất nhiều cảm giác xuất hiện trong giấc mơ. Trong văn xuôi đặc biệt là truyện ngắn, tiểu thuyết, các nhà văn cũng tạo nên sự bất ngờ về mặt kết cấu khi thể hiện con người. Nếu như trước 1975, hai kiểu kết cấu được tập chung chú ý là kết cấu sự kiện và tâm lí thì sang những năm sau 1975, với quan niệm về con người đa chiều, phức tạp, con người trong tính không hoàn tất của nó, xu hướng sử dụng kiểu kết cấu lắp ghép, lỏng lẻo, cấu trúc mở trở nên rất phổ biến. Trong tác phẩm chúng ta thấy có sự đảo lộn trật tự thời gian, không tuân theo quy luật nhân quả thông thường, thậm chí chỉ là những mảnh ghép rời rạc tạo nên kiểu kết cấu theo dòng ý thức, kết cấu phân mảnh (Phiên chợ Giát, Nỗi buồn chiến tranh, Thiên sứ, Tướng về hưu, Không có vua…), kết cấu truyện lồng trong truyện…

Về giọng điệu: Văn học trước 1945 – 1975 tương đối nhất quán về giọng điệu. Bao trùm lên tất cả là giọng trang trọng, ngợi ca, tin tưởng. Nhưng sau năm 1975, để thể hiện con người đời thường, con người cá nhân phức tạp, bí ẩn, giọng điệu thơ văn cũng có nhiều chuyển biến, không còn là một giọng thống nhất mà là đa giọng điệu.

Trong thơ, xuất hiện giọng chế giễu, hoài nghi, chua chát, tự thú,… đặc biệt là trong những năm cuối thập kỉ 70, đầu những năm 80. Chưa bao giờ người ta thấy trong thơ nhiều bi kịch, nhiều nỗi buồn đến thế đến thế. Bằng giọng xót xa, Nguyễn Duy Từ xa nhìn về Tổ quốc đã nói lên được biết bao cay đắng, nhọc nhằn cũng như những nỗi bất hạnh trong cuộc sống của con người. Nhiều nhà thơ thấy lo âu, niềm tin đổ vỡ, hoài nghi Niềm tin ơi/Xin đừng rơi như lá rụng trái mùa (Hoàng Trần Cương), Tôi chẳng sợ cuộc chiến tranh trong hòa bình/Nhưng lòng tin, tôi có lúc đói lòng tin/Tim tôi gióng hồi chuông cấp báo/Tôi đã đồng hành cùng gió bão/biết mặt từng đám mây khi giông tố nổi lên/Nhưng cuộc đời ôi thật mênh mông (Thu Bồn). Giọng điệu tự thú cũng là sắc thái xuất hiện khá nhiều trong thơ. Đó là Nguyễn Duy với tiếng thơ thẳng thắn, chân thành, tự phán xét, cảnh tỉnh trước những đổi thay của con người sau khi hòa bình lập lại. Những bài thơ như Đò lèn, Ánh trăng đều chứa đựng sự dằn vặt, tự thú, ăn năn của nhà thơ.

Văn xuôi cũng ghi nhận sự nở rộ của nhiều giọng điệu. Đó là giọng trầm tĩnh, đầy chiêm nghiệm, suy ngẫm trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu,… Ở Bức tranh giọng điệu này thể hiện rõ khi người họa sĩ tự vấn lương tâm của chính mình. Và anh ta đã rút ra quan niệm sống ở đời cho thế nào thì nhận thế ấy. Giọng tranh biện, đối thoại là sắc thái nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ… Các nhà văn đã tạo ra một không khí đối thoại dân chủ, lời nói của nhân vật được công khai và tự nhân vật thể hiện quan điểm của mình về các vấn đề của cuộc sống như ý nghĩa cuộc đời, sự lựa chọn cách sống, kế mưu sinh, đạo đức, lương tâm,… Bên cạnh đó là giọng giễu nhại, hoài nghi trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, giọng triết lí trong tác phẩm của Nguyễn Khải,…

            Về ngôn ngữ: Sau năm 1975, văn học quay trở về với quỹ đạo đời thường, đi sâu vào đời sống cá nhân, đó cũng chính là lí do mà các tác giả thời kì này ý thức đưa ngôn ngữ đời sống vào tác phẩm. Khước từ quan niệm thánh hóa văn chương, thứ ngôn ngữ suồng sã, thông tục, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày ùa vào văn học. Khác với thời kì trước, ngôn ngữ trong văn học sau 1975 không nhằm thể hiện đời sống, tâm tư, tình cảm của quần chúng trong sự ngợi ca, tự hào mà để thể hiện những khía cạnh gai góc, thô nhám, trần trụi của cuộc đời con người với nhiều hoang mang, bế tắc, hoài nghi, đổ vỡ. Trong thơ, những cách nói kiểu xẩm ngang, và giọng điệu bụi bặm đã khiến thơ trở nên tếu táo, tăng thêm chất giễu nhại. Tiêu biểu cho hướng đi này là Nguyễn Duy: Tạnh men là tạnh la đà/Tạnh cơn một bóng ảo ra chính mình/Phàm trần bớt chút lung linh/Các em bớt xinh xinh mấy phần (Kiêng). Trong văn xuôi, ngôn ngữ đời thường của nhiều tầng lớp đều dược khai thác, đưa vào trong văn học. Hãy nghe cách nói của lớp trẻ ngày nay: Này, các em đi Tây cần phải đề cao cảnh giác đấy nhé. Nhỡ học ở nơi nó không cho nạo thai là “bó tay.com” luôn đó (Những mảnh hồn trần, Đặng Thân). Và đây là ngôn ngữ của cô Thủy – tầng lớp trí thức nói với chồng Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ (Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp). Những ngôn ngữ bỗ bã, thông tục kiểu như lười như hủi, đồ ruồi nhặng, đồ dê cụ, con ác phụ, con dâm phụ,… đầy trong các tác phẩm văn chương. Có thể nói ngôn ngữ dù đời thường hóa nhưng vẫn mang tính cá thể cao độ góp phần thể hiện được hình ảnh con người cá nhân trong văn học thời kì này.

Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người cũng kéo theo sự chuyển đổi từ ngôn ngữ một giọng trong văn học trước 75 sang ngôn ngữ đối thoại, đa thanh, nhiều giọng trong văn học sau 75. Ở đó có sự hòa trộn giữa ngôn ngữ của nhân vật với ngôn ngữ của tác giả, ngôn ngữ của người kể chuyện, ngày càng có nhiều hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất, nhân vật xưng tôi để kể chuyện về mình và về người khác. Nguyễn Minh Châu là nhà văn thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ đa thanh  để thể hiện con người cá nhân. Phiên chợ Giát có sự đan chéo của nhiều đối thoại và đối thoại bên trong tâm linh sâu thẳm của nhân vật lão Khúng. Lão đối thoại với chính mình, với vũ trụ hoang vu, với người con trai đã chết trận, với bò khoang – người bạn nhọc nhằn, hay chính là sự phân thân của lão. Nguyễn Huy Thiệp cũng tìm đến với ngôn ngữ có tính chất đa thanh và được thể hiện rõ nhất trong những tình huống đối thoại. Đây là một cuộc trò chuyện của ông Thuấn và con cháu: Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?”. Cha tôi bảo “Ừ”. Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm phải không ông?”. Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”. Lời của đứa trẻ không đáng trách nhưng suy nghĩ của nó không trùng với suy nghĩ của ông Thuấn. Nếu đặt vào hoàn cảnh những năm 60, khi cả nước lên đường đánh giặc trong không khí hồ hởi, phấn chấn thì câu nói này hoàn toàn đúng. Nhưng nếu đặt nó vào hoàn cảnh xã hội những năm 80 thì sẽ nhận được tiếng cười nhộn hay thâm thúy. Như vậy, rõ ràng là ở đây, người kể chuyện không định hướng cho người đọc, không nói ai đúng, ai sai mà chỉ tạo ra một sự đối thoại ngầm giữa hai cách nghĩ, hai tư duy ngôn ngữ của hai thời đại khác nhau. Điều đó cũng tạo nên tính đa thanh cho ngôn ngữ văn học thời kì này.

Trong thơ, tính chất đa thanh, nhiều giọng của ngôn ngữ cũng khá rõ cho thấy tính chất phức tạp của con người cá nhân trong xã hội. Tính chất đa thanh được thể hiện ở chỗ nhân vật không bộc lộ một chiều mà luôn có sự đối thoại giữa các giọng nhân vật. Sự thức tỉnh của Nguyễn Duy là kết quả của một quá trình đối thoại, đấu tranh giữa cảm nhận trong hiện tại và tư tưởng, tình cảm trong quá khứ: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực/Giữa bà tôi và tiên phật thánh thần/Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế (Đò Lèn). Không chỉ đối thoại giữa những thang giá trị như hiện tại – quá khứ, huyền thoại – cuộc đời, cá nhân – xã hội, tính chất đa giọng còn có được do sự phân thân ngay trong chính tác giả. Di cảo thơ của Chế Lan Viên nổi bật với ý thức đối thoại mạnh mẽ để tự phê phán mình, giễu cợt mỉa mai lối sống giả tạo không dám là mình: Người diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi/Chỉ một vai không đóng nổi/- Vai mình/(…) Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất vai mình (Thơ về thơ).

Như vậy sự thay đổi quan niệm về con người, với các kiểu con người phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay đã dẫn đến nhiều cách tân trong nghệ thuật biểu hiện. Trên đây chỉ là những nét khái quát, chưa đầy đủ nhưng một phần nào đó đã chứng minh được vai trò quan trọng của quan niệm con người đối với sự phát triển của văn học trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

 

III. Một số câu hỏi, bài tập

Câu 1: Đọc những câu thơ sau:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Tây Tiến, Quang Dũng)

–   Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương

(Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên)

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

(Sóng, Xuân Quỳnh)

  1. Hãy chỉ ra điểm chung trong quan niệm tình yêu của các nhà thơ trong những câu thơ trên
  2. Điều gì đã chi phối đến quan niệm và cách thể hiện tình yêu của các tác giả này?

 

Gợi ý

  1. Điểm chung trong quan niệm tình yêu của các nhà thơ Quang Dũng, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh trong trong những câu thơ trên là sự hòa hợp giữa tình yêu riêng tư và tình yêu đất nước.Tình yêu lứa đôi chỉ khi hòa trong tình yêu đất nước mới trở nên lớn lao, bất tử. Tình yêu đất nước khi gắn liền với tình yêu lứa đôi càng trở nên gần gũi, thân thiết.
  2. Quan niệm về tình yêu mang những nét chung như vậy là do sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con người. Trong giai đoạn văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975, con người được khám phá chủ yếu với tư cách công dân, ở phương diện con người chính trị, hoàn toàn không có chỗ cho con người cá nhân tồn tại. Phương diện đời tư, thế sự ít được chú ý, và nếu có thì những tình cảm cá nhân ấy cũng hòa nhập trong những tình cảm có tính chất rộng lớn hơn: tình cảm cộng đồng, dân tộc. Bởi vậy tình yêu cá nhân, riêng tư trong những câu thơ này cũng hòa nhập tình yêu đất nước.

 

Câu 2: Quan niệm về con người sử thi trong văn học Việt Nam 1964 – 1975 đã chi phối như thể nào đến việc xây dựng hình tượng nhân vật Tnú của nhà văn Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn Rừng xà nu?

 

Gợi ý

  1. Quan niệm về con người sử thi trong văn học Việt Nam 1964 – 1975

– Con người sử thi thường được thể hiện ở thang giá trị cao nhất, đẹp nhất, hoàn hảo nhất. Nhân vật trung tâm không đại diện cho con người cá nhân, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, thời đại với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Con người sống chủ yếu với hiện tại và tương lai.

– Biểu hiện cụ thể

+ Lí tưởng cao cả về độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc

+ Lí tưởng cao đẹp, nhận thức sâu sắc sẽ thúc đẩy ý chí và hành động của con người sử thi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, bảo vệ Tổ quốc

+ Vẻ đẹp trong đời sống tư tưởng, tình cảm đã làm nên sự toàn vẹn của con người sử thi trong thời kì chống Mỹ. Tình yêu thương, lòng vị tha, đức hi sinh,… khiến cho khoảng cách sử thi được được kéo gần lại, hình tượng người anh hùng trở nên gần gũi, bình dị hơn và cũng có sức sống hơn

  1. Với quan niệm như vậy, Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng xà nu đã xây dựng Tnú là một nhân vật mang đậm màu sắc sử thi.
  2. Đó là một người anh hùng kết tinh được vẻ đẹp, phẩm chất và sức mạnh của cả cộng đồng, dân tộc

– Cuộc đời bi tráng (mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên nhờ tình yêu thương của buôn làng, ngay từ nhỏ đã nghe lời cụ Mết vào rừng tiếp tế cho cán bộ; trải qua ngục tù và sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù, những nỗi đau tưởng như không thể nào chịu đựng nổi: mất vợ, mất con ngay trước mắt anh, và ngay sau đó là sự nổi dậy của dân làng Xô Man… ). Cuộc đời bi tráng của Tnú tiêu biểu cho con đường đi của Tây Nguyên và cách mạng Việt Nam trong thời kì đấu tranh chống đế quốc Mĩ.

– Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách

+ Lí tưởng đúng đắn, gan góc, dũng cảm, bộc trực, ham hiểu biết, có tính kỉ luật cao và tuyệt đối trung thành với cách mạng

+ Tâm hồn giàu tình yêu thương, gắn bó sâu nặng với gia đình, quê hương

+ Yêu nước, căm thù giặc, giàu ý chí chiến đấu

  1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Tnú cũng đậm chất sử thi

– Cách kể chuyện qua lời cụ Mết và những hồi ức của Tnú tái hiện qua những lời kể ấy. Chuyện được kể bên bếp lửa, qua lời của một người già làng kể cho đông đảo dân làng nghe. Cách kể trang trọng như muốn truyền cho thế hệ con cháu những trang lịch sử của cả cộng đồng, gợi nhớ đến lối kể khan ở các dân tộc thiểu số Tây Nguyên -> tạo màu sắc sử thi cho hình tượng người anh hùng

– Giọng điệu khẳng định, ngợi ca, trang trọng, ngôn ngữ giàu chất tạo hình,…

 

Câu 3:  Mượn lời nhân vật họa sĩ trong truyện ngắn Bức tranh viết vào thập kỉ 80 của thế kỉ XX, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phát biểu quan niệm nghệ thuật về con người như sau: trong con người (…) lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ.

Quan niệm trên đã được Nguyễn Minh Châu thể hiện như thế nào khi miêu tả người đàn ông hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ? Cảm nhận của anh/chị về nhân vật đó?

 

Gợi ý

  1. Giải thích

Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về con người: Con người đời thường, đa chiều, phức tạp, trong mỗi con người luôn tồn tại cả mặt tốt lẫn mặt xấu, thiện và ác, cao cả và thấp hèn. Nói cách khác con người khi được đặt trong những quan hệ đời thường luôn là một hiện tượng phức tạp, muốn nhìn cho chính xác, toàn diện thì không thể nhìn một cách phiến diện đơn giản, cần phải có con mắt nhìn tinh tường, nhiều chiều, có chiều sâu… -> quan niệm đúng đắn, sâu sắc,

  1. 2. Chứng minh qua nhân vật người đàn ông hàng chài

* Cái tốt, cái thiện:

– Bản chất là một người hiền lành, trước đây (khi cuộc sống còn chưa đến nỗi vất vả, cơ cực) chưa bao giờ đánh đập vợ con.

– Lao động cần cù, chăm chỉ để nuôi sống gia đình, là  người chèo chống, chỗ dựa vững chắc của gia đình, nhất là những lúc động biển, sóng cả gió to, là người đem lại những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi cho người vợ những lúc hiếm hoi gia đình sống hòa thuận, khi nhìn đàn con được ăn no…

– Tiết kiệm vì gia đình: không nghiện ngập rượu chè…

– Đánh vợ con nhưng không tỏ ra hả hê, đắc ý mà giống như một hành động bất đắc dĩ; nguyền rủa vợ con bằng cái giọng rên rỉ đau đớn. Sau khi đánh xong, bỏ đi trong im lặng nhưng dáng đi nặng nề hơn, khó nhọc hơn… -> Có nhiều điều uẩn khúc, bức bối mà không thể bày tỏ…

* Cái xấu, cái ác:

Đánh vợ con, nguyền rủa vợ con một cách vũ phu, độc ác:

+ Đánh vợ: hùng hổ, mặt đỏ gay, đánh bằng thắt lưng của lính ngụy, quật tới tấp, nguyền rủa chết đi trong khi người vợ tỏ ra hoàn toàn cam chịu… -> Hành động này lặp đi lặp lại, không biết bao giờ mới chấm dứt.

+ Đánh con: dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát…

-> Đánh vợ con như đánh quân hằn quân thù, không chút nương tay…

– Đánh cả người ngoài nếu can thiệp vào chuyện gia đình lão (đánh Phùng bị thương nhẹ khi Phùng bênh vực, bảo vệ  người đàn bà).

* Để thể hiện cái nhìn có chiều sâu về nhân vật, Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật dưới nhiều sự phán xét: người đàn bà (vợ), Phùng (nghệ sĩ nhiếp ảnh – nhân chứng), Đẩu (chánh án tòa án huyện), Phác (đứa con – nhân chứng).

  1. Cảm nhận về nhân vật lão đàn ông: vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho những người thân.

Đáng trách, đáng lên án: quá tàn nhẫn với vợ con, chỉ biết xả sự bực bội lên đầu vợ con mà không biết rằng họ cũng rất vất vả, khổ cực…

Nếu đi sâu vào nguyên nhân dẫn đến những hành động vũ phu, tàn bạo đó, có thể ta tìm thấy một chút cảm thông cho nhân vật này: cuộc sống ngày một khó khăn vất vả, gánh nặng mưu sinh đè nặng lên vai lão, thuyền cũng là nhà mỗi lúc một chật chội vì đàn con mỗi lúc một đông, một nheo nhóc, mỗi lần biển động là cả gia đình lại đứng trước nguy cơ chết đói (phải ăn xương rồng luộc)… Vả lại, đàn ông không có khả năng chịu đựng gian khổ bền bỉ, không có khả năng hi sinh như phụ nữ… à hoàn cảnh xô đẩy, tha hóa con người (tất nhiên cũng không thể hoàn toàn đổ lỗi cho hoàn cảnh).

  1. 4. Đánh giá khái quát

Nhân vật người đàn ông hàng chài là con người không nhất phiến, đơn giản. Đó là nhân vật phức tạp, tốt xấu lẫn lộn, rồng phượngrắn rết, được miêu tả đúng như quan niệm nghệ thuật mới của Nguyễn Minh Châu về con người trong chặng đường đổi mới văn học khi tiếp cận cuộc sống từ góc độ thế sự, đời tư.

– Nhân vật người đàn ông thể hiện cái nhìn có chiều sâu nhân đạo về cuộc đời và con người của tác giả. Đây cũng là một đóng góp lớn của Nguyễn Minh Châu cho nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

 

Câu 4: Những phát hiện nghệ thuật độc đáo về con người của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu qua hai hình tượng nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trong hai tác phẩm Vợ nhặtChiếc thuyền ngoài xa

 

Gợi ý:

  1. Giải thích vấn đề: phát hiện nghệ thuật độc đáo về con người của nhà văn thể hiện sự quan sát, miêu tả, khám phá, lí giải sâu sắc, mới mẻ, sáng tạo về con người trong tác phẩm văn học thông qua các hình tượng nhân vật…
  2. Phân tích
  3. Phát hiện nghệ thuật độc đáo về con người của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong Vợ nhặt

Phát hiện bản chất tốt đẹp của con người bị khuất lấp:

– Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.

– Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.

– Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ  nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.

  1. Phát hiện nghệ thuật độc đáo về con người của Nguyễn Minh Châu qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

Phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn như hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn, tính cách của người đàn bà hàng chài:

– Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh.

– Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có  khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi.

– Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.

  1. Phân tích, chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong phát hiện nghệ thuật về con người của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu qua hai tác phẩm

– Sự tương đồng:

+ Cả hai nhà văn đều đặt nhân vật vào trong những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách.

+ Cả hai nhà văn đều khẳng định vai trò và vẻ đẹp của người phụ nữ trong cuộc đời.

+ Qua những khám phá về con người trong tác phẩm cả hai nhà văn đều gửi gắm những tư tưởng mang tính triết lí về nhân sinh sâu sắc…

à Xét cho cùng cả hai nhà văn đều là những nghệ sĩ chân chính, giàu lòng nhân đạo, luôn ý thức về vấn đề đôi mắt, về cách nhìn cuộc đời sao cho đúng và có chiều sâu, luôn trăn trở không ngừng về số phận nhân dân và trách nhiệm của người cầm bút; đều là những ngòi bút tài năng khi đã xây dựng được những hình tượng sinh động, điển hình, có khả năng khái quát hóa cuộc sống và thể hiện một cách xuất sắc ý đồ sáng tạo của mình.

– Sự khác biệt:

+ Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc thuộc giai đoạn văn học chống Pháp, với quan niệm về con người giai cấp, vì thế để phát hiện về con người, tác giả đặt họ vào bối cảnh nạn đói khủng khiếp trước Cách mạng tháng Tám để thấy được số phận và vẻ đẹp của họ, đồng thời với cái nhìn lạc quan cách mạng, Kim Lân còn khơi dậy ở người vợ nhặt niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng.

+ Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 75 – văn học thời kì đổi mới, với quan niệm về con người cá nhân, đời thường, con người đa chiều phức tạp, vì thế nhà văn đặt con người dưới góc nhìn thế sự đời tư để khám phá, phát hiện về họ giữa muôn mặt đời thường, không phải trong cuộc đấu tranh giai cấp mà trong cuộc chiến dai dẳng chống lại đói nghèo lạc hậu, tăm tối để bảo vệ nhân tính con người -> kết thúc chưa hẳn sáng lạn nhưng ít nhiều còn cho ta hi vọng…

 

 

KẾT LUẬN

Con người bao giờ cũng là trung tâm của sáng tác văn học. Thể hiện, suy ngẫm về con người là cách để nhà văn nhận thức và khám phá thế giới, qua đó bộc lộ cái nhìn nghệ thuật độc đáo của mình.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay có sự chuyển biến qua hai giai đoạn. Giai đoạn văn học từ 1945 đến 1975 với quan niệm con người dân tộc, con người cộng đồng, con người giai cấp xác lập những tiêu chí thể hiện và đánh giá văn học chủ yếu dựa trên tiếng nói của cộng đồng, giai cấp. Đây là thời kì mà cả đất nước có chung gương mặt, có chung tâm hồn, quần chúng là nhân vật chủ đạo, giọng điệu chính là ngợi ca, tự hào về vẻ đẹp và sức mạnh của quần chúng. Nhưng sang đến giai đoạn văn học từ sau 1975 đến nay quan niệm nghệ thuật về con người đã có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội mới. Từ con người dân tộc, con người sử thi sang con người thế sự, con người cá nhân, đời thường, con người đa chiều, phức tạp và đầy bí ẩn. Sự thay đổi quan niệm đó dẫn đến những cách tân quan trọng về nội dung cũng như về nghệ thuật thể hiện con người để nhận thức hiện thực.

Với một chuyên đề nhỏ, chúng tôi đã chỉ ra những nét khái quát trong quan niệm nghệ thuật về con người và sơ lược cách biểu hiện con người trong văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, mong muốn nhận được sự đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện tốt hơn.

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999
  2. Trần Ban, Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, www.yersin.edu.vn
  3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004
  4. Nguyễn Thị Kim Dung, Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyên Ngọc, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 2001
  5. Nguyễn Đăng Điệp, Thơ Việt Nam sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh, vannghequandoi.com.vn
  6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007
  7. Nguyễn Thị Thúy Hằng, Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội, 2013
  8. Tố Hữu, Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội,
  9. Nguyễn Khải Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004
  10. Nguyễn Văn Long, Báo cáo một số vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945, doc.edu.vn
  11. Nguyễn Văn Long (cb), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Tập 2, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, 2007
  12. Hồ Tấn Nguyên Minh, Quan niệm về con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, www.vanhoanghean.com.vn
  13. Võ Anh Minh, Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan niệm nghệ thuật về con người, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, Vinh, 2005
  14. Lã Nguyên, Văn học Việt Nam 1975-1991, languyensp.wordpress.com
  15. Lê Lưu Oanh, Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996
  16. Nguyễn Phương, Sự đổi mới quan niệm về con người trong văn học Việt Nam mười năm cuối thế kỉ XX, text.123doc.org
  17. Trần Đình Sử , Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005
  18. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề  trong quan niệm con người của Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Tạp chí văn học 8/2001, tr 6-13.
  19. Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2005
  20. Phạm Thị Thu Thủy, Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, caodanghaiduong.edu.vn
  21. Nguyễn Ngọc Tư, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005.

——————————–

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *