Phân tích và cảm nhận bài thơ “ Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng.

Văn mẫu lớp 10

   “Thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự kết tinh những truyền thống văn hoá của dân tộc và nhân loại và những trải nghiệm phong phú của đời sống thực tế, trên cơ sở một cá tính sáng tạo với một tài năng nghệ thuật thực sự.” Rung lên từ tâm hồn người nghệ sĩ, thơ tựa như một bản hoà ca với những giai điệu trầm bổng khác nhau. Không nằm ngoài những âm vang của thơ ca nghệ thuật, Quang Dũng cũng đã góp vào thi đàn Việt Nam một bản hùng ca đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn mang tên “Tây Tiến”.

    Quang Dũng được biết đến là một nhà thơ đa tài đa nghệ, thông thạo cầm, kì, thi, hoạ nên trong thơ ông luôn có sự kết hợp, hoà trộn đan xen giữa hai yếu tố nhạc và hoạ. ‘Tây Tiến” giống như một mốc son chói lọi của đời thơ Quang Dũng khi viết về đề tài người lính. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948, khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Khi xưa thi sĩ Xuân Diệu từng nhận định: ‘ Hãy biết ơn vị muối của đời để thơ có thêm chất mặn.”. Nếu không có những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn Tây Tiến thì có lẽ những câu thơ đầy lãng mạn và cũng đầy bi tráng của bài thơ “Tây Tiến” đã không vang lên trong không khí hào hùng khi ấy của dân tộc. Nhà thơ của ‘Xứ Đoài Mây Trắng” không đi tìm vẻ đẹp ở một phương trời lãng du xa rời hiện thực mà đi góp nhặt từ những lần bào da tróc thịt, chiến đấu quật cường của những người chiến sĩ. Thông qua đó tác giả cũng gửi gắm tâm tư, tình cảm của chính mình đến với độc giả. 

   Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa, bài thơ “ Tây Tiến” hệt như một bức thư hoạ đã xanh màu lá qua biết bao thê hệ từ thời kháng chiến đến ngày hoà bình:

“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

    Ta bắt gặp ở ngay đầu bài thơ cái cảm giác trống vắng, nuối tiếc. Đó là cảm giác của một người đang nhớ về những gì đã qua, “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vô hình, bất định nhưng lại có lượng, nó nhẹ tệnh nhưng lại nặng vô cùng. Chỉ biết nó mênh mông nhưng lại cồn cào và ám ảnh tâm trí. Sông Mã là hình tượng gắn liền với đoàn binh Tây Tiến, con sông ấy đã là minh chứng cho những năm tháng kham khổ của cả đoàn binh. Nay sông mã đã xa, cuộn tròn thành nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy cũng dạt dào như những vần thơ lãng mạn:

“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Xuân Diệu)

    Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt khiến cả quân địch khiếp sợ với bệnh sốt rét. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong những đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. Quang Dũng rất tài tình khi đưa hình ảnh ‘sương” lồng ghép trong bài thơ để khắc hoạ núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo của một “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không mỏi, bởi ý chí kiên cường, quyết tâm ra đi vì Tổ quốc. Trong bài thơ “Tiếng Hát con tàu”, Chế Lan Viên từng viết:

“ Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”

Hay trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

  Đọc “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta bắt gặp hình ảnh những người lính dũng cảm, gan dạ, oai hùng trong gian khổ. Không chỉ vậy, ta còn bắt gặp một hồn thơ mộng mơ, bay bổng và lãng mạn làm ta nhớ mãi:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

 Heo hút cồn mây súng ngửi trời 

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống 

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

      Núi rừng Tây Bắc khúc khuỷu, thăm thằm, heo hút. Nhà thơ đã khai thác triệt để các từ láy tạo hình để miêu tả cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Hai chữ “khúc khuỷu” Diễn tả những dốc núi quanh co, gặp ghềnh, mấp mô, uốn lượn. Hai chữ “thăm thẳm” gợi độ sâu của những con đường nhiều vực. Còn hai chữ “heo hút” như vẽ ra những ngọn núi, những đỉnh đèo cao ngất. Câu thơ giúp cho người Đọc hình dung người lính Tây Tiến đang ở một đỉnh đèo nào đó rất cao, nhìn lên mây nối thành từng cồn heo hút, có cảm giác như mũi súng chạmh tới trời, nhìn lên cao chót, nhìn xuống sâu thắm thẳm. 

     Câu thơ thứ ba được đặc tả dốc núi Tây Bắc, nhịp thơ bị bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống” diễn tả những dốc núi vút lên rồi lại đổ xuống “ngàn thuốc xuống”. Ba câu thơ có sự phối hợp của nhiều thanh trắc độc lên nghe trúc trắc, nặng nề tựa như những bước chân khó nhọc của người lính Tây Tiến. Nhưng đến câu thơ tựa như những bước chân khó nhọc của người lính Tây Tiến. Nhưng đến câu thơ thứ tư lại hết sức nhẹ nhàng em ái: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” câu thơ có sự kết hợp của 7/7 tiếng là thanh bằng. Lỗi phối thanh trong bốn câu thơ giống như nghệ thuật phối màu bên cạnh những gam màu nóng người nghệ sĩ điểm xuyết những gam màu lạnh xoa dịu và Tây Tiến trong cuộc hành quân đang dừng lại ở lưng chừng đèo nào đó, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai đó anh hẹn giữa :”xa khơi”.

   Quả thực, để mà nói rằng “thi trung hữu hoạ” thì đoạn thơ trên của Quang Dũng là một ví dụ điển hình. Đọc đoạn thơ trùng điệp của núi rừng Tây Bắc làm ta nhớ đến câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”:

“Hình khe thế núi gần xa

Đứt đôi lại nối, thấp đà lại cao”

Cũng như ta bắt gặp cái rợn ngợp trong thơ Lí Bạch:

“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên” (Thục đạo nan)

   Miền Tây ngày ấy là nơi ngự trị của cái vẻ âm u, hoang dã là những thử thách ghê gớm đặt ra cho con người:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

    Ngòi bút lãng mạng của Quang Dũng liên tục khai thác cái dữ dội của núi rừng Tây Bắc theo chiều của thời gian “Chiều chiều” “Đếm đếm”, theo chiều rộng của không gian “Mường Hịch” giúp cho người đọc hình dung cụ thể về một Tây Bắc không chỉ có núi cao đèo sâu, vực thẩm mà thiên nhiên Tây Bắc còn có thác gầm, cọp dữ. Những thác nước, cọp dữ vốn là mối nguy hiểm của con người nhưng dưới ngồi bút của Quang Dũng thác gầm tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, còn cọp dữ không ăn thịt người mà chỉ trêu người Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cộ trêu người Nếu như ở khổ thơ thứ nhất Quang Dũng vẽ ra bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc thì khổ thơ thứ hai, ngòi bút tài hoa, lãng mạn.

   Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những người lính chỉ gục xuống khi chân không còn bước được nữa, gục ngay trên quân trang vũ khí của mình. Cái chết của những chàng trai trẻ được miêu tả không phải là nằm xuống, ngã xuống mà là “bỏ quên đời” – một cái chết nhẹ như lông hồng (“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”). Nó đúng với không khí thời đại khi mà cả nước bước vào cuộc chiến đấu, đối mặt với đạn bom của một bầy giặc mạnh mà mỗi người chỉ có hai bàn tay không và một tấm lòng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mỗi cuộc ra đi ngày ấy đều không hẹn ngày về như lời một bài hát rất thịnh hành bây giờ: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi, là có sá chi đâu ngày trở về”. Ờ họ, mỗi người lên đường lúc ấy đều mang trong mình hình ảnh và tâm trạng Kinh Kha:

“Tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn”

Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến sự hy sinh mất mát nhưng vẫn không bị bắt bởi thái độ của người hy sinh. Người chiến sĩ đã vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng họ cũng không chịu khuất phục. Họ bỏ cả tuổi xuân quý giá, nhưng là vì Tổ quốcNên nhẹ nhàng như bỏ quên một vật gì bình thường. “Vì nước quên thân”, thái độ sống ấy của người chiến sĩ Việt Nam nói chung và Tây Tiến nói riêng cứ sáng lên rạng rỡ.

   Trong nỗi nhớ của Quang Dũng Tây Bắc không chỉ hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ mà vẻ đẹp ấy còn là con người nơi đây:

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

 

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

 

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

  Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến đã bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của cảnh vật và con người nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy Được hiện lên trong một thời gian làm nổi bật vẻ lung linh, huyền ảo của nó.

Đêm liên hoan văn nghệ của người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui thật tưng bừng, nhộn nhịp. Cả doanh trại bừng sáng, tưng bừng sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Đó là cái bừng sáng của ánh lửa bập bùng mà cũng là cái bừng sáng của tâm trí, hoài niệm khi nghĩ về một kỉ niệm đã qua. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây rạo rực. Hai chữ “Kìa em” thể hiện cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên vừa hân hoan, vui sướng của người chiến sĩ. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái Thái núi rừng Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ trong một vũ điệu mang đậm màu sắc Xứ lạ. Hình ảnh “ nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”Là hình ảnh đẹp, thơ mộng,  diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Tưởng là những thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội, những gian truân vất vả phải chịu đựng trên suốt dọc đường hành quân sẽ làm cho tâm hồn của người chiến sĩ trở nên chai sạn, khô cứng. Nhưng không, tâm hồn họ vẫn phơi phới niềm lạc quan yêu đời. Họ vẫn tổ chức hội vui, tâm hồn họ vẫn Ấp đầy mơ mộng, dù có thể chỉ ngày hôm sau, một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch. Luôn lạc quan yêu đời, phải sống với tâm hồn trẻ trung tươi mát, người lính Tây Tiến mãi ôm ấp trong lòng những hình ảnh rất đỗi bình thường. Trong dòng hoài niệm, hiện lên không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc khói sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Và trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy nổi bật lên hình dáng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc xuôi về Châu Mộc. Hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng như đong đưa, Như muốn làm duyên trên dòng nước lũ. Ở cái nẻo bên bờ xa khuất ấy, ngàn lau vô tri như cũng có linh hồn. Ngồi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Nét bút mờ nhòa này đã vẽ được cái mộng mơ của cảnh vật, Cái hư ảo của hoài niệm, cái tinh tế của tình cảm. Tất cả da diết một màn sương nhớ nhưng bọc kín những câu thơ. 

Xuyên qua cảnh vật là một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, bâng khuâng không nói hết của tác giả với một vùng đất nước gắn bó thiết tha một thời với người lính.

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, hình tượng tập thểNhững người lính Tây Tiến suất hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

   Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng không chỉ gợi ra vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của núi rừng Tây Bắc mà còn tô đậm cái bình thường để tạo nên cái phi thường, sự độc đáo trong bức chân dung của người lính Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Người lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn trắm bề, thời tiết khắc nghiệt, bệnh sốt rét hoành hành làm cho những mái tóc xanh rụng hết thành những mái đầu “không mọc tóc” và màu da xanh xao – sản phẩm của căn bệnh sốt rét rừng. Thế nhưng dưới ngồi bút của Quang Dũng, người lính Tây Tiến lại có vẻ đẹp oai hùng, dằn dữ của con hổ nơi rừng thiêng. Đáng chú ý là vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến không phải là những người khổng lồ không có trái tim mà trái lại họ có một tâm hồn thơ mộng, lãng mạn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm Đi chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến vẫn nhớ về thủ đô Hà Nội, nhớ hình bóng của những người đẹp “dáng kiểu thơm”. Là những thanh niên, sinh viên của thủ đô Hà Nội giã từ gia đình đi chiến đấu nhưng người línhTây Tiến vẫn mang trong mình một chút hào hoa, lãng mạn của một thời cắp sách tới trường. Cho nên nỗi nhớ của người lính Tây Tiến khác với nỗi nhớ của những người lính xuất thân từ nông dân. Nếu như người lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên nhớ về “Luống cày đất đỏ: ít nhiều người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”.

    Người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu nhớ về giếng nước, gốc đa thì người lính Tây Tiến nhớ về dáng kiều thơm. Cũng là nỗi nhớ nhưng đối tượng, cách miêu tả nỗi nhớ của mỗi nhà thơ lại không giống nhau. Hồng Nguyên, Chính Hữu nghiêng về bút pháp hiện thực: Quang Dũng nghiêng về bút pháp lãng mạn. Sự khác biệt đó tạo nên tính độc đáo cho bài thơ Tây Tiến. Nếu bút pháp lãng mạn biểu hiện ở những vẻ đẹp độc đáo, khác lạ, những hình ảnh đối lập gay gắt, những cảm xúc tràn đầy thì cảm ứng bị tráng lại bộc lộ rõ nhất khi tác giả trực tiếp miêu tả sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che giấu cái bi tức là cái đau buồn. Nhưng cái bi được tù động bằng giọng điệu hào hùng, được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn tạo nên một cảm hứng bị tráng.

    Trước đó là cái lãng mạn, nhưng đến với bốn câu thơ tiếp theo cây bút lãng mạn lại nhìn thẳng vào cái bi. Thế nhưng cái bi ấy lại đem lại cho ta cái cảm giác hào hùng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

  Những từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” đã làm cho câu thơ thêm trang trọng, giúp cho những nấm mồ rải rác nơi biên giới được vùi lấp vội vàng cũng trở thành những ngôi mộ tôn nghiêm nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho Tổ Quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Họ quả là những người “ nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây”, đã thực hiện chí làm trai hết sức trọn vẹn khi quyết “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì người lính Tây Tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đầy sức mạnh gợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu bọc thây cũng không có, uống chi “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây Tiến chìm trong cái lạnh lẽo đến rợn người như trong thơ Đặng Trần Côn: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kỳ vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ đội lên từ chữ “gầm”. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn linh hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tâm sử thì hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối những truyền thống của cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống ? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù. 

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ vừa thu tóm tinh thần chung của toàn bài, vừa tạo ra trong lòng người đọc những rung động mạnh trước bức tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến. Quyết định dấn thân vào chốn bom đạn hiểm nguy, cái chết sẽ có thể đến với bất cứ ai và bất cứ ở nơi nào, lúc nào. Nhưng những chàng trai của đất Hà Thành ngày ấy vẫn hăng hái đi, vẫn “không hẹn ước” ngày trở về. Cái ý chí “tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn” một thời cứ bình thản mà đi vào lòng người vậy làm dậy những niềm kính yêu, nể phục. Và dẫu cho khoảng cách có nghìn trùng xa xôi “đường lên thăm thẳm một chia phôi” nhưng người chiến sĩ vẫn gắn bó khăng khít: “Hồn về Sầm Nứa chăng về xuôi”. Khoảng cách không gian không tách được lòng người sâu nặng với Tây Bắc kháng chiến. Khi cái khát vọng muốn công hiến sức mình cho tổ quốc còn sôi sục trong lòng, khi nhiệm vụ chưa hoàn thành, người lính còn ra đi. Dẫu có phải hy xinh, linh hồn cũng không rời bước đồng đội.

Câu cuối của bài thơ cứ gợi nhớ đến người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong lời ai điếu của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”. 

  Quả thật, hạnh phúc nhất là khi người ta có kỷ niệm để yêu thương ấp ủ bên lòng, Hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem mình đã lớn được bao nhiêu. Quang Dũng là người hạnh phúc. Bởi vì ông không chỉ có kỷ niệm đẹp, mà ông còn biết ôm ấp, biết giữ gìn, biết ghi lòng tác giả không quên những kỷ niệm của ngày đã qua ấy. Đành rằng không thể sống mãi với quá khứ nhưng đừng bao giờ quên đi quá khứ. Quang Dũng mà anh không quên cái “mùa xuân ấy”, cái mùa xuân của ngày thành lập trung đoàn Tây Tiến và cũng là mùa xuân tuổi hai mươi của những người lính.

   Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ. Từ bức chân dung người lính Tây Tiến hào hoa và dũng cảm trên cái nền hùng vĩ và  mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng hướng hồn thơ ngưỡng vọng vào cả một thế hệ anh hùng. Bài thơ “Tây Tiến” Như một tàng thư cất giữ những kỷ niệm về một thời kỳ kháng chiến hào hùng của dân tộc. Đi vào thời kỳ ấy, ta nghiêng mình trước hình tượng bất tử về người lính – những con người không ai biết mặt biết tên nhưng họ đã làm nên đất nước Việt Nam tươi đẹp. Với ý nghĩa đó, “Tây Tiến” Còn như lời cảnh tình cho những ai muốn chối bỏ quá khứ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *