Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 22

Tài liệu Văn

 

CHUYÊN ĐỀ  RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH  CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

 Mục lục. 2

PHẦN MỞ ĐẦU.. 4

1.Lí do chọn đề tài 4

2.Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu. 4

2.1 Nhiệm vụ. 4

2.2 Phạm vi nghiên cứu. 5

3.Phương pháp nghiên cứu. 5

4.Cấu trúc đề tài 5

PHẦN NỘI DUNG.. 6

Chương 1: TRANG BỊ KIẾN THỨC VỀ KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN.. 6

1.1.Đọc hiểu văn bản và vai trò của bạn đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản: 6

1.1.1 Khái niệm đọc hiểu văn bản……………………………………………………….6

1.1.2 Vai trò của bạn đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản…………………………7

2.2 Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: 10

2.2.1 Đọc hiểu thơ. 10

2.2.2 Đọc hiểu truyện: 12

2.2.3 Đọc hiểu kịch bản văn học……………………………………………………….19

Chương 2: RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂUTÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH QUAMỘT SỐ GIỜ HỌC TRÊN LỚP. 25

2.1 Đọc hiểu thơ. 25

2.1.1 Đọc hiểu tác phẩm thơ trung đại: 25

2.1.2 Đọc hiểu tác phẩm thơ hiện đại 33

2.2 Đọc hiểu truyện. 38

2.2.1 Đọc hiểu tác phẩm truyện trung đại………………………………………….38

2.2.2 Đọc hiểu tác phẩm truyện hiện đại…………………………………………….42

2.3 Đọc hiểu kịch bản văn học………………………………………………….48

Chương 3: RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH QUA CÁC DẠNG ĐỀ LUYỆN TẬP. 58

3.1 Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc tác phẩm qua các dạng đề luyện tập. 58

3.2 Giới thiệu một số bài làm của học sinh. 59

3.2.1 Kiểu bài phân tích, cảm thụ tác phẩm.. 59

3.2.2 Kiểu bài so sánh: 85

3.2.3 Kiểu bài nghị luận tổng hợp……………………………………………………..89

KẾT LUẬN.. 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 94

 

 

PHẦN MỞ ĐẦU

1.     Lí do chọn đề tài

Trong dạy học văn, đọc hiểu tác phẩm là khâu quan trọng nhất, gắn liền với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, thẩm văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cao đẹp cho nguười học. Bởi vì bản thân tác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo ra cho từng người đọc, và mỗi người đọc phải tự mình đọc lấy thì hình tượng, cảm xúc và nội dung mới từ văn bản dấy lên trong lòng mình. Rèn kĩ năng đọc hiểutác phẩm chính là làm cho học sinh có dịp trực tiếp đối diện với văn bản, tự mình khám phá văn bản và trau dồi năng lực tự học.

 

Mục tiêu cao nhất của dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ tác phẩm nào. Từ đọc hiểu tác phẩm mà tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó cũng là con đường để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó, hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc hiểu tác phẩm vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của học sinh.

Đối với học sinh chuyên văn, điều này càng có ý nghĩa.Nhất là khi đánh giá năng lực của học sinh giỏi không chỉ dừng lại ở các văn bản trong nhà trường. Học sinh chuyên văn cần tiếp xúc với nhiều nguồn văn bản, nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại ở nhiều nền văn học khác nhau. Vì vậy rèn kĩ năng đọc tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn là hết sức cần thiết. Để các em có thể biết đọc một văn bản, biết đâu là chỗ quy tụ thông tin, đâu là câu then chốt thể hiện tư tưởng của tác giả và thưởng thức được cái hay cái đẹp của tác phẩm. Từ đó, có thể vận dụng vào các bài làm văn, biết lựa chọn tác phẩm phù hợp để chứng minh cho những vấn đề lí luận văn học vô cùng phong phú và phức tạp, khiến cho bài văn nghị luận thêm sâu sắc, thuyết phục.

2.     Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

2.1 Nhiệm vụ

Hình dung những công việc cụ thể mà giáo viên cần làm để rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản, nhất là các văn bản ngoài chương trình trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Cụ thể là:

– Trang bị kiến thức về đọc hiểu văn bản nói chung và đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại cho học sinh.

– Hình thành ở học sinh năng lực đọc hiểu văn bản ngoài chương trình qua một số giờ dạy trên lớp.

– Rèn kĩ năng tự học, tự đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh qua các dạng đề luyện tập.

2.2 Phạm vi nghiên cứu

Tác phẩm văn học ngoài chương trình là một khái niệm có nội hàm vô cùng rộng lớn. Trong phạm vi của chương trình THPT và trong khuôn khổ chuyên đề này, chúng tôi chỉ giới hạn việc rèn kĩ năng đọc hiểu một số tác phẩm văn học bám sát các thể loại văn học, các giai đoạn văn học và một số nền văn học tiêu biểu được giới thiệu trong sách giáo khoa ngữ văn THPT.

3.     Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài này, chúng tôi lựa chọn và sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:

Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết

Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết

Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm

4.     Cấu trúc đề tài

Đề tài được chia làm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung gồm ba chương sau:

Chương 1. Trang bị kiến thức về kĩ năng đọc hiểu văn bản, đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại

Chương 2.Rèn kĩ năng đọc hiểutác phẩm ngoài chương trình qua một số giờ dạy trên lớp.

Chương 3. Rèn kĩ năng tự học, tự đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình qua các dạng đề luyện tập

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1.TRANG BỊ KIẾN THỨC VỀ KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VÀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

  • Đọc hiểu văn bản và vai trò của bạn đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản
    • Khái niệm đọc hiểu văn bản

Đọc hiểu là khái niệm có tính lịch sử, trong sự phát triển của nó gắn với các môn khoa học nói chung, phương pháp dạy học Văn nói riêng. Kể cả khi các nhà nghiên cứu phân tách khái niệm thành những bình diện nhỏ hơn, mỗi thuật ngữ: “đọc” và “hiểu” đều có sự ra đời riêng của nó.

Đọc là hoạt động diễn ra hàng ngày, hàng giờ quanh ta và dù đọc cũng như dạy đọc có lịch sử khoảng hơn một trăm năm qua thì phải từ nửa cuối thế kỉ XX trở lại đây nó mới thực sự là vấn đề được quan tâm của các nhà khoa học giáo dục trên thế giới, bắt đầu từ Anh, Mĩ và các nước phương Tây…

Hiểu dường như là là kết quả, là mục đích của đọc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng nhiều học sinh khi đọc một văn bản lại tỏ ra rất khó khăn để diễn giải những hiểu biết của mình. Điều này có nghĩa là việc đọc đã trở nên vô nghĩa. Vì vậy, mục đích chính của việc đọc là để hiểu những tư tưởng, thông điệp nhà văn muốn gửi gắm trong văn bản.

Khái niệm đọc hiểu khá thu hút sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Tâm huyết với vấn đề mới cả trong nội dung lẫn phương pháp dạy học này, GS.TS Trần Đình Sử chỉ ra bốn nội dung then chốt của việc đọc và bốn hành động hiểu trong đọc hiểu luôn gắn với nhau. Theo đó, “biên độ của hiểu đã được đẩy ra mọi chiều kích, từ mức độ đơn giản nhất là nhận biết cho tới mức độ cao nhất là đánh giá, vận dụng”. Từ hiểu đúng, HS có thể hiểu sáng tạo, vận dụng vào làm lấp đầy những vốn kiến thức sẵn có của mình.

GS.TS Nguyễn Thanh Hùng cũng là người kiên trì trong việc đưa đọc hiểu trởthành nội dung và phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông. Tác giả chỉ rõ “Đọc là một hành động của con người nhằm mục đích hình thành và nắm vững ý nghĩa từ văn bản trong quá trình nhận thức của việc đọc để mở rộng cảm giác và xúc cảm bằng sự nếm trải của người đọc”. Đi sâu vào đọc hiểu, ông nêu ra 119 kiểu đọc và ba kiểu bạn đọc: người đọc phổ thông hay người đọc thực tế, người đọc tinh hoa hay người đọc phát triển, người đọc trong nhà trường – bạn đọc học sinh. Hướng đến bạn đọc trong nhà trường, tác giả nêu ra bình diện sư phạm của đọc hiểu (cùng với các bình diện: văn hóa, triết học, nghệ thuật, tâm lí). [Nguyễn Thanh Hùng, Phương pháp dạy học Ngữ Văn ở THCS, NXB Đại học Sư Phạm] Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu vào các nội dung đọc hiểu TPVC: các tri thức đọc hiểu, các khái niệm đặc thù của nội dung đọc hiểu, đọc hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm và giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc hình tượng.

PGS.TS Nguyễn Thái Hòa định nghĩa: “Đọc – hiểu dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác cơ bản bằng cơ quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản” [Nguyễn Thái Hòa, Vấn đề đọc – hiểu và dạy học đọc hiểu, Thông báo khoahọc của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 5, tháng 4/2004.]. Bàn về các phương diện của khái niệm đọc hiểu, tác giả nêu ra các nội dung như chiến lược đọc ; các hình thức đọc hiểu; các cấp độ đọc – hiểu; kĩ năng đọc hiểu; đọc – hiểu và dạy học đọc – hiểu. Ngoài ra, tác giả còn bàn về phương pháp dạy đọc – hiểu và đề xuất các chiến lược, các hình thức, tiến trình dạy học đọc hiểu…

Người đem lí thuyết dạy học đọc hiểu của phương Tây vào Việt Nam là PGS Phạm Thị Thu Hương. Tác giả chỉ ra: “Bản chất của đọc chính là một quá trình phức tạp, tổng hợp, đòi hỏi cần sở hữu một hệ thống các kĩ năng. Hiểu là mục đích quan trọng của việc đọc… Đọc hiểu văn bản thực chất là quá trình người đọc kiến tạo ý nghĩa của văn bản đó thông qua hệ thống các hoạt động, hành động, thao tác nhất định. Hoạt động này không hề đơn giản, một chiều, một lần là xong, một lần là hết… Hoạt động đọc hiểu đòi hỏi người đọc cần tích cực, chủ động, khám phá, phải là những độc giả thực sự” [Phạm Thị Thu Hương, Dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông – một cái nhìn hướng ra thế giới, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ Văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Đại học Sư phạm]. Tác giả cũng nhấn mạnh, nhiệm vụ của những người dạy học đọc hiểu là phải giúp đỡ học sinh sử dụng những kĩ năng của người đọc một cách thuần thục, tức là dạy cho HS các chiến thuật đọc hiểu văn bản.

Như vậy, các nhà nghiên cứu đều đồng thuận rằng đọc hiểu có vai trò vô cùng quan trọng trong dạy học tác phẩm văn chương. Dù tiếp cận với khái niệm trên bình diện nào thì không thể phủ nhận vai trò của kiến tạo ý nghĩa và độc giả tích cực trong quá trình đọc hiểu văn bản. Bạn đọc thực sự lên ngôi, trở thành trung tâm của quá trình đọc hiểu và dạy học đọc hiểu.

1.1.2. Vai trò của bạn đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản

1.1.2.1. Quá trình đọc hiểu văn bản

Có nhiều nghiên cứu về quá trìnhđọc hiểu xảy ra vốn rất phức tạp nơi người đọc. Có nhà nghiên cứu cho rằng, người đọc khi đọc VB trải qua các giai đoạn khác nhau:

(1) Bên ngoài và bước vào thế giới VB – bằng cách sử dụng kiến thức, kinh nghiệm bản thân hay những đặc điểm trên bề mặt VB để hình thành ý tưởng hoặc những giả thuyết ban đầu về cốt truyện, nhân vật, tình huống;

(2) Bên trong và di chuyển trong thế giới VB – là khi chúng ta chìm đắm vào thế giới VB, sử dụng kiến thức về VB hay về chính chúng ta, về người khác để phát triển, làm đầy cách hiểu VB;

(3) Bước ra và suy ngẫm lại về những gì người đọc biết – thu nhận sự thấu hiểu từ thế giới về VB;

(4) Bước ra và khách quan hóa trải nghiệm – là giai đoạn người đọc suy ngẫm, đánh giá, phân tích ý nghĩa VB .

Các giai đoạn này không theo một đường thẳng mà nó trở đi trở lại tại bất kì thời điểm đọc nào và nó là kết quả của những tương tác khác nhau giữa một người đọc cụ thể với một văn bản cụ thể.

GS Đỗ Ngọc Thống nêu ra ba giai đoạn đọc và các chiến lược mà người đọc có kỹ năng thường sử dụng trước, trong và sau khi đọc. Cụ thể:

Trước khi đọc, người đọc:

– Sử dụng những kiến thức đã có để suy nghĩ về đề tài VB.

– Dự đoán về ý nghĩa có thể có của VB.

– Đọc lướt VB để cảm nhận bước đầu về nội dung VB.

Trong khi đọc, người đọc:

– Kiếm soát hiểu biết của mình về VB bằng cách nêu câu hỏi, suy ngẫm về những ý tưởng và thông tin trong VB.

Sau khi đọc, người đọc:

– Suy ngẫm về những ý tưởng, thông tin trong VB.

– Liên hệ cái họ đã đọc với kinh nghiệm và kiến thức của chính họ.

– Làm rõ cách hiểu của họ về VB.

– Phê phán, sáng tạo để mở rộng cách hiểu của mình. [Đỗ Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục]

1.1.2.2. Vai trò tích cực của bạn đọc trong việc kiến tạo ý nghĩa của văn bản

Hình tượng nghệ thuật được mã hóa bằng ngôn từ, bằng những hình ảnh mang tính biểu tượng. Do vậy, quá trình đọc là quá trình giải mã những thông tin trong VB. Tuy nhiên, nếu vai trò của người đọc chỉ dừng lại ở việc giải mã VB thì nội dung VB rất nghèo nàn cũng như đánh giá không đúng vai trò của bạn đọc. Bạn đọc trở thành đối tượng hoạt động tích cực trong kiến tạo ý nghĩa VB. Nghĩa được biểu hiện trong văn bản còn ý nghĩa là nội dung văn bản trong cách cảm nhận của người đọc. Như thế có nghĩa là, từ một ý cố định mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm, mỗi độc giả, với trình độ học vấn, tuổi tác, tâm sinh lí, hoàn cảnh sống khác nhau sẽ cảm nhận bức thông điệp khác nhau, làm đầy dần, kiến tạo dần ý nghĩa văn bản.

Chính “tầm đón nhận” rất khác nhau ở mỗi độc giả đã tạo nên tính đa nghĩa của TPVC qua mỗi thời kì. Tuy nhiên, người đọc không thể suy diễn tùy tiện ý nghĩa mà phải đảm bảo tính khách quan của cảm thụ văn học. Người đọc giữ vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng ý nghĩa của văn bản, tất nhiên không tính đến nhân tố rất quan trọng khác, đó là văn bản của tác giả. Truyện Kiều, dù mỗi thời đại, mỗi cá nhân có cách quan niệm khác nhau, thậm chí người ta còn lấy nó ra làm thước đo cho số phận của cuộc đời mình qua cách “bói Kiều” thì nó vẫn phải dựa vào điểm tựa là gốc văn bản của đại thi hào. Các ý kiến đưa ra trong giờ đọc hiểu văn nhấn mạnh vai trò của độc giả trong cảm thụ, cần đề cao, đón chào trong giảng dạy để phát huy tính cá thể của bạn đọc học sinh, nhưng vẫn cần dựa vào văn bản gốc và đặt trong hệ thống với tính hoàn chỉnh của nó để định hướng một cách hiểu đúng đắn, hợp lí, không làm sai lệch tư tưởng, chủ đề tác phẩm.

Một văn bản bất kì, theo Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung, thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp, là một biến thể liên tục của ngôn bản, thực hiện một hoặc một số đích nhất định, nhằm vào những người tiếp nhận nhất định”. Muốn hiểu nghĩa văn bản, người đọc cần tôn trọng sự hoàn chỉnh của văn bản, các yếu tố trong hệ thống văn bản có mối liên hệ vừa độc lập, vừa bổ sung cho nhau, mỗi hình thức thể hiện một nội dung cụ thể.

Kiến tạo ý nghĩa từ văn bản trong quá trình đọc hiểu đòi hỏi cần phải ý thức được mục đích tạo tập của từng văn bản, từng loại văn bản nói chung. Trong quá trình đọc hiểu văn bản,kiến tạo ý nghĩa là phải đi từ nội dung đến hình thức thể loại, chúng tất yếu xuyên thấm vào nhau. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc rất lớn vào người đọc cùng quá trình tiếp nhận: về tri thức, cảm nhận, quan điểm cá nhân, ngôn ngữ, những hiểu biết về hình thức, những phỏng đoán về nội dung… Dạy học đọc hiểu, khi nắm được cốt lõi của vấn đề – đề cao vai trò của bạn đọc tiềm ẩn trong mỗi cá thể sẽ đến gần hơn với thành công trên con đường kiến tạo nghĩa.

Như thế cũng có nghĩa là, một trong điều quan trọng nhất của khoa học giáo dục dạy học đọc hiểu là “hiểu” về người đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản.

Lí luận văn học quan niệm một vòng đời hoàn chỉnh của sáng tạo nghệ thuật là: hiện thức đời sống – tư tưởng của nghệ sĩ được hun đúc và trình bày trong tác phẩm – độc giả. Như vậy, độc giả có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành, kiến tạo ý nghĩa tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, sự hiểu của người đọc không diễn ra một cách tự nhiên, “trời cho”, mà có thể rèn giũa ngày một thuần thục – bạn đọc có kĩ năng đọc để trở thành độc giả tích cực trong quá trình đọc hiểu văn bản.

Tính tích cực của độc giả trong quá trình đọc hiểu văn bản không phải là sự dắt mũi của một cách hiểu đơn điệu của người đọc hiểu trước đó – là GV hoặc có thể là tài liệu hướng dẫn liên quan, càng không phải là cách suy diễn tùy tiện, không có căn cứ. Trong giao tiếp văn học, với đặc thù của cuộc giao tiếp vô hạn về không gian, thời gian, người đọc và tác giả có thể đối thoại, chất vấn với nhau về một chủ đề, đề tài nào đó, thậm chí cả khi không cùng thời đại.

1.2. Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại

1.2.1. Đọc hiểu thơ

1.2.1.1. Đặc trưng của thơ

Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú; thơ được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.

Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.

Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”. Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé chia sẻ: “Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc bàn tay đang viết”, “nhà thơ không viết một chữ nào nếu cả toàn thân không rung động” (dẫn theo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 01/2009). Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn M. Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc sống, không có thơ” (theo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương).

Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này.

Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy. Một miếng trầu đem mời, một cái bánh trôi nước, một tiếng gà gáy canh khuya có thể là những sự kiện gây cảm xúc cho Hồ Xuân Hương; sự kiện Dương Khuê qua đời trong “Khóc Dương Khuê” (Nguyễn Khuyến); cuộc đời tài hoa mệnh bạc của nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh kí” (Nguyễn Du),…

Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu… Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.

Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu…làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ. Bàn về đặc điểm này, nhà thơ Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường “.

Về cấu trúc, mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng (câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.

1.2.1.2. Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ

Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:

Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.Với những tác phẩm ngoài chương trình, để đọc hiểu nội dung ý nghĩa của tác phẩm, rất cần những kiến thức về hoàn cảnh ra đời, thời đại, tác giả để làm cơ sở cho việc lý giải hình tượng, tư tưởng mà tác giả gửi gắm. Nhất là với tác phẩm thơ trung đại, khoảng cách đối với học sinh không chỉ là ngôn ngữ, là thời gian, mà còn là văn hóa, tâm lý, trạng thái xã hội của thời đại. Vì vậy, để đọc hiểu những tác phẩm này, việc thu thập thông tin về hoàn cảnh ra đời, bối cảnh văn hóa, những yếu tố ngoài văn bản là vô cùng cần thiết.

Ví dụ, để đọc hiểu bài thơ Nỗi lòng của Đặng Dung, chúng ta không thể không biết những thông tin này. Cha con Đặng Tất, Đặng Dung, đều là những anh hùng hào kiệt, lừng lẫy ở thời Hậu Trần. Nhưng buồn thay, họ đều là những anh hùng lỡ vận, không gặp thời, lại không gặp được minh chúa. Cha (Đặng Tất), chết oan vì sự nghi kỵ ngu hèn của kẻ cầm quyền (Giản Định Đế). Con (Đặng Dung), chết uất hận trong tay giặc Minh, mặc dù họ đã có những cơ hội làm nên sự nghiệp lớn lao, giành lại giang sơn đất nước từ tay ngoại bang xâm lược.

Đặng Dung để lại cho đời một bài thơ bất hủ, bài thơ “Cảm hoài”, bên cạnh những chiến công oanh liệt và tấm gương hy sinh đẹp đẽ của chính ông. “Cảm hoài” có lẽ được danh tướng Đặng Dung viết vào thời điểm trước khi ông bị tướng Minh Trương Phụ bắt (1413). Sống lẩn trốn trong núi rừng, cảm thấy không còn cơ hội khôi phục sự nghiệp chiến đấu chống giặc, ông bày tỏ nỗi “cảm hoài” bi tráng của người anh hùng thất cơ lỡ vận…

Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định được chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn), đối tượng trữ tình, hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo của bài thơ.

Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ,… Đối với các tác phẩm thơ trung đại, cần đối chiếu bản dịch với nguyên tác để cảm thụ đánh giá đùng nội dung tư tưởng của tác giả.

Lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (thể hiện qua tác phẩm) cho thơ và cho cuộc sống con người.

 

1.2.2. Đọc hiểu truyện

1.2.2.1. Đặc trưng của truyện

Truyện ngắn là sự phá vỡ chiều hướng êm ả và sự cân bằng vốn đang trở thành vô nghĩa. Nó đẹp như một tiếng nổ của ánh sáng. …Trong dạy học truyện ngắn hiện đại, không nghi ngờ gì nữa, cần dạy cho học sinh phương pháp đọc hiểu và không nên lặp lại mãi một sai lầm là chỉ dạy học đọc diễn cảm bên ngoài. Mục đích đọc và đặc điểm thi pháp truyện ngắn hiện đại sẽ quy định sự lựa chọn dạng đọc, kiểu đọc, lối đọc, cách đọc, biện pháp đọc, kĩ thuật đọc…

Trong bối cảnh thông tin cấp tập, ngắn gọn và phong phú, con người muốn tồn tại thì cần phải biết lựa chọn. Truyện ngắn là kết quả của sự lựa chọn của người viết và là tiền đề của sự lựa chọn ở người đọc.

  1. Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ xinh, gọn ghẽ và truyền dẫn cực nhanh những thông tin mới mẻ. Đây là thể loại văn học có nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy”.

Truyện ngắn có khả năng sống và chớp lấy sự thật nếu không quá chăm chú vào cái đặc biệt độc đáo nổi lên như một hiện tượng đời sống. Sự thật ấy tiểm ẩn trong cái bình thường, trong những sự kiện hoàn toàn có thực bởi sự truyền ngôn chứ không phải là truyền thuyết để đem lại cho loại truyện ngắn những con người thực sự và sự thật về con người.

Truyện ngắn là sự phá vỡ chiều hướng êm ả và sự cân bằng vốn đang trở thành vô nghĩa. Nó đẹp như một tiếng nổ của ánh sáng. Nó giảm trừ tối đa sự lòng thòng nhân quả hay nói như R.Barthes, truyện ngắn tiềm tàng sự trục trặc, lăn tăn trong quan hệ nhân quả. Lí do đưa đẩy câu chuyện không phải là chuỗi liên tục sự kiện mà là một ám ảnh tâm hồn trong quá trình biến chuyển lương tri ở những thời khắc có ý nghĩa nhất của đời người. Với Chekhov, những thời khắc được xem là có ý nghĩa nhất lại chẳng có chút gì quan trọng cả. Trái lại có những thời khắc bất thường đã đem lại những tư tưởng lớn lao. Lấy thời khắc làm động lực và kết nối câu chuyện được kể, truyện ngắn nói chung ưu tiên cho “quãng giữa”. Phần đầu và phần cuối truyện thường phải được cắt xén đi để tránh sự kéo dài loãng nhạt. Mạch kể trong truyện ngắn không chỉ được sắp xếp theo thời gian tuyến tính mà theo sơ đồ ma trận (matrice) gồm có nhiều chiều khác nhau mà người đọc có thể đột kích thâm nhập cùng một lúc để thấy tất cả những chiều kích ấy cùng có mặt. Truyện ngắn tạo ra chiều hướng tiếp nhận đồng bộ và tiết kiệm thời gian. Có thể hình dung truyện ngắn là bức phù điêu ảo ảnh, là một khối vờn điêu khắc đa sắc về hiện thực.

Lối truyện ngắn quá khứ, mà những tay cự phách nhất như Edgar, Allen Poe, O. Henry, R. Kipling, A. Daudet, Guy de Maupassant đã tạo ra chuẩn mực lâu dài cho cả một thời là “chỉ gây một ấn tượng duy nhất trong tâm trí độc giả” và “chỉ cần một cốt truyện thôi” đã không còn phù hợp với truyện ngắn hiện đại nữa. Truyện ngắn kiểu đó “không có nhiều tiềm năng” (W. Saroyan) và không tạo ra được “sự phân vân giữa cái ngẫu nhiên và cái tất định để làm nên tâm trạng mê hồn bởi sự ảo giác song trùng (ambiguitig) và dường như có lẽ là thế (probabihte) trong nhận thức lương tri”.

Những công trình nghiên cứu hiện nay quan niệm về truyện ngắn hiện đại như sau:

Truyện ngắn hiện đại hoàn toàn mang đầy đủ tính thi ca, là thể loại có đẳng cấp tinh vi và toàn bích của văn học. Ngôn ngữ truyện ngắn khôngphải là sự thông báo mà như một công trình toán học để tạo ra một thế giới riêng trần trụi trong sự hài hòa tiếng nói và những mảnh vỡ hiện thực từ những yếu tố khác nhau hợp lại. Truyện ngắn hiện đại chấp nhận sự hỗn độn và tính bất quy luôn lấp lánh ánh sáng nhận thức.

Truyện ngắn hiện đại là một sản phẩm khá lạnh lùng. Người ta đánh giá cao truyện ngắn hiện đại bởi sự sáng tạo hạt nhân kĩ thuật, bởi sự tỉnh khô và tảng lờ những chi tiết không dồi dào tri thức. Truyện ngắn hiện đại đem lại cảm giác phơi bày sự bí mật của cuộc đời. Nói như nhà văn Mĩ F.O. Connor, “truyện ngắn hiện đại luôn tìm cách hình thành cái bí ẩn và có ít khả năng lí giải điều đó”.

Truyện ngắn hiện đại là một sản phẩm có những đường biên bắt đầu chạm tới được cái gì đó không thể nói ra lời mà lại gợi lên sự kì diệu của một mãnh lực. Sức mạnh lớn lao của mãnh lực đó là sự công phá để giải tỏa năng lực thể nghiệm nguyên tử của từ “Một từ xuất chiêu từ mật ngữ trồi lên, cuộc đời chấp nhận, ý nghĩa bừng lên. Mặt trời xuất hiện, trái đất lặng thinh. Và tất cả chẳng mấy chốc trốn vào trong nó. Một từ, một sự huy hoàng. Một cánh bay. Một ngọn lửa, một tia chớp hồi sinh. Một giải sao lấp lánh rồi tăm tối. Không gian bao la trống trải, thế giới và tôi còn lại trong từ” (Goftfried Benn). Ngôn ngữ có vẻ đẹp bí ẩn của truyện ngắn thực ra là kết quả đáng ngạc nhiên, bất ngờ lần đầu tiên nó được vận dụng để diễn tả mối quan hệ mới của cuộc sống. Truyện ngắn hiện đại hình thành nên sự soi sáng trong thi pháp truyện kể giữa ánh chạng vạng và ánh bình minh. Nó bước vào sự cực nhọc sáng tạo, chứ không tìm cách điều đình sự tán thưởng và thỏa mãn của người đọc.

Cái làm nên tính chất trật tự của truyện ngắn hiện đại là tinh thần, là quy luật của thế giới tinh thần này có tên là cách diễn đạt, sự chạm khắc và phong cách viết. Tất cả những gì còn lại chỉ là thứ yếu. Truyện ngắn hiện đại không nhằm vào đối tượng miêu tả. Nó là sự sản sinh suy tư cho người đọc. Giữa dấu hiệu và điều được miêu tả hàm chứa một sự kịch biến vì tư tưởng và hiện thực không thể hòa hợp làm một thành lí tưởng hiện thực trong truyện ngắn hiện đại như trong ngôn ngữ ngây thơ của truyện ngày xưa.

Truyện ngắn hiện đại không bao giờ là một dòng chảy trực tiếp tuôn trào từ trái tim hoặc từ tính ẩn dụ cũ kĩ mà lại không phá vỡ cách nói phản chiếu từ đời sống giao tiếp của ngôn ngữ đương thời. Lí thuyết của truyện ngắn hiện đại thuộc về việc sử dụng ngôn ngữ không cần cật vấn và có thể tảng lờ bình diện cú pháp mà lưu ý mối quan hệ giữa những yếu tố có mặt và những yếu tố vắng mặt trong truyện ngắn. Đó là bình diện ngữ nghĩa. Chắc chắn truyện ngắn hiện đại ngày càng ít đưa lại sự diễn đạt trực tiếp tình cảm như thế kỉ trước. Nó ít thể hiện và tham dự vào nỗi niềm cần được khuây khỏa như truyện ngắn quá khứ. Truyện ngắn hiện đại phát triển vượt ra ngoài sự tô đậm vào nghệ thuật ngôn từ và không tìm kiếm sự trả lời những câu hỏi chỉ đặt ra về sự thánh thiện, nhất là không thể cứ “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” theo kiểu nhà ngục văn chương mà lí giải nhục hình trần thế và cuộc đấu tranh với số phận để vượt qua giới hạn. Sự lớn lao của truyện ngắn hiện đại là chỗ nó không tìm kiếm sự tuyệt hảo, sự kết thúc trong yên tĩnh mà cố tình làm dịu êm số phận. Truyện ngắn hiệnđại không sát hạch hiện thực mà là khảo sát cuộc sống, mà cuộc sống không phải là những gì diễn ra, cuộc sống là những vùng đất của những khả năng của con người, là tất cả những gì con người có thể trở thành, tất cả những gì nó có thể là nó. Sống có nghĩa là tồn tại trong thế giới với những hiểm nguy luôn tước đoạt con người, do đó cần hiểu cả nhân vật lẫn thế giới của truyện ngắn hiện đại là những khả năng.

Đối tượng phản ánh lành mạnh của truyện ngắn hiện đại bao gồm cả ánh sáng và bóng tối, cả cái tích cực và cái tiêu cực. Ma vương và Quỷ biện là thảm họa của cuộc sống. Truyện ngắn hiện đại không thể cứ tiếp tục sai lầm là hí hoáy viết mãi những câu văn hiện tượng (phenotex) mà phải bắt ngòi bút viết được những câu văn khởi nguồn (genotexte) đào sâu vào sự nguy khốn trong thế giới của những mưu mô chẳng những còn manh nha mà đang tác oai tác quái tạo nên tấm thảm kịch nhân sinh. Đó là sự tập trung dần quyền lực với tham vọng kéo dài đi liền với sự thần thánh hóa, sự quan liêu hóa hoạt động xã hội trong các cơ quan thành những mê cung bất tận. Truyện ngắn hiện đại rất có ưu thế thâm nhập vào thế giới công sở quan liêu và viên chức.

Đây là thế giới của sự phục tùng có tính chất công vụ mà mục đích và phạm vi hoạt động ở ngoài tầm hiểu biết của con người đang thực hiện. Đây là thế giới của các cử động đang trở thành máy móc và không ai hiểu nổi. Họ làm việc với những kẻ vô danh và với hồ sơ lưu trữ. Đây là thế giới của biểu tượng quyền uy rất trừu tượng và cũng rất thực tế. Quyền lực mang trong nó tính mong manh bởi vì nó bị tiêu tan khi con người chia rẽ, nghĩa là nó mất tính chủ động mà luôn lệ thuộc vào kẻ khác. Theo nghĩa này quyền lực là mô hình hoạt động không để lại bất kì một sự nghiệp nào sau đó. Chủ đề này đáng để truyện ngắn hiện đại cảnh báo những nguy cơ tha hóa của con người.

Truyện ngắn hay, không phải là đẹp quá chừng, thật trôi chảy và ám ảnh mà thôi. Thế giới này đang cần sức mạnh nhận thức, đó là con đường cấp thiết để con người có thể chống lại nguy cơ dã thú. Một truyện ngắn có giá trị không phải là một tác phẩm được đọc một hơi khoan khoái về nó mà là ở chỗ người viết đưa ra và bảo vệ tới cùng những nhận thức khác thường và độc đáo của nó một cách dũng cảm, chống lại những thao túng bên ngoài để tự diễn giải về mình một cách trung thực hơn. Nói như Giả Bình Ao, sáng tác văn học hay, là “thật khi làm giả, giả thành thật, giả khi làm thật, thật cũng giả”.

1.2.2.2. Yêu cầu về đọc hiểu truyện

Nhiều truyện ngắn hiện đại đã được dạy và học trong nhà trường. Là người quen mặt với phương pháp và nhân danh sự hoài nghi, tôi có thể nói rằng không thể trông cậy nhiều vào hiệu quả dạy văn mà chỉ học văn mà trước hết là cần phải học đọc. Riêng đọc văn đã thấy nhiều dạng đọc, kiểu đọc, cách đọc, phương pháp đọc, biện pháp đọc, kĩ năng đọc, kĩ thuật đọc và nó chỉ ra trăm lối đọc khác nhau. Đó là đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm, đọc nhập vai, đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc tóm tắt, đọc toàn bộ, đọc trích, đọc thể nghiệm, đọc thử, đọc lướt, đọc chéo, đọc nhanh, đọc chậm, đọc nhẩm, đọc thuộc lòng, đọc nối tiếp, đọc mẫu, đọc theo, đọc đồng thanh, đọc cá nhân, đọc thăm dò cảm thụ, đọc bình chú, đọc thêm, đọc kĩ, đọc sâu, đọc sáng tạo, đọc vẹt, đọc hồi cố, đọc ngược cho mình, đọc cho người khác nghe, đọc nghệ thuật, đọc minh họa, đọc thi, đọc sơ bộ, đọc chơi, đọc lại, đọc bậy, đọc sai, đọc hiểu…

“Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được”, Nguyễn Đình Thi còn viết tiếp “Và khác với cách đọc riêng bằng tri thức, lần đọc thứ hai chậm hơn, đòi hỏi nhiều cố gắng hơn, nhiều chỗ chúng ta dừng lại hơn. Đã đọc lại, còn đọc chậm”.Chế Lan Viên cũng phụ họa thêm: “Ta nhớ Tố Như đọc chậm lại Kiều – đọc chậm từng vầng trăng, từng nỗi buồn li biệt”.

Dù có liệt kê ra hàng trăm lối đọc đi nữa thì vấn đề tối thượng vẫn là đọc văn để làm gì? và muốn có được kết quả có tính hiệu ứng thẩm mĩ trong mục đích đọc văn càng phải tính đến năng lực đọc có hiểu không, hiểu gì, hiểu thế nào nên sinh ra khái niệm đọc hiểu. Dạy học văn hiện nay, trong đó có dạy học truyện ngắn hiện đại cần dạy cho học sinh đọc hiểu chúng.

Đọc hiểu mang tính toàn diện. Trước tiên đọc hiểu là nội dung cần đạt của nghiên cứu và giảng dạy văn học, sau đó mới là vấn đề của phương pháp. Cơ sở chung của nội dung và phương pháp là lí luận đọc hiểu. Về điều này Hoài Thanh đã lưu ý: “Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều khi người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu”.

Đọc văn mà không biết một tí gì thì càng khó dạy đúng. Nhưng chắc chắn dạy đọc hiểu tốt thì học sinh sẽ hiểu nhanh hơn, hiểu kĩ càng, hiểu sâu sắc hơn, hiểu chính xác hơn, hiểu đầy đủ hơn và hiểu thêm ra được nhiều điều khó hiểu.

Cái khó của đọc hiểu là ở chỗ làm sao tìm được một hệ thống bao gồm những quy tắc chặt chẽ chi phối sự đa dạng của những cách đọc. Người đọc luôn phải ứng xử bằng cảm giác đối với gì trừu tượng của nội dung thể hiện trong truyện ngắn hiện đại. Song lại đánh giá nó theo những cách khác nhau, có khi lại dùng thước tấc cũ. Đọc hiểu truyện ngắn hiện đại không phải là mô tả, giải thích thể loại cùng cách dùng từ, đặt câu, mô tả tâm lí nhân vật hay tóm lược nghĩa lộ thiên của truyện mà phải đọc ra được nghĩa ẩn kín của tác phẩm.

Muốn đọc hiểu một truyện ngắn hiện đại phải có cách nhìn trong đó bao gồm sự định hướng và mức độ am hiểu. Điều đó buộc ta phải xét đến quy trình đọc hiểu bắt đầu từ sự tiếp cận rồi phân tích, đến cắt nghĩa và bình giá nhận định tác phẩm. Truyện ngắn hiện đại không hướng tới kết thúc mà hướng vào sự mở đầu. Vấn đề căn bản ở đây không phải là “Kết thúc bằng cách nào”mà là “mọi chuyện bắt đầu từ đâu”. Chữ mở đầu và câu văn thứ nhất của truyện ngắn là câu văn thao túng toàn bộ sự định hướng phát triển mạch truyện và người đọc. Nó chứa chất và châm ngòi, nó là sự đặt nền móng thận trọng và gian nan. Câu văn mở đầu truyện ngắn là câu văn chân thực nhất vì nó nảy sinh trong khoảnh khắc sáng tạo, thể hiện mong ước sôi sục nhất. Đó là tất cả những gì cần để khởi động câu chuyện, nó làm thất vọng sự đợi chờ kết thúc quen thuộc của người đọc. Đưa kết thúc vào thì truyện ngắn hiện đại lại trở nên không trọn vẹn. Truyện ngắn hiện đại không có tham vọng mô hình hóa toàn bộ cuộc sống mà chỉ có thể là một trường hợp nào đấy của hiện thực bỗng nhiên và chớp nhoáng làm cho toàn bộ cuộc sống nổi rõ hơn bởi sự bí ẩn của nó được khám phá nhờ tri thức của tác giả biết ghi nhận sự việc thường không ai ghi nhận, biết cảm giác những giá trị bị người đời bỏ qua, biết đưa ra nhiều khía cạnh của thế giới chúng ta hằng quen thuộc và xếp đặt lại theo cách mà chúng ta không hề nghĩ tới. Truyện ngắn hiện đại đi tìm sự giải thích có tính hữu hạn đối với sự vô hạn của toàn bộ cuộc sống. Tính hữu hạn ấy là sự nếm trải đầu tiên của mỗi người đọc. Sự cố gắng của mỗi người đọc là phải nắm vững sự nếm trải đầu tiên đó trong mối quan hệ tồn tại của mình với những ý nghĩ của mình trong ngôn ngữ hình tượng. Điều này dẫn tới sự hiểu biết tính văn học thông qua hình thức hóa và sự diễn đạt ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn. Truyện ngắn xuất hiện như là sự biểu lộ một cái nhìn, một sức vọng tưởng, một nỗi niềm tâm trạng, một suy tư của sự nếm trải. Có nếm trải mới biết đến cái sâu xa.

Muốn đọc hiểu một truyện ngắn hiện đại phải lưu ý tới người kể chuyện đã đành, không có người kể chuyện không có truyện ngắn nhưng người kể chuyện luôn ẩn mình. Ngay những truyện ngắn với người kể xưng tôi cũng là một thứ lảng tránh chủ thể phát ngôn. Nhà văn muốn làm mất cái tôi cá nhân mình để có được cái tôi nghệ thuật.

Ngoài người kể chuyện ra, ta cần biết còn tồn tại người tiếp nhận truyện kể. Nó là mắt xích trung gian giữa người kể chuyện và người đọc. Nó giúp vạch rõ hơn khuôn khổ truyện và xác định đặc tính người kể chuyện góp phần nêu bật những yếu tố chủ đề và sự phát triển cốt truyện.

Bỏ qua người tiếp nhận truyện kể thì khó có thể hiểu những gì bên ngoài ngôn ngữ truyện.

Cần lưu ý rằng, trong mắt người đọc, sự tiếp nối logic là loại quan hệ đáng tin cậy hơn nhiều so với truyện kể theo mạch thời gian. Dẫu sao khi đọc truyện có sự tiếp nối logic, đó cũng chính là sự giải thích ngầm của nhà văn về mối quan hệ nhân quả ở đời thì nhàn nhã hơn. Mạch truyện theo tuyến thời gian tỏ ra trung tính nhưng có khả năng đem lại nhiều hồ nghi và nghĩ ngợi cho người đọc. Nhưng trong truyện ngắn hiện đại, thời gian được thuần dưỡng, biến đổi theo yêu cầu của người kể chuyện muốn làm rõ nhịp sống trong suy tưởng người đọc. Điều này lưu ý chúng ta khi đọc truyện ngắn hiện đại cần phân biệt truyện kể và cốt truyện. Cứ khăng khăng bám riết cốt truyện như nguyên tắc phân tích bất di bất dịch thì chỉ tìm thấy sự cứng nhắc cổ điển vì cốt truyện chủ yếu được xây dựng trên quan hệ nhân quả làm mất hứng thú và niềm vui tìm tòi của người đọc khi có người “mách nước” kề bên.

Đọc truyện ngắn hiện đại mà hiểu được những điều đã đọc như thế nào mới là điều cần nói. Không phải một lúc có thể đọc truyện đã hiểu được ngay. Phải có thời gian và phải luyện tập qua thực hành đọc hiểu. Nguồn gốc, quá trình phát triển và sự biến đổi ý nghĩa của từ ngữ và đoạn văn liên quan đến trình độ ngôn ngữ của người đọc. Nhiều truyện tuy ngắn nhưng phải đọc thật chậm để hiểu rõ ý nghĩa nội dung, nhưng trong nhiều trường hợp ngược lại cần bao quát được mối liên hệ chung giữa các ý tưởng mà muốn thế phải đọc lướt thật nhanh. Khi đọc cần tập trung tinh thần, cố gắng theo dõi sát sao qua trình đọc, nghĩa là phải đọc kĩ để hiểu thấu đáo, phân tích sâu, ghi chép đầy đủ, nhớ chính xác và lĩnh hội đầy đủ toàn bộ truyện ngắn.

Cần đọc trọn vẹn truyện ngắn, đó là thái độ văn hóa và là phương pháp đọc văn phổ biến nhất, vì như thế để có tối đa sự phù hợp giữa ý nghĩ người đọc và ý nghĩa của truyện. Không đọc hết truyện, người đọc chưa thể phán đoán, nhận định tác phẩm một cách toàn diện.

Nghe đọc cũng có tác dụng tăng cường ấn tượng về truyện vì người đọc tiếp thu nội dung tác phẩm chẳng những bằng con mắt riêng của mình mà còn bằng “cặp mắt của người khác và nhất là để rèn luyện cách nghe đọc thì mới hiểu đầy đủ và sâu sắc giá trị của tác phẩm”.

Đọc đi đọc lại là một biện pháp đọc kĩ bên cạnh đọc chậm là kiểu đọc đào sâu vào quá trình đọc hiểu vì nó tạo ra ấn tượng vật chất về nhịp điệu của truyện ngắn, một thứ nghĩa ở ngoài nghĩa cần hiểu. “Trong đời sống của con người, không có quyền lực mạnh hơn nhịp điệu” (Papvlop).

Trong dạy học truyện ngắn hiện đại, không nghi ngờ gì nữa, cần dạy cho học  sinh phương pháp đọc hiểu và không nên lặp lại mãi một sai lầm là chỉ dạy học đọc diễn cảm bên ngoài. Mục đích đọc và đặc điểm thi pháp truyện ngắn hiện đại sẽ quy định sự lựa chọn dạng đọc, kiểu đọc, lối đọc, cách đọc, biện pháp đọc, kĩ thuật đọc trong kho tàng lí luận và thực tiễn nghiên cứu và dạy học văn đã tích lũy qua sự phát hiện của nhiều người.

 

1.2.3. Đọc hiểu văn bản kịch

1.2.3.1 Đặc trưng của kịch

Nói đến khái niệm kịch, cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, thuật ngữ kịch được dùng theo hai cấp độ. Ở cấp độ loại hình: “Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (Kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Kịch bản vừa dùng để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Theo đó tiếp nhận kịch bản chính là tiếp nhận phương diện của văn học kịch”. Nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói. (Riêng kịch câm không diễn tả bằng lời).

Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột mang tính phổ biến (giữa thiện và ác, giữa cao cả và thấp hèn, giữa ước mơ và hiện thực,…). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Nói đến kịch là nói đến kịch tính. Các kịch tính được hình thành, phát triển và giải quyết qua hành động kịch. Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học – sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này kịch còn được gọi là chính kịch”

Kịch thực ra không phải là một loại thể văn học đơn thuần, không nên đánh đồng kịch bản với nghệ thuật sân khấu nói chung bao gồm kịch nói, kịch hát, kịch múa, nhạc kịch… Bất cứ loại kịch nào, kể cả kịch câm cũng có kịch bản, nhưng chỉ có kịch hát, nhất là kịch nói mới có kịch bản văn học. Là đối tượng của lý luận văn học, kịch bản văn học là một trong 3 loại chính của văn học. Sự khác nhau giữa nó với thể loại trữ tình là điểm rất rõ nhưng với loại tự sự thì kịch còn có nhiều điểm tương đồng. Bêlinxki cho rằng: Tác phẩm kịch là “Sự dung hợp của các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình”, không phải chỉ trong loại hình kịch mới có sự dung hợp các yếu tố của loại hình khác. Trong thơ, truyện, ký đều có, nhưng kịch có ưu thế trong sự kết hợp khả năng biểu hiện của tự sự và trữ tình. Kịch là một thể loại văn học nhưng lại gắn liền sinh tử với sân diễn, sân khấu, vì thế kịch tất sẽ không bao giờ là một thể loại văn học đơn thuần như tự sự và trữ tình. Kịch bản viết ra vừa để đọc vừa để diễn, do đó đọc kịch bản văn học nếu chúng ta tách hoàn toàn với nghệ thuật sân khấu thì ta không thể nào hiểu được. Như vậy, nhìn từ góc độ nào ta cũng thấy kịch bản văn học là một bộ phận hợp thành của nghệ thuật sân khấu. Không phải ngẫu nhiên mà khi sáng tác kịch bản, nhà văn bao giờ cũng tính đến các yếu tố không gian, thời gian, khả năng biểu hiện nghệ thuật của các phương tiện sân khấu nhất là sự diễn xuất của các diễn viên. Nhưng kịch bản văn học không chỉ có đời sống gắn bó với nghệ thuật sân khấu mà nó còn có đời sống độc lập riêng của nghệ thuật ngôn từ. Có thể xem “Kịch”, “Kịch bản văn học” hay “Văn học kịch” như những khái niệm đồng nghĩa chính là vì thế. Muốn xác định đặc trưng thể loại của kịch bản văn học phải tính đến sự chi phối của nghệ thuật sân khấu.

Kịch tính là đặc trưng nổi bật nhất của kịch. Trong bài “Sự phân chia văn học thành loại và thể”, Bêlinxki đã nói về sự giống nhau giữa tự sự và kịch như hai phương thức biểu hiện đời sống. Theo Bêlinxki, kịch giống tác phẩm tự sự vì: Ở đây cũng hiện hữu một hành động xác định đang tự vận động cái bên trong, cái lý tưởng (tức là cái chủ quan) đã trở thành cái bên ngoài, cái hình thức (tức là cái khách quan). Muốn phản ánh đời sống trong tính khách quan, tác phẩm tự sự và kịch phải dựa vào một hệ thống sự kiện, biến cố được tổ chức thành cốt truyện. Tuy cùng xây dựng cốt truyện để phản ánh đời sống theo nguyên tắc khách quan, nhưng từ trong bản chất, kịch và tự sự là hai loại tác phẩm có nội dung thể loại rất khác nhau. Kịch khác tác phẩm tự sự ở kịch tính. Kịch tính là đặc điểm nổi bật của thể loại kịch. Không có xung đột, mâu thuẫn thì không có kịch tính. Kịch tính bao giờ cũng được tạo thành bởi những hành động đối nghịch. Không phải ngẫu nhiên, trong ngôn ngữ của nhiều nước Châu Âu, chữ “Kịch” đều có nguồn gốc từ tiếng HyLạp (đrama) mà nghĩa của nó là hành động. Và hơn hai nghìn năm nay, phạm trù “hành động” bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm của các hệ thống lý thuyết kịch. Aristote gọi bi kịch là “Sự bắt chước một hành động quan trọng và hoàn chỉnh”. Hegel cho rằng kịch phải trình bày cho chúng ta một biến cố, một kỳ công, một hành động, nhưng nó phải tước mất tính chất bên ngoài của chúng và phải đưa một cá nhân có ý thức và hành động vào thay thế. Ông nói tiếp “Hành động là cái ý chí được thực hiện và đây là một ý chí mà người ta biết nguồn gốc, điểm xuất phát bên trong cũng như kết quả cuối cùng”. Như vậy, hành động kịch bao giờ cũng bao hàm động cơ, mục đích, mưu đồ, do đó nó bão hòa nội dung tâm hồn, thể hiện khuynh hướng tính  cách và ý chí tự do của cá nhân con người. Làm nổi bật sức mạnh của hành động thể hiện khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người chính là đặc trưng thể hiện loại của tác phẩm kịch. Có thể định nghĩa, kịch tính là trạng thái căng thẳng đặc biệt của mâu thuẫn, xung đột, được tạo ra bởi những hành động thể hiện các khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người. Trong kịch, hành động bộc lộ ý chí tự do của con người làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột gay gắt giữa cá nhân và xã hội, giữa chủ thể với cái tất yếu, khách quan, thúc đẩy sự vận động của hệ thống sự kiện, biến cố trong cốt truyện, mang lại kịch tính cho tác phẩm. Cho nên, kịch tính không phải là dấu hiệu hình thức cũng không thuộc phương diện nội dung cụ thể như đề tài, chủ đề của tác phẩm mà là đặc điểm mang tính loại hình của nội dung thể loại.

Nếu kịch tính là đặc điểm của nội dung thể loại thì sự tập trung cao độ của cốt truyện là đặc điểm kết cấu của kịch bản văn học. Đây là đặc điểm gắn với yêu cầu biểu diễn của nghệ thuật sân khấu. Không gian và thời gian hạn hẹp của sân khấu đòi hỏi hành động kịch phải thống nhất và cốt truyện kịch phải có sự tập trung cao độ. Tính tập trung cao độ biểu hiện trước hết ở các bộ phận cấu thành cốt truyện kịch. Bộ phận cấu thành duy nhất của cốt truyện kịch là hành động được triển khai qua một hệ thống sự kiện diễn ra theo trật tự thời gian. Cốt truyện kịch thường đơn tuyến. Mỗi vở kịch thường chỉ tập trung phát triển một tuyến cốt truyện. Bởi vì, yêu cầu về sự thống nhất hành động cho phép mỗi vở kịch chỉ theo đuổi một mục đích, hướng vào một vài chủ đề then chốt, cơ bản, nhằm gợi ra một vài hứng thú nào đấy, mọi chi tiết cùng toàn bộ hệ thống sự kiện biến cố được sử dụng để tạo dựng cốt truyện đều phải dồn về một mối, hướng tới mục đích ấy, góp phần thể hiện chủ đề ấy, làm nổi bật cảm hứng ấy.

Để gây hứng thú cho người xem, thi pháp cốt truyện của kịch rất coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ. Muốn tạo ra cái bất ngờ, người sáng tác phải biết dẫn dắt các sự kiện biến cố rẽ vào những chỗ ngoặt, những bước nhảy vọt, những đoạn đột biến, biến cố trong cốt truyện phải được liên kết, tổ chức chặt chẽ, lôgich. Cho nên, thi pháp kịch vừa coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ, vừa chú ý tổ chức những chi tiết có chức năng giới thiệu, báo trước, đặt tính cách, số phận, động cơ, ý đồ của các nhân vật và các sự kiện, biến cố vào một quan hệ nhân quả tất yếu nhằm mang lại cho cốt truyện sự hấp dẫn mà vẫn tự nhiên. Cốt truyện của tác phẩm kịch lại thường phát triển với nhịp điệu mau lẹ, vì thế tác phẩm kịch không được phép mở rộng không gian, kéo dài thời gian diễn biến của các sự kiện, biến cố. Việc tôn trọng nguyên tắc về sự tập trung của cốt truyện đã chi phối cách thức tổ chức bố cục của kịch bản văn học. Một vở kịch thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương ứng với ba giai đoạn vần động hết sức mau lẹ của hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có phần trình bày) – đỉnh điểm – mở nút (có thể thêm phần vĩ thanh).

Kịch là nghệ thuật thể hiện hình tượng con người một cách sống động nhất, nhưng trong cuộc đời thực, người bình thường không thể nói to trước đám đông những toan tính xấu xa, những dục vọng thấp hèn của mình giống như các nhân vật trên sàn diễn. Cho nên, hình tượng con người trong kịch cũng thuộc loại hình tượng mang tính ước lệ cao nhất. Nó là nhân vật của trò diễn mà diễn viên là người đóng vai các nhân vật ấy trên sân khấu. Tác phẩm trữ tình, nhất là tác phẩm tự sự, tìm đủ mọi cách làm mờ tính chất trò diễn của nghệ thuật. Tính chất trò diễn lại thường xuyên được tô đậm, không cần che đậy trong kịch văn học và nghệ thuật sân khấu. Đây là đặc điểm ta dễ dàng phân biệt nhân vật kịch với hình tượng trữ tình và hình tượng tự sự.

Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch chịu sự chi phối, ràng buộc chặt chẽ bởi những điều kiện, luật lệ của nghệ thuật sân khấu. Như đã nói ở trên, do cốt truyện trong kịch bản văn học phải tập trung chính vì vậy mà số lượng nhân vật kịch không thể nào nhiều như tự sự, tiểu thuyết được. Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch được cụ thể hóa bằng chất liệu riêng. Tuy kịch bản không có nhân vật người kể chuyện, không cho tác giả tự do can thiệp, mách nước cho độc giả, vì kịch bản viết ra không phải để đọc mà là để biểu diễn trên sân khấu. Khi viết kịch bản, chất liệu quan trọng nhất mà nhà văn có thể sử dụng để xây dựng hình tượng nhân vật là lời thoại cùng với giọng nói của các nhân vật. Qua lời đối thoại và độc thoại, nhân vật kịch cất lên tiếng nói tự biểu hiện, tự bộc lộ thế giới nội tâm đầy bí mật của mình nhưng thế giới nội tâm của nhân vật kịch không phải là thế giới tự đóng kịch trong bản thân. Lời của nhân vật kịch là lời nói tác động tới các nhân vật khác trong một môi trường đối thoại giữa các lời nói khác nhau. Nhân vật kịch không được khắc họa với nhiều khía cạnh tỷ mỉ, các nhân vật kịch phần đông đều đơn giản về mặt bên trong hơn so với hình tượng tự sự. Tuy nhiên, tính cách nổi bật, xác định không có nghĩa là đơn giản một chiều, xoay quanh nét tính cách nổi bật còn có những nét tính cách khác vừa liên đới vừa biến thái làm cho gương mặt nhân vật sinh động, đa dạng hơn. Nhân vật văn học quả là tổng hợp của nhiều vai trò như vai xã hội, vai tâm lý, vai tư tưởng, vai tính cách. Trong tác phẩm tự sự, các vai trò này nhiều khi không đồng nhất với nhau. Vai trò của nhân vật kịch thường mang tính chất đơn nhất và hay bị đồng nhất với vai tính cách. Cho nên, thể hiện tính cách của nhân vật kịch vẫn là nhiệm vụ quan trọng của các vai diễn trên sân khấu.

Lời thoại là hành động, là phương tiện biểu hiện tính cách. Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện, cho nên không xuất hiện ngôn ngữ của người kể chuyện. Tuy vậy, vẫn có lời chú thích trực tiếp của tác giả, trước hết là nhằm nêu rõ thời gian, đặc điểm, bối cảnh của câu chuyện hoặc để nói rõ các hành động không lời của nhân vật, những lời hướng dẫn ấy chỉ có giá trị với người đọc, đạo diễn, diễn viên, còn trong lúc trình diễn chỉ có lời của nhân vật. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm kịch có ba dạng ngôn ngữ đối thoại (lời các nhân vật nói với nhau), ngôn ngữ độc thoại (lời nhân vật nói với chính mình, lời nói thầm của nhân vật) và ngôn ngữ bàng thoại (lời nhân vật nói riêng với khán giả). – Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ có tính hành động. Hệ thống ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao tác hành động, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lí thích hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu. Ngôn ngữ kịch là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống: súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Ngôn ngữ kịch mang tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật.  Trong kịch, thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Kịch khai thác triệt để chức năng hành động của lời nói, cho nên đây là đặc điểm thể hiện bản chất thể loại của ngôn ngữ kịch. Chức năng hành động của lời nói bộc lộ đầy đủ nhất trong lời đối thoại của các nhân vật. Trong đối thoại, muốn lời thoại trở thành hành động có kịch tính, mỗi lời nói phải bộc lộ một mục đích, một khuynh hướng ý chí. Triệt để khai thác chức năng hành động của lời thoại, kịch văn học sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện hữu hiệu để khắc hoạ tính cách. Tính cách nhân vật là một cấu trúc phức tạp. Trong tính cách vừa có yếu tố thuộc tâm lý, tính cảm, tính khí, khí chất, vừa có yếu tố thuộc tư tưởng, quan niệm, vừa có yếu tố thuộc về cá tính cá nhân, vừa có yếu tố thuộc về cái chung, cái xã hội.

1.2.3.2 Yêu cầu về đọc kịch bản văn học

Đọc kịch bản văn học cần chú ý đến những yếu tố sau:

– Xung đột kịch: Khi phản ánh đời sống, kịch chú trọng vào những mâu thuẫn vận động, phát triển ngày càng gay gắt, căng thẳng, biểu hiện thành hành động, hoạt động, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Đây là đặc trưng quan trọng của kịch so với các thể tự sự, trữ tình….Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực….Qua đó tác giả muốn gửi gắm một ý nghĩa tư tưởng nào đó tới khán giả qua xung đột kịch

– Hành động kịch: Hành động kịch là sự cụ thể hóa của xung đột kịch, đó là sự tổ chức cốt truyện với các tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến lôgic, chặt chẽ, nhất quán của một chỉnh thể nghệ thuật. Hành động kịch thường dồn dập, gấp gáp, quyết liệt

– Nhân vật kịch: Hành động kịch được thực hiện bởi các nhân vật kịch. Cũng giống như nhân vật trong các thể loại văn học khác, nhân vật trong kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm, tuy nhiên trong kịch phổ biến hơn. Vì mâu thuẫn xung đột giữa các tính cách là chủ yếu, cho nên yêu cầu của kịch là phải có những tính cách thật xác định. Phải đặt trong lòng các nhân vật những dục vọng, những khát vọng cao độ. Và khi trong lòng họ bùng cháy dục vọng thì họ là những con người rất sinh động, rất sống. Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định tính cách nhân vật.

– Ngôn ngữ kịch: các nhân vật được xây dựng bằng ngôn ngữ của họ; mang tính hành động, thường mang tính tranh luận, biện bác; gần gũi với đời sống (súc tích, dễ hiểu, mang tính khẩu ngữ); có các loại ngôn ngữ:Ngôn ngữ đối thoại: lời của nhân vật nói với nhau. Là thành phần lời văn quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt tạo nên cấu trúc của kịch bản văn học.Ngôn ngữ độc thoại: lời của nhân vật bộc lộ tâm tư tình cảm của mình. Bàng thoại: lời nhân vật nói với người xem

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 2.RÈN KĨ NĂNGĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH QUA MỘT SỐ GIỜ DẠY TRÊN LỚP

 

Số lượng tác phẩm ngoài chương trình là vô hạn trong khi thời lượng chương trình dành cho việc rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm cho học sinh là hữu hạn. Do đó, chúng tôi chỉ lựa chọn một số tác phẩm tiêu biểu của các thể loại khác nhau, các giai đoạn văn học khác nhau, các nền văn học khác nhau để cùng học sinh khám phá, tìm hiểu trên lớp. Qua những giờ học này phần nào giúp các em hình dung được các bước cần phải đi, những kĩ năng cần nắm được khi các em có thể tự mình tiếp xúc với tác phẩm trong khi giải quyết các bài tập về nhà, khi tìm đọc những tác phẩm mà các em hứng thú. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số thiết kế giờ dạy đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình mà chúng tôi đã thử nghiệm, mong được các bạn đồng nghiệp trao đổi thêm để ngày càng hoàn thiện hơn.

2.1.         Đọc hiểu tác phẩm thơ

2.1.1.  Đọc hiểu tác phẩm thơ trung đại

 

SỞ KIẾN HÀNH

(NHỮNG ĐIỂU TRÔNG THẤY) – Nguyễn Du

I.Tìm hiểu chung:

  1. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
  • Sở kiến hành trích từ Bắc Hành Tạp Lục là một trong ba tập THƠ CHỮ HÁN của Nguyễn Du được sáng tác từ đầu tháng hai đến cuối tháng chạp năm Quí Dậu (1813) và đầu xuân Giáp Tuất (1814) trong chuyến sứ trình sang Bắc Kinh của nhà Thanh nước Trung Hoa.
  • Tập thơ gồm 132 bài thơ qui tụ trong 109 đề tài khác nhau từ những nhận xét các nhân vật lịch sử, ngâm vịnh cảnh sắc hoặc ghi nhận cảm xúc và tâm sự trên đường đi sứ. Đồng thời, qua tập thơ chúng ta cũng đã thấy những chuyển biến tích cực về tư tưởng đạo Phật mà Tố Như thường thao thức, suy nghĩ, tu tập từ những giai đoạn còn ở ẩn nơi dãy Hồng Lĩnh.
  • Trong tập thơ này, giữa “những điều trông thấy” (Sở kiến hành) cũng như tìm hiểu con người và nước Trung Hoa, tâm tư của ông vẫn còn nhiều băn khoăn, trăn trở để khi đến “Phân Kinh thạch đài” (đài đá chia kinh) mới ngộ ra được lý lẽ sâu xa của đạo Phật từ kinh sách và cuộc đời. Rải rác trong nhiều bài thơ, chúng ta cũng thấy được mong ước của một Tố Như muốn xa lánh cuộc đời với nhiều phiền toái của danh lợi, lắm sự ô trọc không phù hợp với ông, một nhà nho thấm nhuần tư tưởng đạo Lão, đạo Phật.
  1. Thể loại:
  • Bài thơ “Sở kiến hành” được dịch khá chính xác: “Những điều trông thấy”. Tuy nhiên, chính xác hơn thì phải dịch là “Bài hành về những điều trông thấy”.
  • Theo Triều Nguyên thì “Hành: là bài thơ, thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến; thể thơ cổ phong thường được sử dụng để sự biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc.
  • Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng thể thơ 5 chữ (ngũ ngôn cổ phong) để kể lại một câu chuyện. Ông nhìn thấy bên đường lớn kia có một người mẹ dắt díu ba người con đi ăn mày. Người con lớn nhất thì tay mang chiếc giỏ tre. Đứa bé nhất thì được mẹ ẵm. Họ sẽ làm mồi cho lang sói.Thương người mẹ, nhưng thương nhất là ba đứa con, “nỗi lòng đau đớn lạ thường, trông lên mặt trời như vì người mà vàng úa”. Nhà thơ lại nghĩ đến hôm qua ở trạm Tây Hà, người ta cung đón cho đoàn mình nào là gân hươu, vây cá, thịt lợn, thịt dê đầy mâm cỗ.

Các quan lớn không chọc đũa vào đã đành, mà kẻ tùy tùng cũng chỉ nếm qua, rồi đổ cho chó nhà hàng xóm, mà chó cũng chán chê không thèm ăn. Chẳng ai nghĩ đến cảnh bốn mẹ con nhà kia cùng cực đang đợi cái chết bắt đi.

 

  1. Đọc – hiểu văn bản

 

  1. Đọc diễn cảm:
  2. Tìm hiểu bố cục:
    • Mười hai dòng thơ đầu: Bức tranh hiện thực về cảnh đời bồn mẹ con người ăn mày
    • Mười tám dòng tiếp: Nỗi cảm thương, đau xót của nhà thơ
    • Mười dòng tiếp: Bức tranh hiện thực về cảnh đón tiếp sứ thần nước Nam của quan lại phương Bắc
    • Hai dòng cuối: Câu hỏi của nhà thơ
  3. Phân tích:
    • Mười hai dòng đầu

Mười hai dòng đầu là thoáng gặp ngẫu nhiên, bất chợt của Nguyễn Du về một hiện tượng không hiếm trên con đường xuyên Trung Quốc của quan chánh sứ:

Một mẹ cùng ba con,

Lê la bên đường nọ,

Đứa bé ôm trong lòng,

Đứa lớn tay mang giỏ.

Trong giỏ đựng những gì?

Mớ rau lẫn tấm cám,

Nửa ngày bụng vẫn không,

Áo quần vẻ co dúm.

Gặp người chẳng dám nhìn,

Lệ sa vạt áo ướt,

Mấy con vẫn cười đùa,

Biết đâu lòng mẹ xót?

Cái nhìn từ xa đến gần. Từ một hiện tượng lạ gây chú ý đến một sự thu hút thật ám ảnh. Thực ra, ngay 2 dòng đầu, ta đã thấy cái nhìn rất riêng của Nguyễn:

“Hữu phụ huề tam nhi,

Tương tương tọa đạo bàng”.

Nguyễn Du không dùng “mẫu” (mẹ) mà là “phụ” (người vợ, người đã có chồng) với nhiều  ngụ ý:

Một người vợ dắt díu ba đứa con“.

Nhìn từ bên này sang bên kia đường thì họ ở tầm tương đối xa, Nguyễn Du mô tả:

“Họ mới được dừng lại nghỉ ngơi bằng cách ngồi bên vệ đường lớn”.

Chữ “tương” thứ nhất nghĩa là “cùng, là phản ánh sự kiện cho người bên kia nhìn thấy”. Chữ “tương” thứ 2 nghĩa là “thấy, mới, nghỉ ngơi”.Tưởng là 2 dòng tường thuật giản dị. Ai ngờ đã có cặp mắt của một nhà nhân đạo vĩ đại. Chi tiết thì nhỏ nhưng ý nghĩa thì lớn.  So sánh với một đoạn trong “Trở binh hành” trong “Bắc hành tạp lục” thì chắc có câu trả lời:

“Cát bụi cuộn mặt trời che khuất

Bộ, kỵ binh chạy dọc chạy ngang

Kỵ binh cung cứng sừng cong

Tên dài đầy ống màu lông trắng ngần

Bộ binh lại tay cầm dao ngắn

Gươm mới mài có gắn tua hồng

Lại thêm khí giới tân binh

Chặt tre làm giáo vỏ xanh tươi màu

Xe lớn chở cung dây đầy ắp

Xe nhỏ thì chở rặt chông dài

Suốt ngày đi mãi chẳng ngơi

Cả hàng trăm dặm bời bời binh đao”

Đâu đâu cũng loạn lạc. Ngay cả phái đoàn đi sứ của Nguyễn cũng phải tìm cách vượt khỏi sự cản trở của binh đao. Kị binh, bộ binh và cả các tân binh cùng với đủ xe lớn xe nhỏ cung ứng cho chiến trường… Làm sao không mất mùa? Làm sao không loạn lạc?

Người chồng ấy là cựu binh? Là tân binh? Hay đã là một người vừa dãi thây ngoài chiến địa?… Chỉ biết 4 mẹ con thật thê thảm. Họ lấy vệ đường làm nhà lưu động; lấy sự dắt díu nhau như bèo dạt mây trôi làm tổ ấm; lấy xin ăn may rủi để tồn tại…Như người bóc tách từng tầng củ hành tây. Nhà thơ nhìn gần vào các thành viên trong gia đình khốn cùng đó:Một đứa đang ẵm trong lòng mẹ ắt hẳn là còn rất nhỏ. Nếu không còn phải bú thì chân còn chập chững, không thể theo cuộc hành trình mưu sinh của nghề ăn xin! Vì còn nhỏ quá cho nên đứa bé chỉ cần ăn, ngủ và chơi là đã thực hiện hết bổn phận của nó!Đứa lớn có lẽ cũng chẳng lớn bao nhiêu. Bởi đứa thứ hai không nói đến. Nhưng nó đã có thể “lớn nhất” có thể trong vai trò giúp mẹ. Nó cầm giỏ để đi ăn xin…

Đôi mắt nhân đạo của nhà thơ đã bóc tách lớp thứ ba của hiện thực. Cái giỏ tre đựng những gì mà trông như nặng thế, xùm xuề nhiều thứ thế?

“Khuông trung hà sở thịnh?”

Hóa ra chỉ có một mớ rau lẫn với tấm cám!

Trong nguyên tác:“Lê hoắc tạp tì khang”

Thực ra, trong giỏ tre của đứa trẻ có 4 thứ “tạp phí lù” trộn lẫn lộn xộn với nhau. Rau Lê, rau Hoắc và rau Tỳ đều là những thứ cây cỏ dại mọc hoang nơi ngóc ngách bẩn thỉu. Chúng là thứ thực vật thảng hoặc người ta dùng vị đắng, vị chát của nó làm thuốc chứ để ăn thì… trâu bò cũng còn chê!

Cũng cần lưu ý, hai thứ rau Lê và Hoắc có thể gọi là rau dại bởi chúng mọc ở ruộng vườn. Riêng lá cây Tỳ chính là lá cây Sơn Trà. Loại cây này còn có tên là cây Chua Chát, cây Gan hay Táo Mèo, Táo Gai được dùng làm thuốc ở cả phương Đông và phương Tây hàng chục thế kỷ qua. Cây Tỳ này thường trồng bên đường hoặc trồng làm hàng rào…

Có hiểu kỹ như vậy mới biết được bữa ăn trước đó có Tỳ Khang (lá Sơn Trà và tấm cám có vỏ trấu). Biết đâu 4 mẹ con có thể hái được những quả Táo Gai?

Nhưng bữa hôm nay có Lê và Hoắc là hai loại rau Đắng và Chát trộn với lá Tỳ Chua còn sót lại với vỏ trấu… Sự kiệt cùng đang đẩy mẹ con đến bước đường cùng!

Nhà thơ chỉ nhìn giỏ rau mà biết:“Nhật yến bất đắc thực”.Ngày đã muộn, trưa đã đến rồi nhưng không được ăn. Hai chữ “Nhật yến” có nghĩa là trời trong mây tạnh. Bởi vì tiết lạnh nên buổi trưa mới có được bầu trời đẹp thế này.Quả là trời đất quá vô tình với sinh mệnh mỏng manh của những người đói khát! Bao nhiêu người no đủ đang thưởng lãm bầu trời. Nguyễn Du nhìn nó mà thấy cay đắng cùng bốn mẹ con khốn khổ!

Bất ngờ nhà thơ mô tả cách ăn mặc và dáng điệu của họ:

“Y quần hà khuông nhương!”

Bản dịch: “Áo quần vẻ co dúm.

Có nơi dịch: “Áo quần thật lam lũ.

Thực ra, chữ “khuông” ở đây là cái gọng (kính), cái khuôn đã cố định, đã bó buộc trong một hình thức; chữ “nhương” là “Cầu cúng để trừ khử tà ác hoặc tai dị”.

Tiếp theo, nhà thơ dùng thủ pháp đối lập để cho thấy nghịch cảnh:

“Kiến nhân bất ngưỡng thị,”

Nhìn người, không dám nhìn thẳng, nhìn lâu. Chữ “ngưỡng thị” ở đây đối lập với “miệt thị”. Đôi mắt người mẹ muốn tỏ ra sự thành kính, muốn chờ đợi sự cảm thông của người nhưng sợ sự miệt thị nên đành phải giấu kín thái độ ấy của mình.

Gặp người chẳng dám nhìn, lệ sa vạt áo ướt

Gặp người chẳng dám nhìn,

Lệ sa vạt áo ướt,

(“Kiến nhân bất ngưỡng thị, lệ lưu khâm lang lang”)

Người xưa thường dùng hai tiếng “ngưỡng thị” để chỉ sự kính mộ Thần Phật. Cho nên thường dịch là “ngửa mặt lên nhìn”. Hành động cúi đầu tiếp theo của người mẹ cho ta gặp tâm hồn Thiện Lương chân chất của chị. Với những người mà chị cầu cạnh để xin ăn, chị coi họ như Bồ Tát cứu sinh rảy nước cam lồ cho thân phận bốn mẹ con vậy!

Lệ lưu khâm (vạt áo trước) lang lang (Lệ sa vạt áo ướt)

Hai chữ “lang lang” 浪浪 có nghĩa là nước chảy băng băng, là những con sóng nhấp nhô. Ở đây, “Lệ chảy vạt áo trước ngực như những đợt sóng lớn“.

Có lẽ, Nguyễn Du đã nhìn thấy người vợ thiếu chồng ấy khóc thảm thê. Tấm thân gầy và bộ ngực lép của chị cử động nhấp nhô theo từng cơn nức nở nên Nguyễn nhìn ra sông lệ, sóng lệ?Chỉ cần nhìn dòng thơ chữ Hán tất cả 5 chữ thì 4 chữ có bộ THỦY. Và chữ KHÂM chứa chữ Kỳ (Y) vốn nói về lễ phục bái vọng Thần Linh, chúng ta đã có thể khóc cùng người mẹ này rồi. Đây là ưu thế của phép lặp trong chữ Hán mà chữ ghi âm chúng ta không có: Mẹ thì nước mắt xối như mưa nhưng:“Mấy con vẫn cười đùa,Biết đâu lòng mẹ xót?’

Có thực là 3 đứa trẻ cùng vui đùa? Và chỉ một mình mẹ nó xót thương đớn đau đứt ruột? Với lại, đến bữa rồi mà cái bụng chưa được ăn liệu chúng có đủ sức mà vui cười?

Chỉ có đứa trẻ nhỏ kia được bú. Dù là đang vắt kiệt sức tàn cuối cùng của mẹ nhưng nó đủ hồn nhiên để vui cười. Có chăng thì đứa thứ hai đang gượng đóng kịch để dỗ em, đang dùng tiếng cười vô tâm ấy làm món tinh thần thay cho bữa cuối cùng của cả nhà!

  • Mười tám dòng tiếp:

Từ một người kể chuyện đứng bên ngoài sự kiện, Nguyễn Du đã nhập hồn vía mình vào trong nỗi lòng người Mẹ, nói thay cho Mẹ. Đó là đoạn 2 của bài hành:

Lòng mẹ xót vì sao?

Đói kém phải phiêu bạt.

Nơi đây mùa khá hơn,

Giá gạo không quá đắt.

Quản chi bước lưu ly,

Miễn sống qua thì đói.

Nhưng một người làm thuê ,

Nuôi bốn miệng sao nổi!

Lần phố xin miếng ăn,

Cách ấy đâu được mãi!

Chết lăn rãnh đến nơi,

Thịt da béo cầy sói.

Mẹ chết có tiếc gì,

Thương đàn con vô tội,

Nỗi đau như xé lòng,

Trời cao có thấu nổi?

Đọc 3 câu nguyên văn bằng chữ Hán, cảm giác xót xa đến trào nước mắt:

“Quần nhi thả hỉ tiếu,

Bất tri mẫu tâm thương,

Mẫu tâm thương như hà?”

Những đứa con thì “Quần nhi hỉ tiếu” mà mẹ của chúng thì nỗi bão giông xâu xé. Hai câu thơ có kết cấu xoay vòng. Người Mẹ cố dứt khỏi vòng xoay định mệnh thì vòng quay ấy siết càng chặt, càng kéo mẹ vào gần tâm của chiếc máy vô tình tàn nhẫn ấy!

Mở đầu là “Bất tri” (không biết) và kết thì lại càng rối loạn “như hà” (như thế nào? Vì sao?)

Cả một cụm từ “mẫu thương tâm” (“mẹ đau xót tấm lòng”) được lặp lại cho thấy cái quẫy đạp trước lúc chết của mẹ chính là nỗi đau khôn cùng của tình mẫu tử.

Câu thơ đầu Nguyễn Du khách quan gọi người đàn bà này là PHỤ (vợ). Đến đây người ấy được gọi là MẪU (mẹ)

Không biết ông quan Chánh Sứ dừng chân được bao lâu ở bên này đường để nhìn 4 mẹ con bên kia mà ông dường như đọc được hết cả một thân phận con người!Chỉ có một trái tim nhân đạo thật vĩ đại, nhà thơ mới hiểu được hoàn cảnh nào đẩy đưa gia đình này tới tuyệt lộ.Thực ra, là người ngoại quốc, là Thượng Khách nhưng hầu như không có gì lọt khỏi cặp mắt sắc sảo của Nguyễn Du.Bối cảnh loạn lạc, dân tình đói khổ. Người ăn xin la liệt. Và cụ thể đến mức Nguyễn Du đã nhìn thấy người chết đói ngay trên đường lớn. Khi chết, hạt táo gặm hết thịt, lăn nằm cạnh người:

“Nơi đây hạn hán mất mùa

Hồ Nam. Hồ Bắc không mưa lâu ngày

Cả trai gái mặt mày xanh mét

Cám làm cơm, canh rặt rau lê

Thây ai chết đói giữa lề

Còn nguyên hột táo lăn ra giữa đường

Vách nhà trống còn in rõ chữ

Hàng mấy trăm hộ đói chết lần

Khổ thay cho phận người dân

Chén cơm manh áo chẳng cần tử sinh”

(Trở binh hành –Trương Việt Linh dịch )

Vì thế, Nguyễn Du biết người phụ nữ này đã bỏ quê hương mất mùa đói kém để đến với  “dị hương”. Nơi đây không mất mùa, giá gạo không đắt đỏ. Nơi đây, nếu dùng sức lao động của mình có thể chạy bữa được cho cả nhà. Nơi đây là cái phao cấp cứu cho mình sống qua cơn đói kém rồi sẽ liệu về cố hương…Đó là tính toán rất lành mạnh của một người lao động đã chịu quá nhiều bất hạnh. Người Mẹ tin mình sẽ làm được điều đó.

Nhưng thực tế lại đâu giống như tưởng tượng. Người Mẹ phát hiện ra cái thực tế kinh người: Một mình thân yếu liễu tơ lại dắt díu 3 đứa con thì không thể nào dùng sức lực càng lúc càng khánh kiệt để nuôi 4 miệng. Đói đầu gối phải bò. Không còn cách lựa chọn nào khác, Mẹ phải dắt đàn con đi ăn mày.

Khi mà ăn mày nhan nhãn khắp nơi, người chết đói khắp nơi, tình thương của con người là thứ xa xỉ thì người Mẹ hiểu rằng: Lần theo những con đường nhỏ loanh quanh vắng người, với sự mặc cảm không dám mở lời với kẻ đối diện thì: “Cách ấy đâu được mãi”. Không biết đây là lời của Nguyễn Du hay là tiếng nói bên trong của người mẹ:

“Cảnh chết lăn bên ngòi rãnh, trông thấy trước rồi. Máu thịt nuôi sài lang.”

Đứng trước tình huống, cái đói thành bản án tử hình không tránh khỏi, người Mẹ không sợ chết:“Mẹ chết không đáng tiếc,”Chỉ đau buồn cho bầy con của mình:“Vỗ về con mà càng đứt ruột, Lòng đau xót vô cùng,”

Ở trên, có câu thơ tả mặt trời thật trong xanh thoáng đạt:

Nhật yến bất đắc thực(Mặt trời trong lành thế mà mấy mẹ con chưa được ăn bữa trưa!)Thời gian chỉ mới trôi qua thoáng chốc mà mặt trời cũng vì người mà đổi thay đến kinh hoàng:Thiên nhật giai vi hoàng(Mặt trời nhìn thấy mấy mẹ con sắp chết mà trở nên vàng úa!)

Trước hết, thật bất ngờ là cơn gió lạnh, gió như từ cõi âm bỗng dưng nổi lên:“Âm phong phiêu nhiên chí”,Cơn gió khiến cho Người đi đường bi thương, đau buồn đến mức phải kinh hoàng sợ hãi“Hành nhân diệc thê hoàng”.(Gió lạnh bỗng đâu về/ Khách đi đường rầu rĩ)

  • Mười dòng thơ tiếp

Nguyễn Du không ngẫu nhiên, bỗng dưng mà nhớ:

“Đêm qua trạm Tây Hà

Mâm cổ sang vô kể?

Nào vây cá, gân hươu,

Lợn dê mâm đầy ngút,”

Một bữa tiệc toàn những sơn hào hải vị; toàn những món ngon không biết lấy bao nhiêu tiền sưu thuế của dân đen để có. Ấy vậy mà:

“Quan lớn không gắp qua,

Các thầy chỉ nếm chút.”

Quan lớn và những tùy tùng tay chân của quan rất hững hờ với bữa tiệc. Hai câu thơ gợi cho ta thấy sự xa hoa, thừa mứa, vô liêm sỉ của lũ quan to nhỏ trong trạm Tây Hà đêm qua.Với bọn họ, ngày nào cũng là tiệc, ngày nào cũng phủ phê. Vì thế:

“Thức ăn thừa đổ đi

Quanh xóm no đàn chó,”

Câu thơ: Bát khí vô cố tích cho thấy cái chặc lưỡi của nhà thơ. Tất cả bữa tiệc dường như còn nguyên vẹn ấy người ta gom lại, dứt khoát bỏ đi mà không hề tiếc của, không hề xuýt xoa!Nó khiến cho đàn chó nhà hàng xóm ăn riết rồi chán cả cao lương: Lân cẩu yếm cao lương.

Sự mô tả về sự phung phí của quan lại trong đêm đãi yến ấy tạo ra một liên tưởng bất ngờ:

Bất tri quan đạo thượng

Hữu thử cùng nhi nương

(Không biết trên đường quan, có Nhi nương cùng cực này!)

Người phụ nữ ăn mày bắt đầu được Nguyễn Du gọi là Phụ (vợ), tiếp theo ông gọi Mẫu (mẹ). Và giờ đây ông gọi NƯƠNG (người con gái trẻ). Nguyễn Du đi sứ tuổi ngót nghét 50. Ông coi người mẹ trẻ ấy như con cháu mình? Ông nhìn thấy cái Đẹp trong nhân cách người mẹ mà cảm nhận cái đẹp của hình thể? Ông hy vọng nhà vua sẽ nhìn được bức tranh và số phận của bốn mẹ con có thể được cứu?… Thật khó nói về cái chữ Nương rất bất ngờ này!

“Biết đâu bên đường quan,

Có mẹ con cực khổ!”

Ai là Sài Lang, là thú hoang, là lũ “nhai xé thịt người ngọt xớt như đường?”. Liên tưởng câu thơ trên:“Huyết nhục tự sài lang” (Máu thịt của bốn mẹ con ăn mày làm thức ăn chăn nuôi cho lũ sài lang!).

Chữ TỰ (cho ăn, chăn nuôi) ở đây đầy ngụ ý!

  • Hai dòng thơ cuối

Hai câu cuối nhắc về một điển tích trong “Tống Sử”:

Khi Vương An Thạch làm tể tướng, hạn hán mất mùa, dân tình đói rét. Họ phải dỡ nhà bán. Ăn mày kéo đi đầy đường. Tình cảnh triều đình đầy phe phái cộng thêm thiên tai không ngừng như vậy, nên quyết tâm thực hành tân pháp của Tống Thần Tông dao động Năm Hi Ninh thứ 7 (1074), phương Bắc gặp hạn hán  càng nghiêm trọng, quan viên Trịnh Hiệp trình lên Tống Thần Tông một tranh về lưu dân, cảnh tượng trong tranh rất bi thương, Tống Thần Tông bị tác động mạnh về tâm lý. Ngày hôm sau, Tống Thần Tông liền hạ lệnh bãi bỏ một số điều. Tống Thần Tông và Vương An Thạch bắt đầu không tín nhiệm nhau nữa.

Không có một Trịnh Hiệp của thời đại đầy sài lang, hùm hổ, Nguyễn Du đành thay ông ta vậy:“Ai vẽ bức tranh này / Dâng lên nhà vua rõ!”

Cái hay của điển tích là làm cho văn chương hàm súc, kín đáo, gây hứng thú thẩm mĩ và trí tuệ. Thật ra, Nguyễn Du đã “vẽ bức tranh này” với hai cảnh đời bằng tấm lòng nhân đạo cao cả. Bài thơ tuy nói vể “những điều trông thấy trên đất nước Trung Hoa, nhưng lại mang tính ám chỉ rất rõ. Xã hội phong kiến Trung Quốc cũng như xã hội Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn đầy rẫy thối nát. bất công. Bọn vua chúa, quan lại sống xa hoa, hưởng lạc trên nước mắt, mồ hôi nhân dân. Hàng triệu dân đen bị xô đẩy vào cảnh bần hàn đau khổ.

“Ai vẽ bức tranh này – Dâng lên nhà vua rõ” – Nguyễn Du đã mượn điển cố để hỏi thế thôi, nhưng ông đã vẽ bức tranh ấy với hai cảnh đời ngang trái “kẻ ăn không hết người lần không ra” – một bức tranh bằng ngôn ngữ thi ca. Bức tranh hiện thực sống động có ý nghĩa phê phán bọn vua quan vô trách nhiệm trước nỗi thống khổ của nhân dân. Nhà thơ đã nói lên một sự thật đau lòng về quyền sống và hạnh phúc của những con người nhỏ bé dưới đáy xã hội.

Bài Sở Kiến Hành đã lặp lại hai chữ Dị Hương. Người mẹ vì miếng ăn mà phải bỏ quê hương đi đến Dị Hương miễn sống qua thì đói. Trong khao khát khi rời quê chắc hẳn có ngày mong gặp cố hương. Chữ Dị không hứa hẹn bất cứ cái gì tốt đẹp.

 

III.Tổng kết

Ngòi bút tả thực trong miêu tả, tự sự kết hợp với biểu lộ cảm xúc trực tiếp, sâu sắc trong vận dụng điển tích văn học đã tạo nên giá trị nhân bản của áng thơ này. Có thể nói, Nguyễn Du là nhà thơ cổ điển Việt Nam viết về nỗi đau khổ của nhân dân một cách sâu sắc nhất, cảm động nhất.

Nỗi đau đời, tình cảm yêu thương và sự trân quý sinh mạng, trân quý nhân cách con người vô bờ bến của ông sẽ khiến ông bất tử.

 

IV.Hướng dẫn học ở nhà

 

  1. Câu thơ, đoạn thơ nào trong tác phẩm gây cho anh/chị nhiều cảm xúc nhất? Viết đoạn văn cảm thụ về câu thơ, đoạn thơ ấy.
  2. Sưu tầm thêm những tác phẩm cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du

 

2.1.2 Đọc hiểu tác phẩm thơ hiện đại

 

THỂ NGHIỆM: HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ TÌM HIỂU PHẦN THƠ VIỆT NAM SAU 1975 QUA HAI BÀI THƠ “CỜ LAU ĐINH BỘ LĨNH” (CHẾ LAN VIÊN) VÀ “BÓNG CHỮ” (LÊ ĐẠT)

  1. Chế Lan Viên và bài thơ Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh
  2. Tác giả

– Con đường thơ của Chế Lan Viên “trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ” (Biểu hiện rõ nét sự vận động của thơ ca trong suốt thế kỉ XX)

+ Trước cách mạng tháng Tám, thơ Chế lan Viên là thế giới Điêu tàn, với xương, máu, sọ người, tháp Chàm và những cảnh đổ nát.

+ Sau cách mạng tháng Tám, thơ ông đi từ “thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, “từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người”, “đến với nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng”

+ Sau 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống”

– Phong cách thơ:

+ Thơ Chế Lan Viên đậm chất trí tuệ, suy tưởng, triết lí

+ Ông luôn sáng tạo hình ảnh thơ phong phú, độc đáo, nhiều ý nghĩa biểu tượng. Kế thừa tinh hoa của nền văn chương dân tộc và nhân loại, Chế Lan Viên đã mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng.

  1. Bài thơ Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh

Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu

Đánh trận giặc cờ lau

Thế mà không đâu

Gặp Thập nhị sứ quân đầu rừng cuối quận

Thành ra người dẹp loạn

Rồi làm tướng làm vua

Lắm chuyện nhức đầu

Cho tôi về với cành lau

Vàng vọ

Về với con trâu nghé ngọ

Có cặp sừng bỡ ngỡ

Chiều buồn không biết cọ vào đâu?

Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa

Xa tiếng gió xạc xào

Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ…

Chỉ nghe danh vọng ầm ào

Vinh quang xí xố

Hoa Lư ở đâu?

Hoa lau ở đâu?

Hồn lau ở đâu?

Hồn ta ở đâu?

(1988)

– Hoàn cảnh sáng tác

+ Câu chuyện lịch sử Đinh Bộ Lĩnh và bông lau : Hình ảnh bông lau nhắc nhở con người về trang sử hào hùng của dân tộc gắn liền với vị anh hùng xuất thân bình dân, vì chí lớn dẹp giặc, xây dựng quốc gia độc lập, tự cường

+ Sáng tác trên hành trình cuối của đời người, đời thơ, giữa những năm tháng đầy biến động của đất nước thời kì đổi mới

– Những đổi mới về mặt nội dung

+ Tác giả hóa thân vào nhân vật trữ tình, mượn hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh và bông lau để nói đến hành trình quay trở lại với chính mình, đi từ cái Ta đến cái Tôi: Suốt một đời phấn đấu, vì mục tiêu, vì lí tưởng, con người ta lại khao khát trở về với quê nhà, với những gì thân quen, với chính mình của ngày xưa ấy; đó cũng là niềm khao khát tìm lại linh hồn xưa, về với bản ngã trước kia, về với cái tôi một thời, với chính lẽ sống, nguồn sống mà mình ôm ấp…

+ Nội dung cảm xúc của bài thơ là cảm xúc của một con người nhiều trải nghiệm, là tiếng nói của một hồn thơ trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhưng rất mới mẻ, bởi đó là sự nhận thức lại những giá trị sống của đời sống con người.

– Những cách tân nghệ thuật

+ Nhân vật trữ tình nhập vai: bài thơ mang màu sắc lịch sử, gợi liên tưởng nhiều chiều, đa sắc.

+ Thể thơ tự do, ngắt nhịp, ngắt dòng linh hoạt, tạo nhạc điệu riêng

+ Từ ngữ hiện đại, cách tân, thể hiện cảm xúc mông lung, hỗn độn của con người trong thời đại mới (danh vọng ầm ào, vinh quang xí xố...)

+ Một loạt câu hỏi tu từ cuối bài thơ và phép liên tưởng – chơi chữ: Hoa Lư – Hoa lau – Hồn lau – Hồn ta cùng điệp từ “ở đâu” xoáy vào lòng người đọc những nỗi băn khoăn, hoài nghi trên con đường đi tìm kiếm bản thể của mình.

* Nhận xét:  Bài thơ Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu cho tư duy thơ và nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên và của một giai đoạn thơ ca thời kì đất nước đổi mới.

  1. Lê Đạt và bài thơ Bóng chữ
  2. Tác giả Lê Đạt (1929 – 2008)

– Quê hương: Yên Bái

– Hành trình thơ ông trải dài, song thật sự có tiếng vang ở phần sáng tác sau 1975, đặc biệt là tập Bóng chữ

– Ông là người đi đầu trong việc đổi mới ngôn ngữ thơ ca thời kì hậu chiến. Ông tuyên ngôn: “Tuổi lú lẫn ngược nhầm ga trẻ dại/ Hay ngây ngô không biết lối về già/ Thơ thẩn chữ ngã ba”

  1. Bài thơ Bóng chữ – những cách tân đổi mới trong ngôn ngữ thơ

Chia xa rồi anh mới thấy em

Như một thời thơ thiếu nhỏ

Em về trắng đầy cong khung nhớ

Mưa mấy mùa

                   mây mấy độ thu

Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Em vẫn đây mà em ở đâu

Chiều Âu Lâu

                   bóng chữ động chân cầu

(1994)

Tác giả rất có ý thức trong việc dụng công câu chữ, tìm kiếm ngôn từ cho bài thơ:

– Từ “thấy” chứ không phải “nhớ”:nhớ là cảm xúc, thấy là cái nhìn – nhìn bằng giác quan, bằng tâm tưởng, bằng lí trí, bằng xúc cảm.

– Ba từ: thơ – thiếu – nhỏ đứng cạnh nhau , tác giả tô đậm ấn tượng về một thời đã qua, thời tinh khôi, một thời gắn bó giữa anh và em. 2 chữ “th”, 2 vần trắc tạo một tiếng ngân lạ ở âm thanh chữ.

Em về – cách nói dung dị – em trở lại trong tâm tưởng của anh

Trắng đầy: ấn tượng về sắc trắng, sự trinh nguyên, kỉ niệm con tươi mới mà mờ ảo xa xôi. Nó “đầy” quá nên “cong khung nhớ”, kỉ niệm, nỗi nhớ ngỡ đã đóng khung, vì sự trở lại của “em” mà nó bị cong vênh, méo mó => Câu thơ cực tả nỗi nhớ trong những kỉ niệm đong đầy về em thời trong trắng, tinh khôi, hay vì là kỉ niệm nên nó càng tinh khôi, tinh khiết.

Mưa mấy mùa/ mây mấy độ thu: Sự đổi thay của thời gian, gắn liền với sự xa cách của em và anh. Câu thơ vắt dòng ấn tượng, như khoảng hẫng của không gian, của cảm xúc con người.

Vườn thức một mùi hoa đi vắng: Vườn thức bởi một mùi hoa đi vắng hay anh thao thức vì thiếu vắng em. Nói “đi vắng” tức là đã mùi hoa ấy đã từng ở đây, từng hiện diện, từng tỏa ngát. Giờ nó vắng mặt làm thức tỉnh cả khu vườn. Hay anh đã “thức”, đã tỉnh ngộ vì em không còn bên anh nữa. Liệu “đi vắng” rồi em có quay trở về?

Em vẫn đây mà em ở đâu: Cùng một chủ thể “em” mà hai khoảng không gian: vẫn đây – cụ thể, và ở đâu – mơ hồ. (Em vẫn ở chốn xưa, vẫn trong anh, mà em đâu rồi?) Cảm xúc của nhân vật trữ tình như mênh mang giữa thực và mơ, giữa tâm tưởng và hiện thực. Ý thơ là niềm day dứt của nhân vật trữ tình.

– Kết thúc bài thơ: Chiều Âu Lâu/ bóng chữ động chân cầu: Gợi một nỗi buồn mênh mang, dàn trải. Bóng chữ gợi sự hoài niệm, xa vắng – động chân cầu – không gian của thực tại. Cái xa vắng, mênh mang hắt lại làm xao động thực tại, xao động hồn người. Cách gieo vần cũng đã tạo nên sự ngân vang cho câu thơ.

Nhận xét:

– Bài thơ đem đến cho người đọc cảm giác về sự xa vắng, bâng khuâng, nhớ tiếc. Đó có thể là cảm xúc và nhận thức của chàng trai trong tình yêu, có thể là nhận thức sâu sắc về con người khi làm mất đi giá trị quý giá của đời mình.

– Lê Đạt hay làm mờ nghĩa của chữ, những câu chữ gợi nhiều hơn là tả. Ông luôn tìm cách lạ hóa ngôn từ, đem đến nhiều cảm giác mới mẻ cho người đọc.

  1. Hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu tác phẩm qua các dạng câu hỏi

– Qua hai bài thơ được hướng dẫn cũng như tìm hiểu thêm một số bài thơ khác của thơ ca Việt Nam sau 1975, em hãy nhận xét về những đổi mới trong nội dung và hình thức thơ ca giai đoạn này.

– Tìm hiểu về ngôn ngữ thơ Lê Đạt.

– “Tôi trọng những nhà thơ sinh sự với văn phạm để tạo ra sự sinh cho ngôn ngữ” (Lê Đạt).  Em có suy nghĩ gì về chia sẻ trên của nhà thơ?

TIỂU KẾT:

Do đặc trưng thi pháp khác nhau nên thơ trung đại và hiện đại có tư duy nghệ thuật,quan niệm thẩm mĩ và bút pháp nghệ thuật khác nhau.Thơ trung đại mang tính quy phạm chặt chẽ, có hệ thống ước lệ phức tạp, nghiêm ngặt, ngôn ngữ hình tượng có tính hàm súc cao, lời ít ý nhiều. Các tác giả trung đại sử dụng các thể thơ có tính quy phạm chặt chẽ như thất ngôn bát cú Đường luật, lục bát, song thất lục bát,…Thơ hiện đại không sử dụng nhiều hệ thống ước lệ phức tạp, cách tân nhiều thể thơ truyền thống và sáng tạo ra các thể thơ tự do. Thơ trung đại phần lớn sử dụng chữ Hán và người đọc chủ yếu tiếp cận tác phẩm qua bản dịch nên cần lưu ý đối chiếu từ ngữ giữa bản dịch thơ và nguyên tác để nắm được đúng tinh thần của tác phẩm, tư tuưởng mà tác giả muốn truyền đạt.

Nếu như thơ trung đại bó hẹp trong niêm luật, ít thể hiện cái tôi cá nhân thì thơ hiện đại lại như một luồng gió mới thổi vào văn học Việt Nam, mang lại những sắc thái mới, tiếng nói mới, phá bỏ sự gò bó và cái tôi cá nhân được thể hiện một cách rõ ràng nhất. Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm thuộc hai thời kì văn học này, giáo viên cần định hướng những sự khác biệt về đặc trưng thi pháp đó để học sinh có thể tự đọc văn bản một cách hiệu quả nhất.

 

  • Đọc hiểu tác phẩm truyện

2.2.1.Đọc hiểu tác phẩm truyện trung đại

 

DẾ CHỌI

(“LIÊU TRAI CHÍ DỊ” – BỒ TÙNG LINH)

  1. Tác giả

Bồ Tùng Linh (1640 – 1715) tự Lưu Tiên, còn có tự là Kiếm Thần, hiệu Liễu Tuyền, người tỉnh Sơn Đông. Ngoài tập truyện Liêu Trai chí dị, ông còn để lại 4 quyển Văn tập, 6 quyển Thi tập. Năm 1980, ông được thế giới kỉ niệm như một Danh nhân văn hoá.

  1. Tác phẩm

Liêu Trai chí dị (Những chuyện quái dị chép ở Liêu Trai) là tập truyện ngắn gồm hơn 400 thiên. Đề tài của truyện do tác giả sưu tầm trong dân gian hoặc rút từ truyện Chí quái lục triều hay Truyền kì Đường rồi gia công sáng tạo thêm. Tác giả đã mượn truyện thần tiên ma quái để chỉ trích nền chính trị tàn bạo của người Mãn Thanh, phê phán những thói hư tật xấu của bọn nho sĩ, thể hiện khát vọng tự do trong tình yêu và hôn nhân.

Liêu Trai chí dị là tác phẩm đạt tới đỉnh cao nghệ thuật viết truyện ngắn cổ điển Trung Quốc. Với nghệ thuật tả chân sâu sắc, tác giả đã phản ánh diện mạo xã hội thời đầu Mãn Thanh. Lúc đó xã hội còn thịnh hành tư tưởng mê tín dị đoan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng định mệnh, của thuyết luân hồi báo ứng. Điều đó thể hiện rất rõ trong tác phẩm và đem lại màu sắc riêng cho tác phẩm. “Riêng nói về bộ Liêu Trai này, chuyện hồ quỷ chiếm quá nửa, minh bạch là câu chuyện bịa đặt, mà cái hay cứ hay. Cái hay của Liêu Trai, như nghìn vạn cảnh tượng ở nhân gian đều thu vào phiến ảnh rất nhỏ bé, mà cảnh nào tình ấy, nhận cho kĩ, sẽ thấy được rõ ràng” (Tản Đà, Tuyển tập “Liêu Trai chí dị” của Bồ Tùng Linh, NXB Văn học, 2003).

Dế chọi thuộc loại truyện đả kích chế độ chính trị tàn bạo, vạch mặt bọn quan lại tham nhũng, cường hào ác bá, đồng thời bày tỏ sự cảm thông đối với những con người “bé nhỏ” bị chà đạp, hãm hại. Đó là một truyện tiêu biểu cho tinh thần phê phán chế độ chính trị tàn bạo đương thời.

  1. Tóm tắt

Câu chuyện xoay quanh s­ự việc Thành Danh – một chức dịch hiền lành  không dám bổ bán dân chúng tìm dế chọi dâng vua nên phải tự đi tìm dế chọi. Bi kịch của gia đình anh bắt nguồn từ đó.

Bọn quan lại muốn lấy lòng vua nên đem dâng vua con dế chọi. “Vua thấy chọi hay quá đòi phải cung tiến th­ường xuyên”. Vì phải tìm mua dế dâng vua mà bao gia đình lâm vào thảm cảnh. Nhiều gia đình khuynh gia bại sản khi đến lượt nộp dế. Một trong những thảm cảnh do lệ nộp dế chọi gây ra chính là thảm kịch của gia đình Thành Danh.  Thành Danh hiền lành nên không dám sách nhiễu dân chúng, lo lắng quá nên phải tự đi tìm dế. Tìm mãi không được, hạn nộp dế đã hết, Thành Danh bị quan phạt, bị đánh đập, lo lắng muốn tự vẫn. Vợ Thành đi xem bói, biết nơi có dế tốt. Thành đã bắt được một con dế chọi như ý. Nhưng không may con Thành làm dế bị chết. Bị mẹ mắng, nó sợ hãi nhảy xuống giếng và bị chết đuối. Thành mất con, mất dế. Con Thành sống lại nhưng vô hồn. Hồn con Thành hoá thân vào con dế chọi. Dế nhỏ nhưng nhanh nhẹn và chọi rất giỏi. Dế mang dâng vua, chọi giỏi lại biết nhảy múa, vua rất vừa lòng và ban thưởng cho quan tỉnh. Gia đình Thành Danh được giàu sang phú quý, “Ruộng đồng trăm khoảnh… ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

II – Phân tích

  1. Nội dung hiện thực

Dế chọi là câu chuyện mang nhiều yếu tố hoang đường, một đặc trưng nổi bật trong bút pháp nghệ thuật của  Liêu Trai chí dị. Câu chuyện đã tái hiện một mảng hiện thực đen tối của xã hội, vì thế truyện có giá trị hiện thực sâu sắc. Chỉ một câu chuyện dâng dế chọi lên vua mà phản ánh được cả bộ mặt của giai cấp thống trị tàn bạo, ăn chơi sa đoạ và những thảm cảnh mà nhân dân lao động phải chịu đựng. Một con dế chọi có thể mang đến thảm kịch cho một gia đình, một tỉnh nhưng cũng có thể mang vinh hoa phú quý đến cho cả một tỉnh,  một dòng họ.

Con dế chọi chỉ là một phương tiện vui chơi giải trí của vua quan nơi cung cấm nhưng lại là yếu tố quyết định sống chết của người dân. Gia đình Thành Danh là một minh chứng tiêu biểu. Dế chọi đã mang tai hoạ đến cho gia đình Thành Danh song cũng chính dế chọi (con dế do linh hồn con trai Thành Danh hoá thân vào) lại mang đến cho gia đình Thành Danh vinh hoa phú quý.

Lệ cung tiến dế chọi hàng năm là một cái cớ để quan lại sách nhiễu dân chúng, bọn tay chơi thì có cơ hội làm tiền. Vì thế, “mỗi lần phải nộp  một con dế, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà”. Vì đến lượt làng nộp dế mà Thành Danh ngày đêm lo lắng, ăn không ngon, ngủ không yên. Trước đó, gia đình Thành Danh đã khốn đốn vì “Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bị bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy muôn phương nghìn kế chối từ mà vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà cái gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt”. Thành Danh “lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh”. Không dám sách nhiễu dân làng nộp dế, Thành phải tự đi tìm, không tìm được dế, anh đã bị quan phạt đòn : “đôi mông máu me bê bết mà chẳng có con dế nào để nộp… chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi”.

Thế nhưng số phận của Thành Danh cũng hé sáng khi vợ Thành Danh được cô đồng chỉ nơi có dế. Thành Danh tìm được dế tốt, nhưng con dế ấy lại gây ra thảm kịch thứ hai, bi thảm hơn của gia đình anh. Đó là cái chết của đứa con trai. Tai hoạ ập lên tai hoạ. Người cha không tìm được dế muốn “chết quách cho rảnh”, con trai vô tình làm dế chết, sợ hãi quá nhảy xuống giếng chết đuối. Khi thấy xác con dưới giếng, Thành Danh “chuyển giận thành thương”, “vật vã kêu trời muốn chết”. Sau đó nỗi lo lắng làm cho Thành Danh “nhìn cái lồng dế rỗng không lại như đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa, Thành nằm dài, lòng buồn rười rượi”. Hai nỗi đau, nỗi lo lắng dồn lên anh chức dịch hiền lành. Gia đình rơi vào bế tắc. Con thì chết đi sống lại, cha thì đau khổ tuyệt vọng, liên tục trải qua các trạng thái căng thẳng thần kinh, khi thì “lạnh toát xương sống”, khi thì “vật vã kêu trời muốn chết”, khi “như đứt hơi, tắc họng”, lúc lại “nằm dài, lòng buồn rười rượi”… Đó là cảnh ngộ riêng của Thành Danh và gia đình Thành Danh, nhưng cũng có thể hiểu đó là tình cảnh chung của những người dân lương thiện khác trong xã hội đương thời. Quả thật, lệ hiến dế chọi đã làm nhiều gia đình tiêu tán gia sản, nhân lực, sức khoẻ, thậm chí tính mạng nữa. Đúng là một “tấm ảnh nhỏ” mà đã thu vào “nghìn vạn cảnh trạng ở nhân gian” như  thi sĩ Tản Đà đã bình luận.

Nếu chỉ dừng lại ở đây thì sức tố cáo của tác phẩm chưa có gì đặc sắc và mới lạ. Tác phẩm hay hơn là ở cảnh hai. Đứa con vì sợ hãi, vì thương cha mẹ mà đã hoá thân vào chú dế nhỏ nhanh nhẹn, chọi giỏi lại còn biết nhảy múa. Con dế do chú bé hoá thân đã biết lấy lòng vua quan. Nó đã mang đến vinh hoa phú quý cho biết bao nhiêu người. Vua đẹp lòng vì có trò chơi thú vị nên quan tỉnh được thưởng. Quan tỉnh vừa lòng nên gia đình Thành Danh được thơm lây.

Vì có con dế  hay dâng vua mà Thành Danh được học tiếp và thi đỗ tú tài. Con dế đã giúp anh chức dịch hiền lành “thành danh”. Khi biết con dế chọi độc đáo ấy là hoá thân của con trai Thành Danh thì gia đình anh đã được vinh hiển, “vượt qua các bậc quyền quý”. Đó cũng là tính chất châm biếm của câu chuyện. Tính chất này còn được thể hiện ở lời bình luận ở cuối tác phẩm : “Còn ơn trời đền đáp sao mà dài lâu hậu hĩ vậy, khiến cho quan tỉnh, quan huyện đều được hưởng ân huệ và phúc ấm của dế. Ta từng nghe : “Một người thăng thiên, gà chó cũng thành tiên”. Đáng tin vậy thay”.Câu văn đầy tính chất mỉa mai, châm biếm dành cho bọn quan tỉnh, quan huyện. “Phúc ấm” nguyên văn chữ Hán để chỉ công danh, chức tước triều đình ban cho con cháu do cha ông lập được nhiều công tích. Như thế, nguyên văn của từ này nếu được dùng đúng nghĩa là nghĩa tốt, là sự ban thưởng xứng đáng cho người có công với dân với nước. Còn ở đây, chữ “phúc ấm” được dùng với nghĩa mai mỉa – “phúc ấm” lại do dế chọi đem lại.

  1. Nghệ thuật hấp dẫn

Tác giả đã khéo léo tạo nên những tình huống may rủi, hoạ phúc đan cài nhau. Nó vừa thể hiện được sự bấp bênh của số phận những người dân lao động nghèo, vừa tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện. Số phận, sự sống chết, nghèo hèn hay giàu sang của người dân thấp cổ bé họng hoàn toàn phụ thuộc vào niềm vui hay sự phật ý thất thường của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến Trung Quốc thời Tuyên Đức. Những tình huống may rủi mà Thành Danh từng gặp trong tác phẩm làm cho câu chuyện tăng phần hấp dẫn nhưng về nội dung lại khiến người đọc phải suy nghĩ về cuộc sống con người trong xã hội đương thời.

Thông qua câu chuyện ngắn gọn với một số chi tiết li kì, biến ảo về việc gia đình Thành Danh tìm bắt, nuôi nấng dế chọi để cống nạp cho nhà vua, tác giả đã phê phán chế độ chính trị tàn bạo đương thời đã đè nén, áp bức, gây ra bao đau thương cho những người dân hiền lành lương thiện. Truyện có kết cấu hết sức chặt chẽ. Chặt chẽ mà vẫn có những biến hoá khôn lường, hợp lí và lôgíc chứ không đơn điệu, cứng nhắc. Từ đầu đến cuối truyện mọi tình tiết đều xoay quanh câu chuyện dế chọi. Truyện chỉ viết về một gia đình cụ thể là gia đình Thành Danh với những tình huống may rủi xen kẽ, tất cả đều gắn với chuyện tìm dế chọi, luyện dế chọi để cống nạp nhưng đã để lại những ấn tượng khó quên vì những diễn biến bất ngờ và thú vị.

  • Tổng kết:

Dế chọi là câu chuyện tiêu biểu cho đặc điểm nghệ thuật của bộ Liêu Trai chí dị. Những câu chuyện li kì đầy chất quái dị hấp dẫn và giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc đã làm nên sức sống cho tác phẩm.

Tản Đà đã có nhận định rằng, Dế chọi của Bồ Tùng Linh là một “tấm ảnh nhỏ” đã thu vào “nghìn vạn cảnh trạng ở nhân gian”. Nhận định này đã phản ánh chính xác được tư tưởng mà Bồ Tùng Linh muốn truyền tải qua tác phẩm này.

  1. Hướng dẫn học ở nhà

– Tìm đọc thêm những câu chuyện khác trong tập truyện Liêu trai chí dị

– So sánh một phương diện trong nghệ thuật truyện ngắn của Bồ Tùng Linh trong “Liêu trai chí dị” với Nguyễn Dữ trong “Truyền kì mạn lục”

  • Đọc hiểu tác phẩm truyện hiện đại

 

ĐỜI THỪA – NAM CAO

 

  1. Xuất xứ, chủ đề
  2. Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số 490 ra ngày 4/12/1943.
  3. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.

II.Tóm tắt truyện

Hộ là một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ – một cô gái lỡ làng, bị tình nhân phụ – Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì giờ của hắn. Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc văn mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí đi vài năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có lúc, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.

Vốn thương vợ con thế nhưng rồi Hộ tìm đến rượu, thay đổi dần tâm tính. Hắn say rượu, ngủ say như chết. Có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con Từ ra khỏi nhà, đòi vật một nhát cho chết cả! Nhưng sáng hôm sau tỉnh rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn hứa chừa rượu… nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò vừa buồn cười vừa đáng sợ như lần trước.

Hộ rất yêu vợ con. Khi Từ ốm đau, Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm săn sóc thuốc thang cho vợ. Đi xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít các con, cảm động đến ứa nước mắt. Hắn độc sách say mê, đọc và nghiền ngẫm, hắn thổ lộ “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng đọc và hiểu được một câu văn hay. Có lần, trước khi đi lấy tiền nhuận bút, hắn hứa mua bánh và thịt quay về cho con. Nhưng hắn gặp Trung và Mão, bạn văn, bao nhiêu tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà. Lần này hắn đánh Từ, đuổi vợ con ra khỏi nhà lúc đang đêm. Gần sáng, tỉnh rượu, hắn nhớn nhác đi tìm Từ. Thấy Từ xanh xao ôm con thơ đang thiếp đi trên võng. Hắn thương cảm, ngắm nghía mặt Từ lâu lắm, rồi khẽ thở dài, lắc đầu ái ngại, dịu dàng nắm lấy tay Từ, rồi khóc nức nở. Từ tỉnh giấc, choàng tay ôm lấy cổ chồng. Nước mắt Từ giàn giụa. Nức nở Từ nói: “… Chính vì em mà anh khổ!”… Giật mình, con thơ khóc. Từ vừa dỗ con, vừa cất tiếng ru qua làn nước mắt:

“Ai làm cho khói lên giời,

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;

Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân”

Thơ Tản Đà

III. Phân tích      

  1. Nhân vật Từ

Ngoại hình: chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam Cao rất ít tả ngoại hình. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại,… Cái bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng, xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai

Số phận đau khổ: Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó dối với người nuôi”.

Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không!… Anh chỉ là một người khổ sở… Chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt… cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hy sinh.

Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh” và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

  1. Nhân vật Hộ
  2. Hộ là một con người giàu tình thương

Hộ đã hành động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn”.

Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

  1. Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng.

Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, “hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn”, “là một kẻ bất lương!”. Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”

Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”. “Hộ điên người lên vì phải xoay tiền” nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.

Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt hốc hác…”.

Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, “làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước”. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ… ngủ sau như chết!”. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”. Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là… một thằng… khốn nạn!”

Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu đọc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.

Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

IV.Kết luận

Truyện “Đời thừa”, là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tình nhân đạp và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện “Đời thừa” nói lên một quan niệm văn chương rất tiến bộ của Nam Cao: Văn chương phải vì con người, làm cho người gần người hơn. Hộ như một nhân vật tự truyện, được xây dựng rất chân thực và sắc sảo, cho thấy cái tài của Nam Cao trong kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật. Từ Hộ trong “Đời thừa” đến “Độ” trong “Đôi mắt” cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.

  1. Đề luyện tập
  2. Giá trị hiện thực và nhân đạo của Nam Cao qua truyện ngắn Chí Phèo và Đời thừa.
  3. Hình ảnh người trí thức nghèo qua các sáng tác của Nam Cao.

 

TIỂU KẾT:

Để đọc hiểu truyện trung đại và truyện hiện đại một cách hiệu quả, học sinh cần nắm được sự khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này như sau:

  1. Truyện văn xuôi chữ Hán thời trung đại chủ yếu tồn tại dưới hai dạng chính: truyện ngắn (có dung lượng ngắn, vừa phải) và truyện dài (tiểu thuyết chương hồi). Trong truyện ngắn trung đại thì loại có giá trị nhất là truyện truyền kì. Bởi vậy, ở đây chúng ta đi sâu vào hai loại truyện: truyện truyền kì và tiểu thuyết chương hồi.

1.1. Truyện truyền kì

Truyện truyền kì là loại truyện ngắn lấy yếu tố kì (kì lạ, khác thường) làm trung tâm của cốt truyện. Yếu tố kì vừa là nội dung được kể vừa là phương tiện, công cụ (chi tiết, sự kiện) quan trọng để tác giả xây dựng nên cốt truyện, qua đó gửi gắm tư tưởng, quan niệm của mình. Mặt khác, yếu tố kì vừa là một phương tiện nghệ thuật được tự giác khá cao vừa bảo lưu tính huyền hoặc của tín ngưỡng cổ xưa (niềm tin vào các cõi ngoài trần thế, vào thần linh, ma quỷ, các điều dị thường). Yếu tố kì cũng khiến cho các tác phẩm truyện truyền kì trở nên hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Nguyên tắc sử dụng yếu tố kì là dùng cái kì để nói cái thực, dùng cái kì lạ để nói cái thông thường, dùng chuyện đời xưa để nói chuyện đời nay, dùng cõi hư ảo để nói về cõi thực tại,…

Truyện truyền kì trung đại đều lấy việc phản ánh tính cách, số phận con người; phản ánh và phê phán thực trạng chính trị – xã hội – tư tưởng đương thời làm mục đích sáng tác chủ đạo. Trong đó, người ta thấy nổi bật lên là tính cách và số phận của những người phụ nữ, người trí thức trong xã hội xưa với đặc điểm cơ bản là sự mâu thuẫn giữa vẻ đẹp thể chất và tinh thần với số phận bất hạnh, lỡ dở; giữa khát vọng sống, cống hiến với điều kiện thực tế khắc nghiệt; giữa cái chân, thiện, mĩ với cái giả, cái ác, cái xấu. Giá trị nội dung lớn nhất của các tác phẩm truyện truyền kì là chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc, trong đó, Truyền kì mạn lục là tác phẩm kết tinh những gì đặc sắc nhất của thể truyện truyền kì.

1.2. Tiểu thuyết chương hồi

Tiểu thuyết chương hồi là thể loại có dung lượng lớn (hàng trăm trang), nhiều nhân vật, nhiều sự kiện, biến cố và cốt truyện phức tạp. Do bản thân nội dung câu chuyện khá dài nên tác giả phải chia chúng ra thành các “chương”, các “tiết”, các “hồi”. Tiểu thuyết chương hồi bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XVIII nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều.

Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam chủ yếu viết về đề tài lịch sử, nội dung bao quát khoảng năm thế kỉ của lịch sử dân tộc. Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam có tính thời sự nóng hổi, sự kiện lịch sử nhiều khi đi thẳng vào trong tác phẩm mà ít trải qua quá trình dàn dựng, hư cấu, tái tạo.

Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm lối viết của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc cũng như truyền thống văn học cổ điển Đông Á (kết cấu, môtip nghệ thuật, bút pháp miêu tả,…). Tuy nhiên, các tác giả tiểu thuyết chương hồi Việt Nam cũng đã có những nỗ lực sáng tạo nhất định, thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật (chân dung, lời nói, hành động, tâm lí,…), nghệ thuật kể chuyện (tái hiện không gian, thời gian, dẫn dắt chuyện, bình luận, đánh giá), nghệ thuật miêu tả chiến tranh,…

 

2.Tác phẩm truyện hiện đại:Một số điểm cần lưu ý khi phân tích tác phẩm truyện:

 Cốt truyện là chuỗi các biến cố, sự kiện được tổ chức theo những mối liên hệ nhất định, nhằm tái hiện bức tranh đời sống và thể hiện nhân vật trong tác phẩm truyện. Phân tích cốt truyện của một tác phẩm cần nhận ra sư sáng tao, tính độc đáo và sức hấp dẫn của cốt truyện trong tác phẩm đó, đồng thời chỉ ra ý nghĩa, tác dụng của cốt truyện trong việc phản ánh đời sống và thể hiện nhân vật.

 Tình huống: Vai trò của tình huống rất quan trọng đối với truyện ngắn: tạo điều kiện để bộc lộ vấn đề, thể hiện nhân vật. Còn đối với cốt truyện, tình huống chính là điểm nhấn, là đầu mối của các biến cố trọng yếu. Tình huống được sáng tạo dựa trên sự quan sát, nắm bắt đời sống, cùng với khả năng hư cấu, tưởng tượng của nhà văn nên hết sức phong phú, đa dạng. Ở những truyện ngắn trữ tình, tình huống thường giống như một tứ thơ.

 Kết cấu: Hai bình diện quan trọng trong kết cấu tác phẩm truyện là tổ chức hệ thống nhân vật và tổ chức không gian, thời gian. Điều quan trọng trong sự tổ chức hệ thống nhân vật là sắp xếp, xử lí những quan hệ giữa các nhân vật. Các nhân vật trong một tác phẩm không tồn tại biệt lập, rời rạc, mà phải có những mối liên hệ, tạo thành một thế giới nhân vật. Mỗi nhân vật chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ trong quan hệ với các nhân vật khác, được hiện ra trong cái nhìn của những nhân vật khác trong tác phẩm.Tổ chức không gian, thời gian là một phương diện không thể thiếu trong kết cấu tác phẩm Thời gian và không gian không chỉ có vai trò tái hiện, phục dựng bức tranh đời sống với các biến cố, sự kiện mà còn thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả và góp phần bộc lộ tư tưởng của tác phẩm.

 Phân tích nhân vật: là khâu trọng tâm trong công việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm truyện. Nhà văn suy nghĩ, giải quyết mọi vấn đề trong tác phẩm đều phải thông qua nhân vật. Tài năng của một cây bút viết truyện cũng chủ yếu được thể hiện trong việc xây dựng thế giới nhân vật của mình. Ấn tượng và hiệu quả nghệ thuật mà tác phẩm truyện để lại cho người đọc cũng một phần quan trọng là ở nhân vật. Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật mang tính chỉnh thể, sinh động, vừa cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát. Một nhân vật vãn học thành công vừa phải có cá tính, có nét riêng độc đáo, lại vừa khái quát được những vấn đề nhân sinh, đồng thời thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Nhàn vật văn học đều có cơ sở từ đời sống, thậm chí có thể được xây dựng từ một nguyên mẫu có thực, nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Không nên đánh giá nhân vật văn học theo cách giản đơn là đối chiếu với hiện thực đời sống, để xem có thực hay không thực. Cũng không nên đồng nhất nhân vật văn học với vai xã hội của nó. Nội dung và ý nghĩa tư tưởng của một hình tượng nhân vật, đặc điểm tính cách của nhân vật ấy thường có tính khái quát sâu rộng hơn những đặc tính xã hội (tầng lớp, giai cấp) của nó.

 Nghệ thuật trần thuật’. Trần thuật là phương diện không thể thiếu trong tác phẩm truyện, dù người trần thuật có hiện diện hay vắng mặt (người trần thuật vô hình) trong tác phẩm. Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật, cần chú ý đến ba yếu tố: vai trần thuật (ngôi kể), điểm nhìn, giọng điệu.

Giọng điệu là yếu tố không thể bỏ qua khi tìm hiểu nghệ thuật trần thuật. Giọng điệu gắn liền với vai kể và điểm nhìn trần thuật, bộc lộ thái độ, cái nhìn, sự đánh giá về đối tượng trần thuật, đồng thời tác động đến nhận thức và tình cảm, cảm xúc của người đọc.

 

  • Đọc hiểu kịch

HAMLET (SHAKESPARE)

I.Giới thiệu khái quát về tác giả Shakespare và vở kịch Hamlet

1.Tác giả

William Shakespeare (1564-1616)  là  nhà viết kịch và nhà thơ bậc nhất của nước Anh được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại  đồng thời cũng là tác giả danh tiếng nhất trên Thế Giới. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Nhà thơ của Avon” (Avon là quê của Shakespeare). Thiên tài của Shakespeare là độc nhất vô nhị, chỉ mình ông thôi cũng đủ thâu tóm hết cả nền kịch nghệ thế giới.

Shakespeare được sinh ra và sinh trưởng tại Stratford-upon-Avon. Vào năm 18 tuổi, ông kết hôn với Anne Hathaway và có ba người con, đó là Susanna Hall và cặp đôi song sinh, Hamnet Shakespeare và Judith Quiney. Trong những năm từ 1585-1592, sự nghiệp của ông thành công vang dội tại thủ đô Luân Đôn với vai trò là một diễn viên, nhà văn và đôi lúc là người sở hữu của một công ty kịch Lord Chamberlain’s Men, với tên gọi sau đó là King’s Men. Ông quay về quê Stratford để nghỉ hưu vào năm 1613, lúc ông 49 tuổi, sau đó 3 năm ông qua đời tại đấy.

Hầu hết các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông được ông sáng tác trong giai đoạn từ 1589 đến 1613. Kịch Shakespeare được chia thành 3 loại là hài kịch, lịch sử và bi kịch với mọi loại nhân vật như vua chúa, tướng lãnh, các nhà triết học, các kẻ chăn cừu, các tay nghiện rượu, các kẻ móc túi… cho đến những tên giết mướn. Vở kịch đầu tiên của ông chủ yếu là hài kịch và kịch lịch sử, những thể loại này được ông tăng lên sự tinh tế của nghệ thuật vào cuối thế kỉ XVI. Sau đó, ông sáng tác chủ yếu là bi kịch đến năm 1608, bao gồm các tác phẩm Hamlet, Vua Lear, Othello và Macbeth, gồm một vài tác phẩm nổi tiếng nhất của ông bằng tiếng Anh. Trong giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp sáng tác, ông sáng tác những vở kịch buồn (tragicomedies), hay còn gọi là lãng mạn, và hợp tác với một số nhà viết kịch khác. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào. Không một nhà văn nào có các tác phẩm được nhiều người tại nhiều quốc gia tìm đọc hơn William Shakespeare bởi vì Đại Văn Hào Shakespeare đã hiểu rõ bản chất của con người, đã nhìn rõ các hoàn cảnh đặc biệt mà con người sinh hoạt, đã tạo ra các nhân vật trong các vở kịch mang nhiều ý nghĩa ra ngoài thời gian và không gian. Những nhân vật này đã tranh đấu giống như mọi người trong đời sống hàng ngày, đôi khi họ thành công, nhưng cũng có khi họ gặp thất bại cay đắng, bi thương.

Các vở kịch của William Shakepeare đã được phổ biến khắp nơi, gây nên ảnh hưởng lớn lao về văn hóa trên toàn thế giời. Nhiều từ và câu trong các vở kịch và bài thơ của William Shakespeare đã ở trong câu nói hàng ngày của nhiều dân tộc. Các tác phẩm của William Shakespeare đã giúp công vào việc hình thành nền văn học của tất cả các quốc gia nói tiếng Anh và không nói tiếng Anh như hai nước Đức và Nga. Các vở kịch, các bài thơ của William Shakespeare đã được in thành sách, dịch sang các ngôn ngữ khác nhau và hàng ngàn học giả vẫn nghiên cứu các tác phẩm của William Shakespeare cũng như các nhà soạn nhạc đã dựa vào các câu chuyện và nhân vật của William Shakespeare để soạn ra các nhạc kịch danh tiếng, đồng thời các nhà làm phim đã chuyển các vở kịch của William Shakespeare thành các bộ phim hấp dẫn trình chiếu khắp nơi trên thế giới.

 

2.Tác phẩm

Nhan đề đầy đủ là Bi kịch Hamlet, Hoàng tử Đan Mạch (Tragedy of Hamlet, Prince of Denmark), được Shakespeare viết vào khoảng 1601 và được công diễn vào 1602. Ban đầu, Shakespeare viết Hamlet theo thể melodrame (kịch tuồng), một hình thức sân khấu thịnh hành ở nước Anh thời ấy. Nhưng rồi qua nhiều lần trình diễn, ông sửa chữa dần thành kịch nói. Văn bản được in thành sách vào năm 1623 và được dùng cho đến ngày nay.

Hamlet có cốt truyện phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch. Đánh giá về tác phẩm, nhiều nhà nghiên cứu nhận định Hamlet thực sự là một trong những bi kịch nổi tiếng nhất của lịch sử sân khấu thế giới. Hamlet mở đầu giai đoạn sáng tác bi kịch của Shakespeare, là vở kịch có ý nghĩa tâm lý lịch sử sâu sắc nhất của ông. Tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Hamlet là một nhân vật hết sức đặc biệt, chưa từng có trong nền văn hóa trước đó, cũng như không thể có sau này. Hamlet không chỉ quan tâm đến nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết đến phẩm giá, lẽ sống và lối sống con người. Thực tế xã hội xấu xa mâu thuẫn với lý tưởng của chàng, khiến chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một thái độ cư xử phải đạo. Quá trình đánh giá thực tế và xác định đó đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn trở “tồn tại hay không tồn tại” (to be or not to be), những phút “chịu đựng hay vùng lên chống lại”. Cuối cùng, Hamlet đã tìm ra được chân lý nhưng vì đơn độc và thiếu cảnh giác nên chàng đã gục ngã vì cạm bẫy của kẻ thù.

  1. Nhân vật HamLet trong vở kịch HamLet
  2. Hamlet – nhân vật bi kịch

1.1.     Bi kịch từ xung đột giữa lí tưởng và hiện thực xã hội

Sau cái chết của vua cha, Hamlet bị ném ra bên lề cuộc đời. Mặc dù những kẻ trong cuộc mời mọc, hứa hẹn nhưng chàng hiểu rõ mình không thuộc thế giới của họ. Cuộc chơi của những kết cánh, độc ác, lọc lừa, thủ đoạn… không phải là cuộc chơi của Hamlet. Chàng muốn tìm, muốn trông thấy một thế giới khác. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare để Hamlet băn khoăn nhiều về ý nghĩa của sự sống và cả cái chết. Quá trình đánh giá thực tế và xác định thực tế đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn trở.

Tác phẩm phản ánh tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Không mang không khí lãng mạn vui tươi và lý tưởng lạc quan tốt đẹp của những vở kịch vui, bi kịch của Shakespeare mang suy tư nặng nề về các mối xung đột, mà trước hết là xung đột giữa lý tưởng nhân văn và hiện thực xấu xa của xã hội được ông thể hiện rất cụ thể trong vở kịch.

Trước hết, kịch Shakespeare là sự phản ánh hiện thực của xã hội. Mở màn cho một thời đại đảo điên tan tác với sự xung đột giữa tin tưởng và hoài nghi đó chính là tác phẩm Hamlet. Chàng hoàng tử Hamlet đơn thân độc mã phải gánh lấy một trọng trách nặng nề là phải tìm ra nguyên nhân cái chết của cha và sự tái giá vội vàng của mẹ. Hamlet vô cùng đau khổ khi phải sống trong sự hoài nghi cô đơn trước một xã hội bất thường đang bị che giấu. Cha chết, nỗi đau bất hạnh còn chưa hết thì mẹ lấy chồng không một câu an ủi. Lấy ai? Lấy chú ruột của chàng:“Gót giày đưa tang chưa kịp mòn đã vội leo lên giường cưới”.

Phần mở đầu bi kịch Hamlet chính là phần mở ra một tình thế lịch sử. Ấn tượng đầu tiên mà nó mang lại khi ta xem vở kịch là sự lo âu, kinh hoàng, là linh cảm về những biến động dữ dội rồi sẽ xảy ra. Việc hồn ma xuất hiện đã làm nổi bật bầu không khí bao trùm đất nước Đan Mạch. Cả đất nước sống trong lo âu, sợ hãi. Hamlet thực sự trở thành kẻ đơn độc. Hoàn cảnh, không khí vây bủa quanh Hamlet thù địch với Hamlet biết dường nào! Đã hơn bốn trăm năm nay, nhân loại mải miết đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Hamlet là người thế nào? Để giải đáp câu hỏi ấy, người ta thường bắt đầu bằng việc tìm lời giải đáp cho một câu hỏi khác: Hamlet đã chống lại hoàn cảnh ra sao?Ai cũng biết là Shakespeare không bịa ra cốt truyện cho vở bi kịch. Kịch bản của Shakespeare phỏng theo một truyện dân gian Đan-Mạch.

Do Shakespeare đã vay mượn cốt truyện có sẵn để viết Hamlet, nên nhiều người từng cho rằng, tác phẩm của ông cũng chỉ xoay quanh chủ đề trả thù. Ngày nay không ai hiểu một cách đơn giản như thế. Nhưng cũng không thể phủ nhận, trả thù là một trong những đề tài hết sức quan trọng trong Hamlet của Shakespeare. Biến nhân vật trả thù thành nhân vật trí tuệ, Shakespeare đã sáng tạo ra một kiệt tác có ý nghĩa xã hội vô cùng lớn lao.

Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy những rối ren, phức tạp đó, Hamlet vẫn khẳng định được lý tưởng của bản thân, lý tưởng anh hùng. Nhân vật Hamlet không chỉ quan tâm đến nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết đến phẩm giá, lẽ sống và lối sống con người.

Nhìn chung, Hamlet không hành động. Nói đúng hơn, Hamlet không thực hiện kế hoạch hành động do mình vạch ra. Ý nghĩa sâu sắc của vở kịch chính là ở đó. Cuộc đấu tranh của Hamlet chống lại nhà vua thực tế chỉ có thể biến thành cuộc đấu tranh giành giật quyền lực cá nhân. Và để giành phần thắng trong cuộc đấu tranh này, Hamlet buộc phải làm những điều bẩn thỉu giống như chính bọn Claudius, Polonius đã làm. Cho nên, Hamlet không hành động. Đôi khi Hamlet cũng hành động. Nhưng vừa bắt đầu hành động, Hamlet đã hiểu ngay rằng, chàng đang tạo ra cái ác, chứ không làm được điều thiện. Hamlet biết, trong khi theo đuổi mục đích, chàng đã coi thường tính mạng của Ophelia. Hamlet trò chuyện với Ophelia thô bạo và lỗ mãng. Thực tế, Hamlet là nguyên nhân trực tiếp gây nên cái chết của Ophelia. Ophelia phát điên trước hết là vì Hamlet, người nàng yêu, đã giết cha nàng.

Cho nên, khi hành động và trong hành động, Hamlet không “vĩ đại”, chẳng “khổng lồ”. Hamlet chỉ là người khổng lồ khi chàng nghĩ suy về đời sống, khi chàng vạch trần tội ác của xã hội, vạch trần dưới danh nghĩa một anh hề, một thằng điên. Khi ngoài đời rặt một sự bịp bợm, giả dối và đểu cáng thì chỉ những ai dám coi thường mọi quan hệ xã hội, chỉ những thằng điên, anh hề mới có khả năng nói lên sự thật. Vua Lear điên nói lên sự thật. Thằng hề của Lear cũng nói lên sự thật. Donkihote vừa là anh hề, vừa là thằng điên nói lên sự thật. Hamlet giả điên, giả hề cũng nói lên sự thật. Nhưng phía sau những câu điên dại, những trò hề của Hamlet còn có cả một tấn bi kịch. Đó là bi kịch của lý trí, bi kịch của trí tuệ.

Cho nên, Hamlet mạnh không phải vì dẫu sao Hamlet cũng đã hành động và cuối cùng giết được Claudius. Đó chỉ là sức mạnh của Hamlet. Hamlet mạnh ở chỗ, chàng đã thấy được, hiểu được những mâu thuẫn của thực tại và chàng đau khổ vì sự lạc điệu của đời sống. Đó là một trí tuệ thức tỉnh quá sớm, một trí tuệ quằn quại trong đớn đau giữa một thực tại thù địch với nó: thực tại ảm đạm của thời tư bản sơ khai.

Hamlet là con người trí tuệ, một trí tuệ luôn luôn phân tích và suy nghĩ. Chính hoạt động phân tích và suy nghĩ làm tê liệt ý chí của Hamlet. Hamlet cũng thú nhận như thế: “Thế là những suy nghĩ đã biến chúng ta thành những thằng nhát như cáy”. Cho nên, qua Hamlet, Shakespeare muốn giải quyết đề tài trí tuệ, chứ không định viết“một bài thơ tán dương sự đấu tranh”, như nhiều người đã lầm tưởng.

1.2.     Bi kịch từ chính tính cách nhân vật

  1. Bi kịch của một con người trí tuệ

Hamlet là nhân vật bi kịch, bi kịch ngay trong chính tính cách của mình. Chàng là một con người trí tuệ và cũng chính vì thế nên Hamlet luôn hoài nghi mọi thứ tồn tại xung quanh mình. Khi bàn về tác phẩm, một số nhà nghiên cứu thay vì khẳng định nhân vật Hamlet là nhân vật trong những hành động trả thù đã khẳng định: “Hamlet là nhân vật lí trí, là con người trí tụê”. Có lẽ chính vì thế có người đã cho rằng “Hamlet thiên về suy nghĩ hơn là hành động.” Chính trong những suy tư, chiêm nghiệm của một đầu óc nhạy cảm dẫn chàng tới những khám phá về hiện thực. Tuy nhiên, cũng chính vì có trí tuệ, chàng đủ khả năng tìm ra chân lý, nhận thức được thực tại và thấy rõ được khả năng của chính bản thân mình. Điều đó càng khiến chàng đau khổ.

Và cõi thế quá ô trọc, chỉ có cái chết mới giải thoát nó. Nhưng Hamlet không chết, phải chăng vì chàng quyết sống để hành động, để trả thù. Thực tế, “nỗi sợ làm làm cho tâm trí rối bời và bắt ta phải cam chịu mọi khổ nhục trên cõi thế này còn hơn là bay tới những nỗi khổ nhục khác mà ta chưa hề biết đến”. Nỗi sợ ấy kéo Hamlet về với cuộc đời, ngăn không cho chàng tự vẫn. Trí tụê giúp chàng thấu hiểu mọi mâu thuẫn và nhận thức được những triết lý đắng cay, đau đớn của cuộc đời. Dù đã hành động và giải quyết được hận thù tuy nhiên bi kịch của Hamlet đó là bi kịch của “một trí tuệ thức tỉnh quá sớm” một trí tuệ quằn quại trong đau đớn giữa một thực tại thù địch với nó.

Có thể nói, đề tài trí tuệ là một trong những đề tài quan trọng nhất của thời đại Phục hưng. Đề cập tới vấn đề trí tuệ Shakespeare góp một tiếng nói vào việc nhận thức đời sống mang đến cho bi kịch những giới hạn, những khả năng mới. Đặc biệt khi đặt tác phẩm vào thời đại Phục Hưng thì giá trị và tư tưởng của tác phẩm lại càng thêm nổi bật. Trong thời đại ấy, con người được xem là trung tâm của vũ trụ, là bản thể, đối tượng nhận thức. Con người cá nhân được giải phóng, trí tuệ được thức tỉnh để giúp con người nhận ra bản chất của xã hội soi sáng  những mâu thuẫn bi thảm nhất của cuộc đời. Chính trí tuệ là nguyên nhân khiến con người ta ý thức sâu sắc về hiện thực cũng như nỗi khổ của mình. Bởi vậy, khi nhận thức vấn đề “Sống hay không sống, tồn tại hay không tồn tại” thể hiện một cách tập trung nhất những đau khổ, những giằn vặt của nhân vật Hamlet khi đề cập đến rất nhiều những vấn đề của thời đại: “Chịu đựng tất cả những viên đá những mũi tên số phận phũ phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại với sóng gió biển khổ. Chống lại để mà diệt chúng đi đằng nào cao quý hơn.

Chính vì những giá trị ấy mà cho đến ngày nay, Hamlet vẫn không hề mất giá trị hiện đại của nó. Với bi kịch xuất phát từ trí tuệ, Hamlet trong văn học thế giới đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của Shakespeare_người mở đường cho phương pháp xây dựng nhân vật điển hình đa dạng, trên cơ sở phân tích sâu tâm lí nhân vật và triết lý cuộc sống.

  1. Bi kịch của một cá nhân cô độc

Bởi Hamlet là một hoàng tử, dĩ nhiên chàng thuộc về đẳng cấp cao nhất của xã hội quý tộc. Nhưng nhờ được giáo dục và dạy dỗ trong trường đại học, Hamlet còn là gương mặt tiêu biểu cho lớp người tiên tiến của thời đại Phục hưng, đầu óc thấm đẫm tinh thần nhân văn. Hamlet chia sẻ niềm vui với nhân loại vừa thoát khỏi ngục tù của chế độ Trung cổ. Trước mắt chàng là cả một viễn cảnh huy hoàng. Hamlet nhìn đời bằng đôi mắt tràn đầy sự lạc quan.  Vậy mà, trở về Đan Mạch, Hamlet phải chạm trán ngay với một thực tại phũ phàng. Đâu đâu cũng là cảnh rượu chè thô bỉ. Cuộc đời quá ư ô trọc. Hamlet vô cùng kinh hoàng trước sự dối trá, thói giả nhân giả nghĩa nghiễm nhiên ngự trị khắp cung đình. Cái gì cũng khiến chàng thất vọng. Hamlet thấy thất vọng trước cuộc hôn nhân quá vội vàng của mẹ chàng. Rồi những kẻ từng là bạn của chàng thuở ấu thơ, nay trở thành lũ tay sai chuyên rình mò, nghe lỏm. Điều này khiến chàng trở nên lạc lõng giữa cả thế giới xấu xa.

Chạm trán với cuộc đời đầy rẫy sự lừa dối và ám muội, Hamlet tan vỡ lí tưởng nhân văn mà mình hằng ấp ủ xây dựng. Hamlet đã nhẹ dạ cả tin khi chấp nhận lời thách đấu của Lacoto và cuối cùng vì thiếu cảnh giác nên chàng đã bị mũi kiếm tẩm độc đâm vào người. Nhưng chính điều này đã khiến chàng trở nên cao thượng hơn những bọn người đầy sự mưu mô toan tính trong đầu. Chàng cao thượng bởi chàng chính trực và cương nghị. Cả xã hội muốn kéo chàng xuống nhưng nào có được, chàng vẫn giữ vững nhân cách của mình dù cho nhận lấy kết thúc đau thương.

Bi kịch của Hamlet không chỉ là bi kịch của một con người có trí tuệ sáng suốt mà còn là bi kịch của cá nhân lạc lõng giữa xã hội ô trọc thời bấy giờ. Đó là bi kịch đau khổ khi không biết giãi bày cùng ai, chỉ biết chất chứa bao dằn vặt và đau đớn.

  1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật

2.1 Nghệ thuật chuyển nhân vật trong cốt truyện cũ thành nhân vật đầy sáng tạo

Nhân vật Hamlet được secxpia viết dựa trên nhân vật Amleth phỏng theo truyện cổ Đan Mạch. Câu chuyện có nội dung gần như giống hệt với Hamlet nhưng chủ đề thì lại không giống. Đến với Sêcxpia nhân vật Hamlet  đã trở thành hình mẫu lý tưởng của thời đại là một con người có tính cách cao thượng. Hamlet hội đủ mọi tố chất của một con người Phục hưng. Ngoài ra, Hamlet còn là một đạo diễn tài ba, một trí thức am hiểu sâu sắc nhiều phương diện cuộc sống…Sêcxpia trao cho chàng hai nhiệm vụ: báo thù cha và dựng xây thời đại. Hamlet với trách nhiệm, bổn phận hoàng tử của mình, người sẽ gánh vác vai trò đứng đầu nhà nước, lại thiên về nghĩa vụ dựng xây. Việc kết hợp hai chủ đề này trong tác phẩm đã khiến mỗi lời nói, hành động của hình tượng trung tâm Hamlet thêm phần đa dạng.

Sêcxpia đã kế thừa những người đi trước một phần đáng kể cho cốt truyện và những tình tiết cơ bản. Nhưng chỉ có ông thì chuyện Amleth mới trở thành bi kịch Hamlet với tất cả giá trị có thể bất chấp thời gian, không gian tường tồn như một kì quan nghệ thuật.  Sêcxpia  đã cải biến câu chuyện trả thù mang tính chất riêng tư của người xưa thành một vở kịch phản ánh sâu sắc những đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn khoăn trăn trở về lẽ sống, về ước vọng của người thời đại ấy một cách vô cùng thống thiết. Đó là một tác phẩm kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và triết học, giữa nghệ thuật và tư tưởng, giữa sân khấu và cuộc đời.

2.2 Nghệ thuật trộn lẫn giữa cái bi và cái hài

Bằng tài năng sáng tạo, Shakespeare đã thể hiện năng khiếu kì diệu của mình khi chọn đúng ngôn ngữ đắt nhất dể diễn tả điều ông muốn nói.  Với Hamlet, ông chọn thể loại bi kịch. Không chỉ dứt khoát chọn bi kịch, ông còn thấy rõ là ở đây phải trộn lẫn cái bi với cái hài, cái bi với cái hùng, cái cao cả với cái ti tiện. Shakespeare đã phá vở những giới hạn ngặt nghèo, cũ kỉ mà còn sáng tạo ra những biện pháp mới, mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật nói chung.

Hamlet vừa là nhân vật bi kịch, vừa là nhân vật hài kịch. Cái bi – hài của Hamlet toát lên ở chỗ nhân vật mang khát vọng, dục vọng thật lớn lao nhưng kết quả thì không được như ý muốn. Còn cái xấu, cái ác, cái kệch cỡm…phải bị tuyệt diệt thì lại nhởn nhơ tồn tại, lên mặt giáo huấn cái tốt đẹp, nhân văn. Nếu cái hài là dùng tiếng cười tống tiễn cái xấu, cái già cỗi, lỗi thời… cái hài  trong “Hamlet” lại được dùng để khóc cho sự suy tàn của lý tưởng nhân văn Phục hưng.

Trước hết ở Hamlet Shakespeare đã để cho nhân vật chính của mình đi từ bi kịch đau thương của tinh thần đến thể xác, đồng thời có sự trộn lẫn cái hài tạo ấn tượng sâu sắc cho vở kịch. Tác giả đã xây dựng nhân vật Hamlet trên cái nền của thời đại Phục hưng, một thời đại tồn tại kẻ xấu nhiều hơn người tốt, cái ác luôn luôn hoành hành trong xã hội, thế nhưng, một con người như hoàng tử Hamlet lại hiện lên với nhiều nét đáng kính và được xem là một con người tiêu biểu của thời đại đó.

Shakespeare đã để cho nhân vật Hamlet rơi vào bi kịch không lối thoát, nổi đau chồng chất nổi đau. Chàng phải biết vượt qua số phận, vượt lên tất cả để đem lại công lí, đem lại sự trong sạch cho bản thân và đồng thời cũng để trả thù giết cha. Shakespeare đã rất tài tình khi trộn lẫn giữa cái bi và cái hài trong nhân vật của mình. Từ đau thương để biến thành hành động. Hành động của Hamlet là giả điên để tìm hiểu nguyên nhân cái chết của cha và dũng cảm để đưa lại công lí cho xã hội. Chàng sẵn sàng hi sinh tất cả nhưng không thể chấp nhận một cuộc sống loạn luân, đấy chính là sự sáng tạo độc đáo của Shakespeare. Cái hài và cái bi hoà lẫn vào nhau để tạo nên một phong cách sáng tạo mới.

2.3 Nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch

Shakespeare Ở vở bi kịch Hamlet, Sêcxpia đã khéo quy tụ vô khối xung đột, tạo nên tầng tầng lớp lớp mâu thuẫn đan xen, quyện chặt lấy nhau: xung đột cá nhân, xung đột gia đình, xung đột xã hội, xung đột bên trong, xung đột bên ngoài, xung đột đơn (Hamlet – Clôđiut), xung đột kép (Hamlet – Clôđiut – Laơctơ), xung đột bi kịch xen lẫn xung đột hài kịch…Xung đột nào cũng lên tiếng dành quyền nói tiếng nói cuối cùng về phía mình. Do vậy, hiểu Hamlet không phải dễ vào thời nào người đọc cũng đều có cách lý giải, cách hiểu riêng.

Shakespeare đã tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch với việc dựng nên hai phe đối nghịch nhau về tất cả mọi phương diện: thịên – ác, chính – tà, ít – nhiều…làm tiền đề cho kịch phát triển.

Shakespeare đã kế thừa một cách có sáng tạo cốt truyện của những tác giả đi trước để tạo thành một vở bi kịch hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức. Shakespeare đã biến một câu chuyện trả thù của người xưa thành một vở kịch phản ánh sâu sắc đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn khoăn trăn trở về cuộc sống, về ước vọng của con người thời đại ấy một cách vô cùng thống thiết. Hamlet của Shakespeare biết thể hiện mình là một con người dũng mãnh, cái dũng mãnh đó không chỉ thể hiện ở việc tìm ra kẻ thù và báo thù cho cha mà còn là một người có nhiệm vụ thiết lập lại trật tự cho xã hội, đồng thời thể hiện được mình là một con người thông minh, sự thông minh đó đã giúp Hamlet nhận biết được đâu là bạn, đâu là thù, nó còn cho chàng nhận thấy được đường đi của lẽ phải, giúp Hamlet tìm ra được chân lí của cuộc đời. Bên cạnh đó Hamlet còn thể hiện mình là một người con có đạo hiếu. Đạo làm con của Hamlet được thể hiện ở lòng tôn kính đối với người cha và một tấm lòng bao dung độ lượng đối với người mẹ đã lầm đường lạc lối. Đây là một chi tiết góp phần tạo nên hình tượng con người lí tưởng của thời Phục hưng ở trong nhân vật Hamlet.

2.4 Nghệ thuật điển hình hóa trong việc xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật

Một trong những cống hiến xuất sắc nhất, nổi bật nhất của bi kịch của Shakespeare là nghệ thuật điển hình hoá. Shakespeare đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống đầy mâu thuẩn, phức tạp do đó mà toàn bộ tính cách của nhân vật được bộc lộ ra hết, bản chất của nhân vật cũng được phơi bày rõ rệt. Trong khi xây dựng nhân vật Shakespeare rất chú ý đến việc mổ xẻ, phân tích cái quá trình diển biến tâm lí của nhân vật trước mỗi tình huống mà nhân vật gặp phải. Shakespeare quan tâm mô tả không phải chỉ “cái việc mà nhân vật làm” mà đến cả “cái cách mà nhân vật làm” nữa. Chính vì vậy mà nhân vật của ông được cá tính hoá cao độ.

Hoàng tử Hamlet – nhân vật điển hình là người được Shakespeare chú ý miêu tả chi tiết và tỉ mỉ . Shakespeare xây dựng nên khối mâu thuẫn lớn trong tác phẩm bằng sự xung đột giữa hoàng tử Hamlet – người đi đòi nợ giết cha còn một bên là Clôđiut – một kẻ sát nhân. Cả hai tuyến nhân vật này đều cùng nhau xây dựng nên một vở kịch có kết cấu hoàn chỉnh và chặt chẽ.

Với nghệ thuật điển hình hoá trong cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật, Sêcxpia đã để cho Hamlet kết liễu cuộc đời của những nhân vật độc ác, tàn bạo. Đây được xem là một dụng ý nghệ thuật to lớn của tác giả. Từ việc thể hiện nghệ thuật điển hình hoá tác giả đã gửi gắm lí tưởng thẩm mĩ của mình qua vở kịch và qua nhân vật Hamlet. Qua nhân vật Hamlet, chúng ta thấy lí tưởng cao đẹp của con người được bảo vệ vẹ toàn, cái đẹp ở mỗi con người được tôn vinh, cái xấu thì bị loại bỏ. Tuy nhiên, ta thấy ở vở kịch này, nhân vật Hamlet – nhân vật điển hình cũng phải gánh chịu cái chết. Nhưng cái chết của Hamlet là một cái chết cao cả, một cái chết trở thành bất tử, nó khác hoàn toàn với cai chết của Clôđiut, của Plôniut hay Laơctơ. Hamlet chết vì sự nghiệp phục hưng đất nước. Cái chết của chàng là do hạn chế của xã hội, thời đại Hamlet chưa chấp nhận một lí tưởng cao đẹp như Hamlet, khuôn mẫu về con người lí tưởng chưa hình thành ở giai đoạn đó và phải đến sau này người ta mới chấp nhận cái lí tưởng cao đẹp đó.

Như vậy, qua việc thể hiện nghệ thuật điển hình hoá trong cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật, chúng ta thấy được bộ mặt xã hội mà kịch của Shakespeare phản ánh. Đó là một xã hội không mấy tốt đẹp, ham quyền, đoạt lợi, ham danh vọng để chà đạp lên con người. Tình nghĩa cha con, tình vợ chồng, tình nghĩa ruột thịt đã tan biến để nhường chổ cho những tham vọng mới. Đây được xem là một đóng góp sáng tạo của Shakespeare cho bi kịch của thế giới.

III. Tổng kết

Thông qua những tác phẩm kịch, Sêcxpia đã tái hiện thành công thực trạng của bộ mặt xã hội mà ông đã chứng kiến. Không chỉ là ở Đan Mạch (Hamlet) mà đặc biệt hơn là nước Anh trong bước giao thời chuyển đổi, ở đó chiến tranh chấm dứt, tình trạng phong kiến cát cứ, xé lẻ bị loại bỏ. Nước Anh đang chuyển mình mạnh mẽ để bước vào con đường phát triển Tư bản chủ nghĩa. Phẩm chất hiện thực nổi bật trong tác phẩm của ông dù có vay mượn đề tài từ quá khứ hay lấy cốt truyện từ các nhà văn nước ngoài. Nghệ thuật hiện thực chân chính bao giờ cũng hàm chứa trong nó thái độ đánh giá cuộc sống. Bằng tài năng nghệ thuật Sêcxpia đã xây dựng, lên tiếng ca ngợi con người, cổ vũ cho cuộc sống bình đẳng, thân ái, khẳng định lí tưởng sống tràn đầy phẩm chất nhân văn. Con người theo ông là một kì quan của tạo hoá, một kì quan kì diệu. Nhân vật của ông là những con người hành động luôn luôn vươn lên và bằng hành động khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người.

 

 

 

Chương 3: RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH QUA CÁC DẠNG ĐỀ LUYỆN TẬP

 

3.1. Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc hiểu tác phẩm ở nhà qua các dạng đề luyện tập

          Việc rèn kĩ năng đọc hiểutác phẩm ngoài chương trình cho học sinh có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Nhiều tác phẩm ngoài chương trình có sức hấp dẫn lớn bởi đó là kho tàng văn hóa của nhân loại, có bề sâu về tư tưởng, có sự cách tân trong nghệ thuật, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống, trong đó có nhiều vấn đề thu hút sự quan tâm của học sinh. Khi tiếp cận với các tác phẩm này các em được tự do lựa chọn theo hứng thú, sở thích của cá nhân chứ không phải

khuôn vào các tác phẩm cụ thể trong chương trình. Hơn nữa, nguồn tác phẩm, cách thức tiếp cận, tài liệu tham khảo cũng vô cùng phong phú, đa dạng. Vì vậy, việc đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình ít nhiều gây hứng thú cho học sinh ở những mức độ khác nhau.

Bên cạnh thuận lợi như vậy thì việc đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cũng có không ít khó khăn. Đó là khối lượng tác phẩm lớn mà thời lượng có hạn. Đó là hạn chế trong khả năng cảm thụ và tiếp nhận của cả giáo viên lẫn học sinh. Đó là khoảng cách cả về thời gian, không gian, văn hóa, lích sử, tâm lý xã hội… đối với những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, để rèn kĩ năng này cho học sinh, chúng tôi chọn cách giao bài tập về nhà, sau đó kiểm tra đánh giá là chính. Trong quá trình kiểm tra đánh giá có thể kịp thời uốn nắn phương pháp đọc hiểu, kĩ năng cảm thụ, kĩ năng làm bài của học sinh. Đối với giáo viên, đó cũng là một bước của quá trình tự học, tự bồi dưỡng.

Kết thúc mỗi chuyên đề về một giai đoạn văn học, một thể loại văn học, chúng tôi đều giao bài tập về nhà cho học sinh để các em tiếp tục tự học, tự tìm hiểu thêm về nền giai đoạn văn học ấy, thể loại văn học ấy.

Bài tập giao về nhà thuộc các dạng đề luyện tập như sau:

  1. Sưu tầm thêm những tác phẩm tiêu biểu của thể loại văn học, giai đoạn văn học vừa được học. Cảm thụ, phân tích, bình giảng về một tác phẩm mà anh/chị tâm đắc nhất.
  2. So sánh một vấn đề tương đồng giữa tác phẩm đã học trong chương trình và tác phẩm ngoài chương trình.
  3. Dạng đề tổng hợp, kiểm tra kiến thức lí luận kết hợp cảm thụ, yêu cầu lấy dẫn chứng từ nhiều nguồn, trong đó có tác phẩm ngoài chương trình.

Học sinh có thể làm dưới dạng dàn ý hoặc viết thành bài văn hoàn chỉnh. Giáo viên kiểm tra, đánh giá và khích lệ, động viên kịp thời sự cố gắng, nỗ lực của học sinh, đồng thời uốn nắn những thiếu sót hoặc non nớt trong bài làm của học sinh.

 

3.2. Giới thiệu một số bài làm tiêu biểu của học sinh

3.2.1 Dạng đề cảm thụ, phân tích tác phẩm

3.2.1.1 Cảm thụ tác phẩm thơ

 

CẢM NHẬN BÀI THƠ “XUÂN VỌNG” – ĐỖ PHỦ

Theo một quy luật tuần hoàn của thời gian, xuân đi rồi xuân đến, xuân đến ở trên đồi cao bằng những đồng cỏ xanh rì, xuân đến trên dòng sông bằng những cơn sóng dập dềnh mênh mang để rồi xuân đến lòng người bằng hơi thở ngọt ngào nhất. Có lẽ bởi vậy, bức tranh xuân trong thơ Đường luôn là mạch cảm xúc dồi dào cho các thi sĩ chọn lựa. Bởi xuân không chỉ mang cho mình vẻ đẹp duyên dáng ngàn năm mà ở xuân còn tiềm tang một sức sống mãnh liệt của đất trời đang cựa mình chuyển đổi :

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(Thiền Sư Mãn Giác)

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai.

(Ngô Tất Tố dịch)

Tuy vậy, nổi bật trong giữa muôn vàn bức tranh thơ Đường đậm ngát hương thơm có một khủng cảnh về ngày xuân đầy tang thương, buồn bã đến tủi thương nghẹn ngào. Bài thơ “Xuân vọng” của Đỗ Phủ được sáng tác năm 757 chính là nét chấm phá hiện thực của thơ Đường bấy giờ.

Bài thơ được ra đời khi khi loạn lạc An-Sử nổ ra, Đỗ Phủ bị bắt giam tại Tràng An. Trong nhà giam, cảm xót cho nhân tình trần thế, ông đã viết lên những tiếng kêu thương đầy thống thiết đại diện cho bộ phận người dân thời điểm đó. Bốn câu đầu là hình ảnh sông núi,thiên nhiên hoang tàn xơ xác trong khung cảnh chiến tranh tang thương:

Quốc phá sơn hà tại

Thành xuân thảo mộc thâm

Cảm thì hoa tiễn lệ

Hận biệt điểu kinh tâm

Hai câu đầu đã được Trương Văn Tú dịch thơ như sau:”Nước mất nhà tan còn sông núi\ Xuân thành cây cỏ mọc âm u”. Như một lời căm hờn từ trong tim của một người thi sĩ yêu nước phẫn uất về tình cảnh hiện tại. Một đất nước chìm trong biển lửa, một đống ngổn ngang tro tàn hiện diện ở chốn Trung Hoa. Hai từ “quốc phá” đã gợi cho ta hình ảnh về vó ngựa của hàng trăn vạn quân An Lộc Sơn cuốn bụi mù trời. Chỉ với hai từ, có thể thấy được tội ác của những kẻ man rợn đi tới đâu cảnh tang thương hiện hữu lên tới đó, chúng tàn sát đến cả những ngọn cỏ vô tội. Tràng An từng náo nức, náo nhiệt là thế, thanh bình ấm áp là thế nay chẳng còn lại gì ngoài khung cảnh hoang tàn. Ngày xuân luôn là ngày tươi đẹp nhất, thời khắc mọi vật này nở sinh sôi, đất trời chuyển mình đón một năm mới. Nhưng hoàn cảnh ở Tràng An lại trái ngược hoàn toàn với quy luật tự nhiên đó. Tuy nhiên, trong khung cảnh đầy tang tóc đau thương tới vậy, Đỗ Phủ vẫn có một lòng kiên định về sự sống dậy của đất nước ông. Với thủ pháp đặt hai từ “quốc” và “sơn hà” đồng nghĩa cạnh nhau kết hợp với sự tương phản so sánh của từ “phá” và “tại”, Đỗ Phủ đã khẳng định một chân lí lâu đời rằng : Dù đất nước bị tàn phá, một triều đại bị lụy tàn, nhưng chừng nào sông núi, đất đai còn trường tồn, chừng đấy đất nước còn hi vọng, còn có thể xây dựng lại. Câu thơ “Thành xuân thảo mộc thâm” đã chứng minh cho niềm tin của Đỗ Phủ. Từ “xuân” duy nhất được sử dụng trong bài, nay “thành xuân” chính là hình ảnh mùa xuân ở bức tường thành, đi cùng từ “thâm” cho ta hiểu cỏ nay ở bức tường thành ấy mọc thật tươi tốt. Câu thơ thứ hai chính là sự bổ trợ cho câu thơ thứ nhất. Phải chăng Đỗ Phủ ngắm đang ngắm thành xuân, nhìn cỏ um tùm tươi tốt mà đầy hi vọng về một đất nước đang dần hồi sinh?

Tuy nhiên, mặc dù trong lòng đầy hi vọng, Đỗ Phủ một lần nữa không thể không nhìn vào thực tại.”Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ / Chim kêu hoảng sợ hận biệt li” (Trần Văn Tú dịch). Thủ pháp đối lập tại hai câu thơ này đã được Đỗ Phủ thể hiện rất rõ. Hoa  và điểu vốn là hai hình ảnh rất đẹp. Một hình ảnh tượng trưng cho sắc hương dưới mặt đất, một hình ảnh biểu tượng cho sự tự do trên bầu trời. Đây chính là hai hình ảnh cụ thể đại diện cho mùa xuân, một mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống mà Đỗ Phủ đang hi vọng. Nhưng tại lúc này, hoa thì đang đổ lệ, chim thì khắc khoải kêu thương. Một hình ảnh đầy thê lương buồn thảm, một nơi xa lạ mà vốn dĩ “hoa” và điểu không hề thuộc về. Qua đó, có thể hiểu Đỗ Phủ đã mượn hình ảnh “hoa” và “điểu” để biểu hiện tâm trạng của bản thân, biểu hiện hình ảnh người dân lúc bấy giờ về một mùa xuân không có những tiếng cười, không những bông hoa nở rộ trong nắng, không có cánh chim náo nức bay lượm trên không trung. Mùa xuân nay đã khác, hoa đã phải vì sầu đau mà rơi giọt lệ, chim mất tổ mà hờn nỗi biệt li. Đặt hai chữ “cảm thời” và “hận biệt” là nhãn tự của hai câu thơ, nỗi đau về sự tan tác, chia li của bao gia đình trong chiến tranh càng được tô đậm, và nỗi mong ngóng mùa xuân ngày càng tha thiết. Càng ngóng xuân càng đẫm nước mắt, càng ngóng xuân càng khắc khoải. Những dòng thơ trên dường như nén lại, chỉ chực đợi hai chữ “tiễn lệ” mà ào ra, mà cất lên nỗi “hận” về một chiến tranh tang tóc. Từ đó khiến ta hình dung ra một Đỗ Phủ với tâm trạng phẫn uất căm hờn về một chiến tranh phi nghĩa.

Nếu ở bốn câu trên, tác giả hầu như mượn cảnh hoang tàn, tang tóc do chiến tranh  để nói lòng mình thì nay, Đổ Phủ đã trực tiếp bày tỏ hoàn cảnh cũng như nỗi niềm của bản thân khi bị giam cầm ở nhà lao Tràng An:

Phong hỏa liên tam nguyệt

Gia thư để vạn kim

Bạch đầu tao cánh đoản

Hồn dục bất thăng tram

Trước đó, An Lộc Sơn khởi binh đánh xuống Tràng An. Đổ Phủ đã mang vợ con theo đoàn của người dân chạy loạn.Đ ến Khương Thôn, Đổ Phủ để gia quyến ở đó rồi một mình đi về phía bắc đến Linh Vũ, định tìm Lý Hanh vừa mới lên ngôi. Nhưng giữa đường, ông bị quân của An Lộc Sơn bắt, đưa về Trường An. Tại thời điểm ông sang tác bài thơ, chiến tranh đã liên miên kéo dài ba tháng, vợ con ông thi ở Phu Châu, tin tức gia đình thì biệt tăm, một mình ông bị giam cầm ở Trường An trong sự cổ đơn, buồn tủi vì thương nước thương dân. Chiến tranh lại ngày một dữ đội hơn “Khói lửa binh đao liền ba tháng”. Có thể thấy Trung Hoa lúc bấy giờ đang ngập tràn trong biển lửa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đâu đâu cũng đầy rẫy thê lương. Cảnh người chém giết lẫn nhau, vó ngựa dày đặc đến nỗi cây cỏ cũng không thể vươn mình lên nổi. Một khung cảnh đầy hỗn loạn trong một mùa xuân tươi mới. Trở lại với Đỗ Phủ, ông đã bị giam cầm ở lòng giặc gần nửa năm. Nỗi đau nước là thế, bất lực là thế nhưng ông lại không có nổi một bức thư của gia đình hỏi thăm. Bây giờ, đối với ông “Thư nhà nhận được đáng  vạn ngân” đã đặc tả nỗi buồn của Đỗ Phủ càng trở nên tuyệt vọng. Xưa kia nghèo đói, tiền của, vàng bạc quý hiếm là vậy. Nhưng nay ở trong nhà giam, tất cả những vật chất vô thường kia chẳng đáng là bao so với một tin tức về gia đình. Với biện pháp so sánh, có thể thấy tâm trạng luôn luôn trông ngóng về bức thư của gia đình trong lòng Đỗ Phủ. Tuy nhiên, càng ngóng càng hi vọng thì tin tức về vợ con ông càng biệt tăm, nỗi cô đơn lại càng khắc khoải và sự lo lắng cho tình hình người dân ngoài nhà giam của Đỗ Phủ ngày một dâng cao. Hai câu thơ như tiếng thở dài của ông về hoàn cảnh bất lực bản thân mình lúc bấy giờ. Một tấm lòng luôn khao khát vì dân vì nước, bảo về gia đình, bảo vệ người dân của Đỗ Phủ nay lại bị giam cầm trong nhà giam chật hẹp. Thật đau lòng, thê lương làm sao!

Thảm thương hơn nữa khi nổi buồn, nỗi cô đơn buồn tủi không chỉ  tra tấn con người ta về tinh thần mà nó còn hành hạ con người ta cả về thể xác. Cảnh ngục tù đã biến Đỗ Phủ trở thành một con người đáng thương tiều tụy. Hình ảnh Đỗ Phủ được miêu tả hai câu thơ cuối khiến người đọc không khỏi xót xa :” Tóc bạc như sương càng thưa thớt/E không đủ búi để cài trâm”. Khi bị giam giữ tại Trường An, nỗi lòng Đổ Phủ quá lớn khiến ông không thể nào chợp mắt được, suốt đêm ông thao thức nghĩ suy khiến mái tóc trở nên bạc, cùng với đó trong nhà giam đầy đen tối dơ bẩn của địch, mái tóc ông đã ngày càng ngắn, tóc ông ngày càng rụng nhiều. Hình dáng của ông trở nên tiều tụy già nua chạy xa với độ tuổi của mình. Phải chăng vì thế trong bài thơ Đăng Cao của Đỗ Phủ đã từng có câu “Gian nan khổ hận đầu thêm bạc”. Căm hờn vì hoàn cảnh của đất nước, suy nghĩ một hướng đi cho đất nước trong thân cảnh tù đày ngày một khiến mái tóc ông thêm bạc. Khác hẳn với mái tóc bạc như của các ông bụt trong truyện cổ xưa đầy phúc hậu hiền lành, mái tóc bạc của Đỗ Phủ mang cả sự gian truân về một cuộc đời đầy cay đắng. Dáng vẻ tiều tụy của Đỗ Phủ không thể không gợi cho người đọc một nỗi xót thương về một nhà thơ đầy bi kịch của một xã hội đương thời.

Có thể nói Xuân Vọng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Đỗ Phủ cả về nghệ thuật lẫn nội dung. Chỉ với tám câu thơ nhưng Đỗ Phủ đã cho ta thấy một nỗi đau mất mát do chiến tranh gây lên, một con người tài nhưng đáng thương do thời cuộc và xã hội gây lên cùng với đó là tấm lòng rộng lượng bao la của một vị quan tận tụy với dân với nước khi không ngừng hi vọng về một tương lai tươi sáng. Ngóng về một mùa xuân mới, Đỗ Phủ càng ngóng trông cảnh đất nước yên bình không khói lửa, ngóng trông cảnh gia đình đoàn tụ.  “Xuân vọng” chính là nét độc đáo trong phong cách hiện thực của sử thi Đỗ Phủ-vị “Thi thánh” của ngàn đời nay.

(Bài làm của học sinh Bùi Bích Ngọc)

 

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “NGUYỆT CẦM” (XUÂN DIỆU)

“Thơ ca là dòng sông soi bóng vào cuộc đời và len vào tâm hồn con người những mạch ngầm cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi”. Thơ là tiếng lòng, là cảm nhận tinh tế của thi nhân về cuộc sống,về thiên nhiên đầy màu sắc, hương vị và âm thanh. “Nguyệt cầm” của Xuân Diệu là một bài thơ như thế. Tác phẩm thể hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vụ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh qua cảm xúc đầy trữ tình song lại mang âm vị trầm buồn, chất chứa những nỗi suy tư, những bí mật không thể giãi bày, không thể tâm sự. Nhà thơ chọn đây là bài thơ hay nhất của ông, “bài thơ thăng hoa từ đầu đến cuối”.

Bài thơ toát lên một “vẻ lạnh” – cái lạnh thấu suốt và thấm sâu. Nó “nhập” vào hồn người từ những câu thơ đầu:

“Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh”

Trăng hiện lên như một linh hồn nhạy cảm, bơ vơ đang tìm chỗ tựa nương, và linh hồn ấy lại “nhập” vào “cung nguyệt lạnh” làm cho cảm giác lạnh lẽo ấy càng tăng thêm. Bản thân ánh trăng đã gợi lên cảm giác lành lạnh nay lại thêm tiếng đàn lạnh, như mở đầu cho cả gam lạnh rồi đây sẽ bao trùm cả “Nguyệt cầm”. Nhưng câu thơ không chỉ đơn giản là cảm giác về xúc giác, thị giác. Cây đàn như biểu hiện của ánh trăng, mang âm sắc của trăng.Phải khi trăng nhập vào dây cung, mới có hồn đàn, mỗi nốt nguyệt cầm tấu lên mới là cộng hưởng của âm thanh và ánh sáng. Câu thơ hay đến mức kỳ diệu, đi trên ranh giới giữa cái thực và cái ảo, tạo nên cho dây đàn hai âm sắc: nóng và lạnh, trong đó lạnh là sở trường.

Hai câu tiếp theo nhịp nhàng như tiếng đàn dịu dặt, trầm lắng:

” Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!”

Nhịp thơ 2/2/3 khiến bạn đọc liên tưởng đến những buồn thương mà đàn, trăng đã nói hộ thi sĩ, cứ nao nao, từng đợt, từng đợt như chực trào ra nơi khoé mắt. Âm thanh nguyệt cầm được cảm nhận sâu sắc chính bởi tâm hồn thi sĩ hoà nhập với tâm tình nghệ sĩ. Chính vì có trăng nhập vào đàn nên âm sắc rung lên vừa là âm, vừa là sắc. Mỗi cặp “trăng thương, trăng nhớ, trăng ngần” là một nốt đàn. “Đàn buồn, đàn lặng, đàn chậm” là sự thay đổi của nốt đàn, trên là trăng, dưới là đàn, trên là ánh sáng, dưới là âm thanh. Tất cả đều đạt đến sự tuyệt đối của âm sắc.

Các giai điệu “trăng – đàn”, “đàn – trăng” cứ lặp đi lặp lại dễ gảy cho ta cảm xúc buồn. Nếu như ở câu  thơ trên, chữ “ngần” đặt ở cuối như tiếng đàn dàn trải, trầm vọng thì ở câu dưới với từ “chậm” ở cuối,  tiếp theo là từ “lạnh và “buồn làm cho tiếng đàn như nghẹn lại, buồn thảm hơn. Những điệp khúc ấy cứ xoáy sâu, da diết lạ kỳ. Tiếng đàn là sự đồng vọng của “tiếng hồn” bay tới vầng trăng, cái vầng trăng vẫn có tự muôn đời: trăng quá khứ, trăng của thực tại và trăng của những áng thơ . Tiếng đàn “buồn”, “lặng”, “chậm” cứ khắc khoải và sầu não làm sao, để rồi:

“Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Chính những ảo ảnh cảm giác mà thi nhân đã tạo nên sự so sánh: “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Giọt ở đây là giọt đàn, là sự chuyển đổi của cảm giác, là lấy cái hữu hình hoá cái vô hình. Tâm hồn tinh tế của thi nhân đã “kết” tiếng đàn kia thành “giọt”, hai chữ “rơi”, “tàn” kia nghe nặng nề như vậy, rã rời đến thế, tựa như những giọt lệ trong suốt đang rơi và dần tan ra.Cái “phi lý tính” ấy ta đã gặp nhiều trong thơ Xuân Diệu, là thế mạnh của nhà thơ. Âm thanh tích tụ mối sầu ở cảnh, ở tình kết thành giọt rơi giữa đêm vắng, giọt âm thanh cứ chơi vơi giữa lòng vũ trụ, giữa lòng thi sĩ. Dư âm của nó cứ lay động nhẹ trái tim nhà thơ, cứ đọng dần, đọng dần cho đầy tâm hồn cô vắng. Buồn đấy mà không hề tăm tối, u ám

“Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh”

Vẫn tiếp tục là cảnh, là tiếng đàn cất lên trong đêm khuya mơ hồ, thanh vắng, khiễn nỗi buồn càng lan toả trong không gian. Không gian ấy vắng những đám mây, với bầu trời trong vắt sâu thẳm, cảnh trong veo quá đỗi như “thủy tinh”.Không có âm thanh nào ngoài tiếng đàn, càng không lần đâu ra bóng dáng và hơi ấm của cuộc sống con người. Hình như giữa âm thanh và ánh sáng có sự tương đồng, hòa điệu. Chính tiếng đàn thánh thót mà trầm lắng làm cho ánh trăng rung lên, hay cũng là tiếng đàn run lên trong không gian quá rộng, quá trong.

“Linh lung bóng sáng bỗng rung mình”

Câu thơ có sự chuyển đổi cảm giác,nếu “lung linh” là sự lay động, rung rinh được cảm nhận bằng thị giác thì “linh lung” có cả xúc giác,” cứ ánh rợn lên”,” huyền hoặc ma quái” ,làm cho ta “rùng mình”. Dường như ngoài đêm ra, bóng sáng là thính giả duy nhất của đêm nhạc “Bóng sáng” là hư ảo nhưng tác giả thấy có một bóng sáng hiện lên trong đêm đó, cả cái vô hình cũng trở nên rung động, sự tác động mạnh mẽ của âm thanh không chỉ làm cho con người xúc động mà còn làm cho cả những cái hư ảo, tưởng như không tồn tại cũng rung mình. Hai vần “inh – ung” đặt trong một câu thơ dễ gây cho ta cũng có cảm giác “rung rinh” ấy.

“Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh”

Thì ra đây là nguyên nhân của tiếng đàn buồn,thì ra thi nhân không quá thả hồn mình vào và bay bổng theo tiếng đàn mà quên đi cuộc sống con người, Xuân Diệu đang hướng tới con người. Hình như tiếng đàn ấy rất hợp với tiếng lòng thi sĩ, khi hai tiếng ấy gặp nhau có sức gợi hình ảnh rất lớn, dường như tiếng ấy hợp với tình này.

Tiếng đàn buồn” rơi” trong đêm trăng làm cho thi sĩ liên tưởng đến những con người bạc mệnh, những con người ấy cũng đã từng sống trong cảnh buồn thương, rơi rụng. Số phận của họ mỏng manh như tiếng đàn kia, lẻ loi rồi tan vào trong vũ trụ, nhưng hình ảnh họ luôn in dấu trong cảnh vật, con người. Qua những câu hát buồn lặng ấy, thi nhân đã tái hiện cả một kiếp người bạc mệnh, của phụ nữ tài sắc nhưng “tài hoa bạc mệnh ” với cuộc đời bất hạnh, buồn thảm như tiếng đàn của họ. . Nước “xanh” không phải là dòng nước trong trẻo, dịu êm mà dòng nước như mang vẻ vô tìn của tạo hóa,là nơi đón những linh hồn còn màu xanh của sức sống và tuổi trẻ.

Còn “nương tử” trong bài thơ này có lẽ là nàng Chiêu Quân chăng? Có phải bản nhạc mà nhà thơ nghe là đang hát về nàng hay nghe nhạc mà tác giả liên tưởng đến nàng? Câu thơ có chiều sâu của thời gian, ở hiện tại nhà thơ nhìn về quá khứ, không gian được mở rộng, dường như tiếng đàn là nơi thu hút nhất những cảm xúc tài hoa: người tài hoa, âm sắc tài hoa, tất cả chơi vơi trong dòng âm thanh lơ lửng trong không gian. Phải chăng quá khứ đang biểu hiện hiện tại? Cảm giác về âm, sắc ấy khiến cho ánh trăng cũng rung mình thương xót cho kiếp người xấu số. Cái còn lại của đời người ấy là tinh anh của người đẹp.
Câu thơ rất “Tây” của Xuân Diệu đã tái hiện rất đúng cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Chiêu Quân. Đêm rằm chết dần, tàn dần theo nước xanh hay người con gái ấy gói cuộc đời mình lại trong tiếng đàn, câu hát rồi để mặc chảy trôi vĩnh viễn theo dòng nước xanh – dòng đời hoang dại? Câu thơ có sự lụi tàn của cái đẹp, có cái vô tình của tạo hoá, có cái nhẫn tâm của cuộc đời. Bạc bẽo lắm thay ! Cái sự thật phù phàng ấy đã bao lần được nói tới trong văn thơ trung đại, nay đến lượt Xuân Diệu.

“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.

Từ những nét phác thảo thoáng qua, nhà thơ Xuân Diệu đã đi đặc tả cụ thể những chi tiết, hoàn thiện những nét vẽ cụ thể của bức tranh thơ. Không gian đêm trăng là không gian của tiết trời vào thu, vì vậy mà ánh trăng như càng thêm tỏ rạng “Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời”.Không gian của bài thơ ngày càng khuya khoắt, thanh vắng hơn, dường như cái lạnh của đêm thu càng làm tăng thêm độ ngời sáng của trăng. Cả bài thơ có đến ba từ “lạnh” nhưng phải đến chữ “lạnh” thứ ba này, đặt độc lập trong câu, mới thấy cái lạnh toát mạnh mẽ nhất, cái lạnh lẽo trong ánh trăng, hơi lạnh bốc lên từ câu thơ đến rùng mình. Cái rùng mình được diễn tả bằng nhịp ngắt từ “lạnh” riêng thành một nhịp, đó là sự tận cùng của cảm nhận.Giọt ” lệ đàn” giờ đã hóa thành nước, dòng nước tê lạnh cứ ngấm dần vào tim,âm thanh réo rắt, lạnh lẽo, khắc khoải đến tận tâm can.Tiếng kêu “trời ơi” vang lên như tiếng kêu thảng thốt của một tâm hồn mềm yêu trước cái lạnh dễ sợ của đêm nhạc, trước ký ức buồn thương, cái rùng mình của một thân phận cô đơn giữa thế giới lạnh lẽo với kí ức buồn thương, thế giới thiếu vắng con người.Phải chăng đó là cái xã hội mà nhà thơ đang sống? Thi nhân đã thu lòng mình vào khí thu lạnh lẽo, ánh trăng tỏ ngời và nỗi niềm uất hận từ tiếng đàn, những nỗi niềm ấy còn tồn tại trong cả sỏi đá.

Hai câu tiếp theo khơi sâu vào nội tâm tác giả :

“Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.

Trăng và nhạc cũng là tâm hồn nhà thơ. Thi nhân trở lại với bến Tầm Dương, dạo nào trong trang thơ của thi sĩ họ Bạch tài hoa với tiếng đàn sầu thương của người kĩ nữ.
Câu thơ đảo từ “long lanh” lên đầu cho ta thấy ánh sáng phát ra từ tiếng đàn, đọng vào sỏi đá. Cái cảm giác trầm đục ấy lẽ ra phải được cảm nhận bằng thị giác nay “vang vọng” qua cảm nhận của thính giác. Tiếng đàn đẹp và hay nay lại là tiếng vang của những mối hận trong lòng, những mối hận đã lên tiếng. Trăng và nhạc cũng là tâm hồn nhà thơ. Thi nhân trở lại với bến Tầm Dương, dạo nào trong trang thơ của thi sĩ họ Bạch tài hoa với tiếng đàn sầu thương của người kĩ nữ. Tiếng đàn cất lên từ mối hận đời, hận cái xã hội đầy bát công, ngang trái. “Cùng một lứa bên trời lận đận”, tiếng đàn và vần thơ là sự gặp gỡ giữa hai người tài hoa bạc phận, hai tâm hồn nghệ sĩ đang bế tắc giữa cuộc đời.

Câu thơ đưa ta về bến Tầm Dương, với cảnh và tình ngày xưa, với cùng một lứa bên trời lận đận, để cảm nhận tiếng đàn ở mức độ tinh vi nhất: cả trăng, nhạc và ánh sáng … hoà vào nhau. Nhà thơ đã nghe tiếng đàn bằng toàn bộ sự sống của mình. Còn bạn đọc nghe tiếng đàn thơ bằng các giác quan của mình. Tất cả nằm trong sự cộng hưởng đến tuyệt vời. Thế mới biết năng lực tạo hình bằng âm thanh của Xuân Diệu đạt đến mức tài hoa như thế nào.
“Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.

Câu thơ như vút cao lên. Rõ ràng là âm thanh của cung đàn đấy nhưng lại được thể hiện qua hình ảnh đầy sức gợi tả “ánh”, cách dùng từ này tạo ra được sức hấp dẫn cũng như các cung bậc cảm xúc mà tiếng nhạc mang lại, sự đẹp đẽ của tiếng nhạc đó được Xuân Diệu liên tưởng đến vẻ đẹp của “biển pha lê, cái đẹp mênh mông, trong sáng..Ánh nhạc -ánh sáng trong như tiếng nhạc hay như tiếng đàn đang lấp lánh ánh sáng ? Không gian tràn ngập ánh trăng và tiếng đàn, trở nên ánh sáng và trong suốt như một “biển pha lê”. Tiếng đàn hoá thành đại dương chứa âm thanh, mỗi giọt âm thanh vừa là trăng, là bạc, là pha lê. Tuy nhiên, từ đầu tới giờ đêm nhạc chỉ gây cho ta cảm giác ớn lạnh thì biển pha lê kia cũng chỉ là một bể sầu vô định, mênh mông, choáng ngợp mà trên đó có một linh hồn – “chiếc đảo” đang bơ vơ. Hai từ “bốn bề” đặt ở đầu câu thứ nhất lặp lại ở cuối câu thứ hai của khổ thơ, vừa đóng khung cuộc đời con người trong đó, lại vừa mở ra một không gian vô tận mà ở đó con người thật nhỏ bé, khó xác định cho mình một chân trời mà cứ bị ngợp dần, lấp dần. Huy Cận cũng đã từng viết:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

( Tràng giang )

Có thể nói, mặc cảm cô đơn, bế tắc luôn ám ảnh trong các nhà thơ mới, nhất là Xuân Diệu. Ông như một “con chim hoạ mi hoan hỉ hót trong bóng đêm những nỗi cô đơn của mình bằng những tiếng ngọt ngào” (Shelley). Hình ảnh “chiếc đảo hồn tôi … “ là nỗi lòng tự bạch của thi sĩ, của cả một tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Tiếng “rợn” như một cái rùng mình trước sự thật ấy.Thế nhưng, dường như họ vẫn thích cái cảm giác cô đơn kia. Xuân Diệu khi viết:

” Ta là Môt, là Riêng, là Thứ nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta”

( Hy Mã Lạp Sơn )

có lẽ mang một niềm kiêu hãnh. Nhưng sự kiêu hãnh ấy chỉ che đậy tạm thời cho một tâm hồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời. Có lẽ vậy mà:

” Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.

Không còn gì ngoài tiếng đàn đang thả ra từng giọt âm thanh não nề với một tâm hồn bơ vơ. Sương bạc, đêm khuya là thính giả của đêm nhạc cũng lặng thinh và nín thơ và rồi chợt nhận ra rằng sao Khuê đang bị mờ dần bởi mối sầu trong nhạc. Lúc này giọng đàn sầu não đã chiếm lĩnh cả bên trong những vì tinh tú, tâm sự trong nhạc đã sâu sắc tuyệt đối. Nỗi buồn tràn ngập, lan tỏa, lắng sâu vào tâm hồn người đọc. Tiếng đàn ngân mãi, vọng mãi vào cái không gian xa kia làm nó thêm vời vợi mà con người cứ nhỏ đi, chìm đi mãi.

Thế giới không có mặt trời ấy sao mà hoang vắng quá. Chỉ có những sợi ánh sáng, những giọt âm thanh lấp lánh trên trang thơ, cái tài của Xuân Diệu là ở đó. Cái hồn của Xuân Diệu cũng là ở đó, vẫn biết thoát ly đấu tranh xã hội là không đúng, nhưng thi nhân không trốn vào hưởng lạc mà hướng tới vẻ đẹp thanh cao, trong sáng của thiên nhiên, của nghệ thuật. Bởi vậy, hôm nay khi “Những đảo cô đơn Đảng nối nhịp cầu” (Lệ – Xuân Diệu), ta vẫn tìm thấy ở “Nguyệt cầm” những vẻ đẹp cần có để tâm hồn thêm trong sạch và phong phú hơn” ( Thạch Lam ).

(Bài làm của học sinh Ngô Mai Anh)

 

CẢM NHẬN BÀI THƠ “QUÊ HƯƠNG” CỦA GIANG NAM

“Quê hương” hai tiếng thân thương luôn in sâu trong trái tim mỗi con người chúng ta. Ai sinh ra và lớn lên cũng có tình yêu gắn bó với mảnh đất đã nuôi mình khôn lớn. Đối với các thi sĩ, quê hương đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, là tình cảm thiêng liêng đi vào những sáng tác. Chọn cho mình một lối viết rất riêng, thể hiện một cái nhìn độc đáo đối với đề tài này, nhà thơ Giang Nam đã chắp bút viết lên bài thơ “Quê hương” với những tình cảm giản dị mà chân thành, thấm đượm lòng người.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 1960, khi ông nghe tin vợ và con ông bị giết hại, song thật may măn vì đó chỉ là nhầm lẫn. Có lẽ bởi vậy mà bài thơ đã chất chứa những cảm xúc dạt dào và mãnh liệt đến thế. “Quê hương” là câu chuyện tình từ thuở nhỏ của hai người hàng xóm. Hai người lớn lên, tình cảm trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kì kháng chiến. Nhưng chiến tranh cùng sự tàn khốc của hoàn cảnh đã gây ra nỗi đau mất mát tột cùng của những ngươi con yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Mở đầu bài thơ, tác giả trở về với quá khứ, với những kỉ niệm của ấu thơ:

“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

“Ai bảo chăn trâu là khổ”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Có những ngày trốn học

Đuổi bướm cạnh bờ ao

Mẹ bắt được…

Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích…”

Ngược theo dòng chảy của kí ức, tuổi thơ ùa về với những tháng ngày bình yên, với những niềm vui không tên của cậu bé. Không gian thơ mở ra với bàng bạc nỗi nhớ về tuổi thuở ấu thơ, với những trò tinh nghịch của tuổi học trò. Tuổi thơ giản đơn của cậu bé đầy ắp hạnh phúc với những ngày được đến trường, với những buổi ung dung chăn trâu nằm nghe tiếng chim hót, được tận hưởng hương vị quê hương, với cả những vẫn thơ đã nuôi dương tâm hồn con người, ươm mầm tình yêu quê hương đất nước trong “những trang sách nhỏ”. Kỉ niệm ấu thơ còn là những lần trốn học, những lần mải chơi để mẹ phát hiện. và rồi, những tình cảm non trẻ cũng dần dần nảy nở với hình ảnh “cô bé nhà bên cười khúc khích”. Nhịp thơ chậm rãi cũng những lời thơ nhẹ nhàng đã vẽ nên một tuổi thơ đẹp đẽ bên những tình cảm hồn nhiên trong sáng thuở nhỏ.

Rồi thời gian cứ chảy trôi mãi, cậu bé nghịch ngợm ngày nào cũng khôn lớn trưởng thành, theo tiếng gọi của Tổ quốc mà ra đi bảo vệ đất nước:

“Cách mạng bùng lên

Rồi kháng chiến trường kỳ

Quê tôi đầy bóng giặc

Từ biệt mẹ, tôi đi

Cô bé nhà bên có ai ngờ!

Cũng vào du kích

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời

Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại

Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi…”

Những ngày tháng an yên của quê hương chẳng còn, đất nước bùng lên các cuộc kháng chiên, cuộc sống bình dị của làng xóm bị lấp đầy bới bóng giặc, quân thù. Với một tình yêu nước thiết tha, một tinh thần chiến đấu anh dũng, cậu bé của ngày nào cũng tham gia vào chiến trường. Chàng trai phải lên đường ra đi xa gia đình, xa quê nhà đầy nỗi nhớ. Sử dụng cách ngắt nhịp thơ thật chính xác trong câu thơ “Từ biệt mẹ, tôi đi”, nhà thơ Giang Nam đã cho người đọc thấy được sự quyết tâm, thái độ dứt khoát và, xem lẫn cả những nỗi buồn xa quê của một người chiến sĩ. Nhưng, câu thơ tiếp lại mở ra cho ta một sự bất ngờ, “cô bé nhà bên” của tuổi thơ cũng tham gia vào du kích. Câu cảm thán như một lời ngạc nhiên, mang đến cho chàng trai những sự hứng khởi cùng tình cảm yêu mến tự hào với cô gái láng giếng bé nhỏ mà dũng cảm bước chân ra chiến trường bảo vệ quê hương. Hình ảnh của cô bé ấy vẫn đáng yêu như ngày nào vơi đôi mắt đen tròn, vẫn điệu cười khúc khích, vẫn những nét tinh nghịch của ngày xưa. Từ láy “thương thương” diễn tả tình cảm thương mến của chàng trai một cách da diết, trong sáng và giàu chất thơ. Niềm hạnh phúc khi được gặp lại người bạn cũ làm cho anh “không nói được một lời”. Hình ảnh đôi lập ở cuối đoạn thơ tạo ra một không gian đầy ý vị, dù ngoài trời có mưa phủ kín lỗi, dù hiện tại có khó khăn gian khổ, nhưng chỉ cần bên cạnh người chiến sĩ lúc này có một hình ảnh thân thuộc, có một tình cảm mộc mạc, cũng đủ làm lòng anh thấy ấm áp, có động lực để bước tiếp trên cuộc hành quân.

Khi chiến tranh qua đi, ngày hòa bình được lặp lại trên đất nước, chàng chiến sĩ cũng trở về với quê hương, mang theo những tình cảm chất chứa:

“Hòa bình tôi trở về đây

Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày

Tôi lại gặp em

Thẹn thùng nép sau cánh cửa

Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ

Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi

Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…”

Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê các hình ảnh quen thuộc của làng xóm “với mái trường xưa, bãi mía, luống cày” thể hiện nỗi nhớ của người chiến sĩ xa quê, luôn tha thiết một ngày trở về. Tình bạn trẻ thơ giờ đã trưởng thành thêm một bậc, cùng với sự trưởng thành của hai con người bước ra từ chiến trường. Nhưng dù trải qua bao thăng trầm, bao súng đạn, bao chiến trường, ngày gặp lại, cô gái ngày xưa ấy vẫn “thẹn thùng nép sau cánh cửa”. Một lần nữa, hình ảnh của điệu cười “khúc khích” lại được nhắc lại một lần nữa, tô đậm thêm vẻ đẹp duyên dáng của người con gái đã làm chàng chiến sĩ cảm mến. Ngày gặp lại đầy bồi hồi, xúc động, cùng nhau hỏi thăm đôi lời. Tình cảm của ngày non trẻ đã lớn dần theo tháng năm trở thành tình yêu đôi lứa mặn nồng trong buổi trở về. Một tình yêu nồng đượm rực cháy giữa những năm tháng kháng chiến. Nhà thơ chuyển đổi đại từ xưng hô một cách tinh tế, từ “cô bé” ở khổ thơ này đã được chuyển thành đại từ “em” đầy thiết tha, trìu mến. Những cảm xúc hồn nhiên nay đã được nâng lên thành tình cảm giữa hai người trưởng thành, đầy nghẹn ngào, thắm thiết.

Nhưng tình yêu “nóng bỏng” cũng chẳng thể dập tắt được ngọn lửa kháng chiến, chẳng thể chiến thắng được sự khốc liệt của hoàn cảnh. Tình cảm càng lớn, thì nỗi đau mất mát lại càng gấp bội:

“Rồi hôm nay nhận được tin em

Không tin được dù đó là sự thật

Giặc bắn em rồi, quăng mất xác

Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!”

Từ một cô bạn ấu thơ, trở thành một người bạn đồng hành nơi chiên trường, rồi là một nửa của cuộc đời. Để rồi khi một nửa ấy mất đi, người chiến sĩ bỗng trở nên trống rỗng, “đau xé lòng”, “chết nửa con người”. Nỗi đau mất mát khiến anh không thể chấp nhận, không muốn tin vào sự thật, không muốn đối diện với hiện tại đau xót, tàn khốc. Đoạn thơ sử dụng liên tiếp các câu cảm thán thể bộc lộ sâu sắc nỗi đau chia lìa của tình yêu, trái tim như chết lặng ngàn lần. Tiếng gọi “em ơi” đầy tha thiết như tiếng nấc nghẹn ngào của người chàng trai trước sự ra đi đầy đau xót của một nửa thương yêu. Đoạn thơ đồng thời thể hiện sự căm phẫn của người chiến sĩ trước sự bạo tàn của các cuộc chiến tranh phi nghĩa, “chỉ vì em là du kích”. Một lí do chẳng đáng có để cướp đi cả một sinh mạng, một lí do không xứng đáng để chia lìa một tình yêu, để rồi người ra di, người ở lại mãi chẳng thể bên nhau. Đau xót đến tê tái, đến chết lịm người, tình cảm càng bền vững, khi mất đi càng gây đớn đau.

Khép lại bài thơ, Giang Nam đã nâng tình cảm riêng lên thành thứ tình cảm chung cao cả, hòa vào tình yêu quê hương đất nước diết da:

“Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.”

Quê hương giờ đây không chỉ là khái niệm của mỗi con người, tình yêu quê hương giờ đây không chỉ “qua những trang sách nhỏ”, mà nó đã trở thành những tình cảm chân thực đến đau nhói ở trong tim.Tình yêu quê hương, đất nước đã được đổi thay, đó không chỉ còn là tình yêu đơn thuần dành cho nơi sinh ra và lớn lên, yêu những vẻ đẹp của quê nhà, yêu những kỉ niệm đã gắn liền với thời ấu thơ. Mà hơn hết, tình yêu của hôm nay là quê hương có hình bóng của một người con gái bé nhỏ đã anh dũng hy sinh, của một trái tim rỉ máu còn đau xót. Tình cảm của người chiến sĩ, của tác giả còn rộng lớn hơn thế, đó là tình cảm dành cho những người đã ngã xuống, những người đã không tiếc cả sinh mạng để đem lại hòa bình cho dân tộc, đã đánh đổi xương máu để giành lại từ tay quân thù. Lời thơ tha thiết chứa chan tình yêu thương cùng sự xót xa, tiếc nuối mà đầy trước nỗi đau mất mát lớn lao. Tình cảm riêng đong đầy trong những tình cảm chung của cả một thế hệ thật cao cả nhường nào.

Tác phẩm “Quê hương” của nhà thơ Giang Nam đã để lại trong lòng người đọc nỗi đau xót khôn cùng, niềm tiếc thương vô bờ. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “cô bé nhà bên” luôn hiện diện trong tâm trí chàng trai thể hiện nỗi nhớ thường trực của người chiến sĩ. Tuy chiến đấu ngoài chiến tuyến nhưng không lúc nào nguôi nhớ thương về quê nhà mà ở đó có cô bé nhà bên, điều thân thuộc nhất đối với anh. Đồng thời, hình ảnh đó cũng cho thấy tình yêu đối với quê hương đất nước của người chiến sĩ, đã tự nguyện cống hiến cả tuổi trẻ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Với lời thơ tha thiết, Giang Nam đã viết nên “Quê hương” thể hiện những tình cảm chân thành mà mộc mạc của tình yêu lứa đôi giữa những năm tháng đạn bom tàn khốc. Qua đó, ngợi ca tinh thần dũng cảm cùng tình yêu quê hương đất nước nồng đượm của những người chiến sĩ. Nhờ vậy mà người đọc càng cảm nhận sâu sắc hơn nỗi đau của chiến tranh, càng yêu quý và trân trọng hơn vẻ đẹp của những anh hùng dân tộc.

(Bài làm của học sinh Ngô Hàn Chi)

 

PHƯƠNG DIỆN NGÔN TỪ CỦA TÁC PHẨM THƠ CA:

“BÓNG CHỮ” – LÊ ĐẠT

Raxun Gamzatop đã từng nói: “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” Lê Đạt là một người nghệ sĩ tài hoa, ông luôn có quyền kiêu hãnh với “cái tôi” riêng độc đáo, với những con chữ đầy phiêu diêu, mờ ảo được viết lên từ bóng chữ. Bài thơ “Bóng chữ” có lẽ không chỉ là một nhan đề của thơ ca mà còn là sự tổng kết lại cả phương diện ngôn từ của một đời thơ Lê Đạt.

Thơ là một loại hình văn học phản ảnh cuộc sống qua tâm trạng, cảm xúc dạt dào, tưởng tượng mạnh mẽ của người nghệ sĩ, vừa biểu hiện tính cá thể lại mang nét chung phổ quát trong thứ ngôn ngữ tinh luyện giữa hình ảnh và nhạc điệu. Lê Đạt là người đi đầu trong việc đổi mới ngôn ngữ thơ ca và đặc biệt có ý thức trong việc dụng công cho câu chữ, tìm kiếm ngôn từ cho bài thơ. Ông không thoả mãn với lối viết dường như đang biến thành một lối mòn của ngôn ngữ thơ ca đương thời. Sự khao khát bứt phá, đổi mới cho ngôn từ của Lê Đạt cùng với những nhà thơ khác đã tạo nên một dòng mạch mới trong thơ Việt đương đại, đó là “dòng Chữ”. Bản thể thuần khiết nhất của thơ ca là gì? Với Lê Đạt, với tinh thần vị nghệ thuật đầy nhân văn,  đặc trưng cốt tủy của thơ không phải nằm ở những tính năng xã hội của nó mà ở trong chất liệu ngôn từ. Ngôn từ là đặc trưng về nghệ thuật của mỗi tác phẩm thi ca, và ngôn từ trong thi ca là kết tinh cho vẻ đẹp của ngôn từ văn học. Mỗi chữ trong một bài thơ đều là sự đòi hỏi cao về độ ngắn gọn, chính xác và giàu tính gợi hình. Mỗi nhà thơ phải đào sâu suy nghĩ, tìm tòi để xây dưng những hình ảnh hình tượng văn học mang ngụ ý để bày tỏ cảm xúc cảm giác trước cuộc đời. Với Lê Đạt, thơ ông viết lên từ bóng chữ, khẳng định sự nhập nhòa, mờ ảo trong thơ ca có nguồn gốc từ con chữ. Ông “dùng bóng chữ, dùng hàm nghĩa nên chữ nọ gọi chữ kia, sinh sôi nảy nở…” Bóng chữ giống như ma lực, điều khiển ngôn từ trong thơ ông, tạo nên cả một cái hồn riêng, chúng tự biết yêu, biết nhớ, biết khóc, biết cười.  Giống như câu nói của Mallarmé: “Hãy trả lại tính chủ động cho chữ…”. Và đọc thơ Lê Đạt, chúng ta trở nên bị động trước những con chữ chủ động, đặc biệt ở “Bóng chữ”:

“Chia xa rồi anh mới thấy em

                           Như một thời thơ thiếu nhỏ

                           Em về trắng đầy cong khung nhớ

                           Mưa mấy mùa

mây mấy độ thu

                           Vườn thức một mùa hoa đi vắng

                           Em vẫn đây mà em ở đâu

                           Chiều Âu Lâu

                                                bóng chữ động chân cầu”

Lê Đạt viết lên “Bóng chữ” bằng một thể thơ tự do, khoáng đạt, cách ngắt nhịp dài ngắn không đều nhau. Mỗi từ, mỗi chữ đều thể hiện cái đặc biệt của nghệ thuật ngôn từ mang đậm dấu ấn cá nhân.Cả bốn mươi chín âm tiết trong bài thơ như biểu hiện dòng cảm xúc đang bị dồn nén, xô đẩy dồn tụ mất đến thăng bằng trong hoài niệm và cảm xúc của tác giả; sự mông lung, mộng mị, giàu ảo ảnh của ngôn từ đó khiến người đọc như lạc vào xứ sở sương mù của chữ nghĩa, trở thành sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức. Sự trau chuốt và để ý đến ngôn từ của ông thể hiện ngay ở nhan đề thơ “Bóng chữ” vừa lạ lùng, vừa dồi dào sự lay động. “chữ” ở đây chính là sự tồn tại của các kí tự và bóng chữ là ảnh chiếu, làm mờ nhạt đi những nét nghĩa bên ngoài vỏ ngôn từ để con người ta tự do thấu hiểu theo suy nghĩ cá nhân. Đơn giản hơn, “bóng chữ” của Lê Đạt chính là hiểu nghĩa đằng sau ngôn từ. Đồng thời, với một “kẻ phu chữ” ông gửi gắm vào nhan đề thơ một bóng dáng thương nhớ của một thời đã qua nhưng luôn được khảm sâu trong tâm tưởng. Bóng chữ cũng là “bóng nàng” – bóng dáng một nàng thơ nửa hư nửa thực; vừa như ở ngay trước mắt, vươn tay thôi có thể kéo lại gần, vừa như lại cách cả biển trời, xa vời vợi. Nhan đề bài thơ phải chăng  cũng chính là một sự tưởng niệm về một tình yêu dở dang, một thế giới hoài niệm đẫm màu nhớ thương trong trái tim tác giả.

Hai câu đầu bài thơ như một tín hiệu về sự tưởng nhớ một thời quá khứ. Hai vần bằng “xa rồi” tiếp nối hai vần trắc “mới thấy” ở dòng viết mở đầu vừa là sự đối lập của cái hiện hữu với cái đã qua, vừa bộc lộ một nỗi niềm xót xa: phải khi mất đi một điều gì quý giá, người ta mới biết cần học cách trân trọng. Nhà thơ đã dùng từ “thấy” thay vì “nhớ”; nhớ là cảm xúc, thấy là cái nhìn. Lê Đạt nhìn bóng dáng kia bằng cả giác quan, bằng tâm tưởng, bằng lí trí và xúc cảm. Câu thơ thứ hai như khẳng định sự tưởng nhớ ấy là điều quý giá ông đã từng trải qua, bởi “em” là của thời “thơ-thiếu-nhỏ”. Ba từ ấy đã tô đậm ấn tượng về một kỉ niệm đã qua, thời tinh khôi, thời gắn bó giữa anh và em. Hai chữ “th”, hai vần trắc liền nhau tạo nên một tiếng ngân lạ ở âm thanh chữ. Ba từ ấy rất đơn giản mà đa nghĩa, nhiều chiều, nhiều lớp tựa như “bóng chữ” hắt lên câu thơ cần sự suy ngẫm thấu hiểu. “Thời thơ thiếu nhỏ” vừa là thời đã qua, vừa là sự thu hẹp dần về mức độ nhỏ, khuyết, vắng, xa… của nàng thơ; khoảng cách để nhà thơ chạm đến bóng hình nhung nhớ ngày càng xa xôi, mờ ảo. Vậy nhưng cái còn lại và quý giá nhất để tạo nên chất men trong thơ, chất nồng trong trái tim đang đập rộn yêu thương chính là nỗi nhớ.

Bốn dòng thơ tiếp theo bắt đầu với cách nói đầy dung dị “Em về”- là cách mà em trở về trong tâm tưởng của anh tràn đầy với sắc trắng. Hàn Mặc Tử cũng từng viết: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Màu trắng như đại diện của một sắc thái hư vô, hư ảo đến mức không thể thấy rõ. Vậy mà cách Lê Đạt đặt những từ ngữ lại với nhau, để tính từ “trắng” đứng trước tính từ “đầy”, “nhớ”, và sau động từ “về” đã tạo nên sự kết hợp kì diệu. Sắc trắng giờ đây vẫn đang tràn đầy mọi ngắp ngách, lấp kín cả tâm trí, trắng đến mức như có sức mạnh va đập vào “khung” kí ức tưởng chững đã ngủ quên, đã đóng kín. Hình ảnh của cô gái luôn chuyển động, và bóng dáng thôi cũng tràn ngập sức sống, lay động đến mức làm cong vênh, méo mó cả khuôn thước tưởng là đóng khung trong hai từ “quá khứ”. Cách sắp đặt những chữ trong thơ khiến nỗi nhớ trong những kỉ niệm đong đầy về cô gái thời niên thiếu càng thêm đẹp đẽ, trong trắng, tinh khôi .

Cả bài thơ vang lên như một tiếng thở dài đã nén lại từ rất lâu bắt đầu bật ra từ hai chữ “chia xa” rất hiện thực, tiếng thở như nhấp nhô đầy hoài niệm và ảo tưởng không thể dừng lại được. “Mưa mấy mùa/ mây mấy độ thu” là một câu hỏi, cũng là tiếng khẳng định. Câu thơ vắt dòng ấn tượng, tuy không phải cách kết hợp mới, nhưng hai chữ “mây”, “mưa” liên kết như làm nên khoảng hẫng của không thời gian, của cảm xúc con người. Bao mùa đã qua, bao độ thu đã tới? Sự xoay vần của thời gian liên tục tuần hoàn đã làm thay đổi biết bao điều, duy chỉ có một “vườn thức” vẫn vẹn nguyên, không hề im ngủ. Vườn “thức” vì một “mùa hoa” đã từng hiện diện, tỏa hương ở đây nay đã “đi vắng”, cũng là hình ảnh ẩn dụ ngọt ngào cho nỗi nhớ cháy bỏng mang tên tình yêu vẫn rừng rực thức. Dù “hoa” đã đi xa, nhưng lại thức tỉnh, làm tỉnh ngộ nhân vật trư tình, thắp sáng nên tình yêu và nỗi nhớ. Khi mất đi người ta mới ý thức được đã từng có, “bóng chữ” vẫn ngân vang sự say đắm đến da diết “Em vẫn đây mà em ở đâu”. Tưởng rằng tác giả đang muốn gào lên “em đang ở đâu?” bởi sự khát cháy của nỗi niềm thương nhớ. Một tiếng thở giờ đây đã được khép lại bằng hai khoảng không gian “vẫn đây” cụ thể và  “mà đâu”mơ hồ, làm nên cảm xúc như mênh mang giữa thực và mơ, giữa tâm tưởng và hiện thực. Hay chăng đây chính là bi kịch tình yêu được thể hiện qua ngôn từ thơ ca. Em vẫn tồn tại, vẫn hiện hữu nhưng giờ đây đó không cònlà sự tồn tại thuộc về mình, sự hiện hữu chủ động của mình nữa. Còn gì xót xa hơn cho cái “có” nhưng không còn có, cái “thấy” nhưng không còn thấy nữa. Ý thơ là sự diệu vợi, xa xôi, niềm day dứ, tất cả chỉ là quá khứ dù vẫn đắm say, da diết nỗi nhớ.

Hai dòng cuối bài thơ tiếp tục vắt dòng ấn tượng khép lại bài thơ với nỗi buồn mênh mang, dàn trải. “Bóng chữ” của dòng thơ cuối cùng cũng mang nặng nỗi hoài niệm xa vời và bến Âu Lâu là không gian của thực tại, nơi nhà thơ sinh ra và giờ đây là nơi ông thổ lộ tình cảm. Chữ “thức” ở giữa bài và chữ “động” ở cuối bài là hai chữ treo nặng tình cảm nhất của nhân vật trữ tình. “Bóng” mãi là hình ảnh khắc sâu trong tâm trí, như rễ cây luôn gắn vào cội đất – bóng em mãi được neo đậu chắc chắn trong trái tim một chàng trai.

Bài thơ là sự cách tân mạnh mẽ của nghệ thuật ngôn từ đậm chất hậu hiện đại, đem đến cho người đọc cảm giác về sự xa vắng, bâng khuâng, nhớ tiếc, là cảm xúc và nhận thức của chàng trai trong tình yêu, và cũng là nhận thức sâu sắc về con người khi làm mất đi giá trị quý giá của cuộc đời.  Lê Đạt đã làm mờ đi nghĩa của chữ, những câu chữ gợi nhiều hơn là tả. Ông luôn tìm cách lạ hóa ngôn từ, đem đến những cảm giác mới mẻ, khác biệt cho người đọc, tạo nên “vân chữ” riêng của một người nghệ sĩ. Những cảm xúc chủ động của mỗi từ, chữ ông sáng tạo nên đã đem đến sự đổi mới trong ngôn từ của thơ Việt Nam đương đại, giống như mong muốn thuở ban đầu “đóng góp cho tiếng Việt, mở rộng, khám phá những địa hạt mới…  đó là mở rộng những biên giới mà không cần dùng đến vũ lực của chủ nghĩa đế quốc!”

Thơ Lê Đạt được gọi là “thơ Tạo sinh”, bóng chữ này nối tiếp bóng chữ kia, cảm xúc này nở, ý nghĩa sinh sôi, không bao giờ dừng lại. Ông đã viết “về bất hạnh bằng từ ngữ của hạnh phúc”. Thơ ông cũng là một hiện tượng đặc biệt của thơ ca Việt Nam, dù đã trải qua cả chặng đường dài với khó khăn gian truân, đã từng không được công nhận bị phản đối, nhưng cho đến hôm nay không một ai có thể phủ nhận tài hoa của ông, và thành công của “Bóng chữ”

(Bài làm của học sinh Dương Thị Hồng Nhung)

 

3.2.1.2 Cảm thụ tác phẩm truyện

 

GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” (NAM CAO)

“Văn học chính là một phương tiện hiệu nghiệm để tạo nên ở con người tất cả những gì mang tính nhân đạo, chân chính. Với khả năng ấy, văn học không chỉ góp phần hoàn thiện bản thân con người, mà còn hướng họ tới những hành động cụ thể, thiết thực vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.” Với dòng văn học 1930 – 1945, giá trị nhân đạo càng được thể hiện sâu sắc qua các tác phẩm mang tính tự truyện của nhà văn Nam Cao như: “Trăng sáng”, “Sống mòn”, “Mua nhà”,… trong đó không thể không nhắc đến truyện ngắn “Đời thừa” do ông sáng tác. Qua tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện cái nhìn nhân đạo của mình.

Nam Cao là nhà văn lớn tiêu biểu cho nền văn học hiện thực của nước ta trong giai đoạn những năm 1945. Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn, tác phẩm nào của ông cũng sâu sắc và để lại ấn tượng đặc biệt với bạn đọc.  Trong đó, giá trị nhân đạo luôn là giá trị không thể thiếu trong mỗi tác phẩm của ông. Chính giá trị nhân đạo đã làm nên tính nhân văn, sự riêng biệt và sức hấp dẫn trong mỗi tác phẩm, thể hiện cái nhìn bao dung, xót thương và sự cảm thông đối với số phận mỗi con người trong xã hội xưa.

Với truyện ngắn “Đời thừa”, sáng tác năm 1943 có thể xem là bước đệm để đến năm 1944, Nam Cao cho ra đời tiểu thuyết “Sống mòn” (1944). Cũng như “Sống mòn”, “Đời thừa” là sự tổng hợp của ngòi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm thể hiện hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Giá trị của truyện không chỉ ở việc miêu tả chân thật cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, không phải ca ngợi, thi vị hóa mà còn vạch ra mặt không tốt của họ. Tác phẩm tập trung miêu tả cái bi kịch tinh thần của nhà văn, của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ khát khao làm điều gì để nâng cao giá trị đời sống, mà kết cục chẳng làm được gì, chỉ lo cơm áo cuộc sống gia đình? Nam Cao qua đó gián tiếp lên án chế độ xã hội bất công đã đẩy người trí thức đến tình cảnh bế tắc…

“Đời thừa” gửi gắm đến người đọc câu chuyện về một bi kịch, một số phận đau khổ của một người trí thức đồng thời thể hiện cái nhìn nhân đạo của tác giả đối với con người và cuộc đời. Giá trị nhân đạo trước hết là giá trị cơ bản và quan trọng nhất của mỗi tác phẩm văn học, biểu hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp con người, cảm thương và trân trọng số phận của họ. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án, tố cáo xã hội phong kiến, những thế lực đã chà đạp lên danh dự và nhân phẩm của nhân vật. Truyện ngắn “Đời thừa” mang giá trị nhân đạo khi nó phản ánh chân thực, rõ nét về cuộc sống của người trí thức tiểu tư sản phải sống trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Tác phẩm đã trở thành “tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam Cao đã phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của người trí thức đương thời đang thiết tha đòi quyền sống.

Một trong những biểu hiện của giá trị nhân đạo qua truyện ngắn “Đời thừa” là sự xót xa, thương cảm trước nỗi khổ đau của nhân vật Hộ – một nhà văn, một người nghệ sĩ, một trí thức giữa cuộc đời đầy dâu bể. Con người ấy ý thức được thiên chức cao quý của mình, luôn giữ vững phẩm giá của một nhà văn nhưng cuối cùng lại bế tắc trước cuộc đời. Xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy bi kịch lớn nhất nhân vật Hộ chính là bi kịch về văn chương, văn học. Đối với Hộ, “nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”, anh luôn “băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác ra cùng thời…”. Với cách viết thận trọng, anh mơ ước sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của xã hội, hay nói lên được cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bằng. Nó làm cho người gần người hơn và đặc biệt tác phẩm ấy “ sẽ thắng giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu.” Thế nhưng, sau khi sống chung với Từ – vợ anh thì các tác phẩm của anh như thế nào? Anh đã viết một cách vội vàng, cẩu thả, viết nên những tác phẩm mà thậm chí khi đọc, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Hộ giận giữ với chính mình. Anh khinh ghét các tác phẩm chỉ “gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông trong một thức quá ư bằng phẳng, dễ dãi”. Anh dằn vặt, lên án chính mình “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” Nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong suy nghĩ của Hộ luôn là những nỗi lo về tiền bạc, về gia đình thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ và con anh không phải chết đói. Giá như anh không dính đến văn chương thì cuộc đời anh đâu phải khổ đến thế. Càng nghĩ tới văn chương, anh càng thêm đau khổ và khó khăn hơn. Trong tiểu thuyết “Sống mòn”, Nam Cao viết: “Đau đớn thay những kiếp người, muốn cất cánh bay cao những lại bị áo cơm ghì sát đất.” Đó chính là bi kịch cuộc đời viết văn, bi kịch văn chương của nhân vật Hộ dưới ngòi bút sắc sảo của nhà văn Nam Cao.

Bi kịch văn chương cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mơ văn chương của một con người luôn cẩn thận trong từng bài viết đã sụp đổ sau những lời vội vàng, cẩu thả. Bi kịch là vậy nhưng cuộc sống của anh lại được an ủi phần nào khi có Từ – vợ anh cùng các con. Thật sai lầm và thất vọng khi anh nghĩ rằng giấc mộng văn chương của mình vụt tắt là do vợ và các con anh. Trong những phút bất lực, khó khăn nhất của cuộc đời, anh đã tìm đến men rượu. Và rượu đã đưa Hộ trở thành con người vô học trong văn chương và là kẻ vũ phu trong gia đình. Rượu đã đẩy nhân vật Hộ đến đỉnh cao của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu vì sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh tỉnh dậy trong căn nhà của mình khi chân tay đã rã rời. Từ khi có men rượu, anh trở thành một con người khác, anh đánh đập vợ – một người vợ ngoan hiền, bấy lâu nay đã tận tình chăm sóc, an ủi phần nào cuộc sống của anh. Anh quát mắng Từ: “Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy… cũng đáng vật một nhát cho chết cả.”Anh đã làm tất cả trong cơn say, anh đã làm mất đi phần “người” cao đẹp của một nhà văn, của một người trí thức tưởng được sống trong hạnh phúc, trong tình yêu thương. Cuộc sống gia đình là điều quan trọng nhất, tốt đẹp nhất với anh mà giờ cũng chẳng là gì. Bi kịch này của anh lớn hơn rất nhiều bi kịch văn chương bởi tình thương gia đình là chỗ dựa vững chắc của mỗi người, là những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời con người. Đọc câu chuyện, dường như ta thấy được tình cảm mà Nam Cao đặt trong đó, ông cũng như thổn thức cùng nhân vật, đau xót trước bi kịch của nhân vật.

Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo mà Nam Cao gửi gắm trong tác phẩm chính là tiếng nói phê phán, lên án tố cáo những thế lực tàn ác, một xã hội phong kiến bất công đã chà đạp lên nỗi đau của con người, đặc biệt là nhân vật Hộ. Xã hội ấy đã đẩy Hộ tới đỉnh điểm của sự tha hóa, của những bi kịch khủng khiếp, số phận éo le. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến bi kịch của nhà văn Hộ có thể coi là từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã khiến anh phải ngày ngày lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo tiền bạc, nỗi lo gia đình đã khiến anh phải từ bỏ đam mê nghệ thuật, đam mê văn chương mà bấy lâu anh hằng ấp ủ, thực hiện. Và từ đó, anh thất vọng, bất lực rồi đi đến bế tắc, chà đạp, hủy hoại chính lẽ sống tình thương của mình. Anh trở thành kẻ vũ phu, đánh đạp vợ, đối xử không tốt với những đứa con mà ban đầu anh yêu thương, chăm sóc. Nguyên nhân ấy, nguyên nhân từ xã hội thực dân nửa phong kiến ấy chắc có lẽ anh không nhận ra. Trong hoàn cảnh bế tắc của thời đời đang sống, Hộ chưa tìm được lối thoát để nhận ra những việc làm của bản thân. Qua cách xây dựng nhân vật Hộ với những bi kịch, và số phận éo le, nhà văn Nam Cao buộc người đọc phải nhìn “sâu sắc hơn, chăm chú hơn” về hiện thực đời sống, hiện thực mà xã hội đương thời đang chà đạp lên con người để độc giả thấy được mà phê phán, lên án những thế lực ấy, để xót xa, cảm thông cho nhân vật trong tác phẩm.

Bên cạnh việc thể hiện niềm cảm thương nhân vật và phê phán xã hội xưa thì nhà văn Nam Cao còn phát hiện và nâng niu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật. Với cách miêu tả, Hộ là một nhà văn chân chính. Anh được xây dựng là người có ý thức trong văn chương. Hộ đam mê, say sưa trước văn chương và có những ước mơ, khát vọng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà nó sẽ “ làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra cùng thời” và “đạt giải Nobel”. Đó là một tác phẩm “ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bằng. Nó làm người gần người hơn.”  Tuy sống trong hoản cảnh khó khăn nhưng đam mê và ước mơ về nghề văn chương vẫn không bao giờ biến mất trong tâm tưởng, suy nghĩ của nhân vật Hộ. Tác phẩm mà anh sáng tác ra tuy chỉ là một cuốn những sẽ là cuốn tiểu thuyết vĩ đại  trong cuộc đời viết văn của anh, phần nào thay đổi cuộc sống của anh. Đó chính là những ước mơ cao đẹp, vĩ đại và vô cùng chính đáng. Đọc tác phẩm, người đọc thấy rằng không phải người nghệ sĩ nào cũng có những khao khát như anh khi bước vào con đường văn chương ban đầu đầy khó khăn, thử thách. Người nghệ sĩ phải biết xây dựng những ước mơ, khát vọng, niềm đam mê chân chính , điển hình với nhân vật Hộ và cuối cùng sẽ xác định tư tưởng,thành công trên con đường mình đã chọn. Anh lên án những thứ văn chương rẻ tiền, hời hợt, dẽ dãi. Đó là thứ văn chương “cẩu thả”, “bất lương”. Anh đòi hỏi ở văn chương sự mới lạ, sáng tạo bởi văn chương “chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những nguồn chưa ai có.” Nhân vật Hộ được xây dựng là một con người đầy hoài bão, khát vọng vươn tới những đỉnh cao của văn học. Hộ là một nhà văn chân chính.

Hộ không chỉ là một người nghệ sĩ chân chính mà anh còn là người giàu lòng nhân ái. Qua lời khẳng định về tác phẩm của mình trong tương lai là tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca ngợi lòng yêu thương, tình bác ái, sự công bằng.”Anh ca tụng tình yêu thương. Chính vì thế, anh đã đón nhận và đối xử với Từ cùng các con chu đáo, giúp Từ thoát khỏi suy nghĩ, sự tủi nhục khi một mình cô đơn với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ, và người mẹ già đã khiến anh xúc động bởi anh là một người nghệ sĩ, một người có lòng nhân ái và giàu lòng bao dung. Cuộc sống của Từ khi gặp anh, được anh đối xử bằng tình thương yêu của mình đã giúp Từ thoát khỏi nỗi đau, và sự cô đơn. Một người nghệ sĩ dám từ bỏ nghề nghiệp, cái văn chương đã đi sâu vào tâm trí như Hộ để dành thời gian ở bên vợ con thì thật dũng cảm, thật cao đẹp.

Khi đọc tác phẩm, ta có thể thấy rằng Nam Cao đã gửi gắm niềm tin, sự trân trọng của mình, mong muốn nhân vật Hộ vươn lên, và thoát khỏi bế tắc. Kết thúc tác phẩm là một hình ảnh cảm động: cả Hộ, Từ và đứa con cùng ôm nhau khóc. Vì trước mặt Hộ, tháng tới lấy gì để sống, tiền nợ tháng trước chưa trả, tiền nhuận bút tháng này đã xài hết. Và những giọt nước mắt, tiếng khóc ấy đã cho thấy sự hối hận, đau khổ đến tột cùng của một người trí thức tiểu tư sản đầy nhân cách. Giọt nước mắt anh như sự vực dậy và niềm tin của tác giả đặt vào anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực của sự tha hóa. Cuối tác phẩm là lời hát ru con đầy xúc động với những câu hỏi tu từ đặc sắc:

Ai làm cho gió lên giời,

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li:

Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…

Giá trị nhân đạo của Nam Cao thể hiện qua tác phẩm là tư tưởng đề cao những ước mơ, khát vọng của người trí thức nghèo, thông cảm cho bi kịch của họ. Tư tưởng ấy thật mới mẻ bởi nó toát lên tình yêu thương con người, sự nhân ái sau những thứ văn chương đầy khó khăn, khổ đau. Dường như ta có thể bắt gặp hình ảnh của nhà văn Nam Cao trong nhân vật Hộ. Sự mới mẻ trong tư tưởng ấy đã truyền đến trái tim người đọc sự cảm thông, xót xa và trân trọng. Các tác phẩm của Nam Cao thành công khi ông biết đặt mình vào nhân vật, nói lên những triết lí sâu sắc và thể hiện giá trị nhân đạo vô cùng thấm thía. Với tác phẩm “Đời thừa”, nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông và trân trọng nhân vật Hộ và biết bao kiếp người của xã hội xưa, đồng thời lên án tố cáo thế lực đã đẩy con người đến sự tha hóa nhưng ông đã thể hiện niềm tin của mình vào nhân vật mà ông xây dựng có một cuộc sống tốt hơn, họ biết “trở về” con người thật của mình sau những bi kịch và sự bất lực. Và tư tưởng nhân đạo ấy không chỉ được Nam Cao thể hiện trong truyện ngắn “Đời thừa” mà còn rất nhiều các tác phẩm, tiểu thuyết của ông. Tiếp nối thời đợi, giá trị nhân đạo được nói đến trong các tác phẩm trung đại và hiện đại, các nhà văn, cũng giống như Nam Cao bên cạnh việc lên án xã hội, xót xa cho bi kịch nhân vật mà còn thể hiện niềm tin, sự trân trọng, và ca ngợi vẻ đẹp của con người, gửi gắm những bài học cho người đọc và những thời đại sau.

Lê Trí Viễn từng nói: “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thường, lòng thương người”. Và với truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao đã thể hiện thành công giá trị nhân đạo, truyền được cảm xúc đến người đọc không chỉ ở việc thể hiện vẻ đẹp, xót xa bi kịch nhân vật mà còn “mới mẻ, độc đáo” khi khắc họa sâu sắc tình yêu thương, lòng thương người mà ông dành cho nhân vật cũng như tình cảm mà nhân vật thể hiện trong tác phẩm. Cùng với đó, việc lên án và phê phán xã hội phong kiến xấu xa, vạn ác là một biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo

(Bài làm của học sinh Bùi Hồng Hải)

 

 

3.2.1.3Phân tích, cảm thụ tác phẩm kịch

 

SỐNG HAY KHÔNG SỐNG, ĐÓ LÀ VẤN ĐỀ….

 

Nếu nhà thơ Xuân Diệu có câu thơ nói lên triết lý sống của ông là:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

thì đại văn hào Shakespeare có một câu nói nổi tiếng cả thế giới về triết lý sống của con người ở đời: “To be or not to be, that is the Question.” (Sống hay không sống, đó là vấn đề).

Câu nói này lần đầu tiên xuất hiện trong hồi III, cảnh I của vở kịch “Hamlet” được Shakespeare viết vào năm 1603. Hamlet đứng trước những sự thật khủng khiếp: cha của chàng bị giết chết, bóng ma vua cha hiện lên, bảo chàng phải báo thù, chàng khám phá những tội ác nhơ bẩn của triều đình đầy quyền lực, biến tổ quốc chàng thành một nhà tù. “Sống hay không sống” có nghĩa là chịu đựng hay vùng lên chiến đấu để phá tan nhà ngục, mang lại tự do cho con người. Ðộc thoại chứa đựng câu nói trên của Hamlet là một bước ngoặc của vở bi kịch.

Hoàng tử nước Ðan Mạch Hamlet, từ trường Ðại học Ðức trở về nước. Vua vừa chết được một tháng thì Hoàng hậu lấy em trai vua là Clauđiut. Hồn ma Vua, cha của chàng hiện về, bảo cho Hamlet biết chính Clauđiut đã đầu độc vua để chiếm ngai vàng và hoàng hậu, mẹ Hamlet. Chàng đau đớn hoài nghi tất cả; triều đình toàn một bọn ngu xuẩn, nịnh thần, chó săn. “Ðan Mạch là một nhà tù bẩn thỉu, khủng khiếp”. Chàng yêu Ôphêlia, chỉ còn nàng Ôphêlia xinh đẹp, dịu dàng là có trái tim trong sáng; song nàng là con gái một gian thần, Pôlôniut và mềm yếu. Hamlet giả điên để tìm sự thật. Một hôm, chàng mời một đoàn kịch vào Cung điện diễn một vở kể sự tích một vụ mưu sát Vua. Clauđiut xem đến cảnh gian thần đầu độc Vua, thì hốt hoảng bỏ về phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo dõi từng bước, định rút kiếm giết chết kẻ tiếm quyền nham hiểm song chàng do dự, tra kiếm vào vỏ. Clauđiut quyết định tiêu diệt Hamlet. Hắn cử Hamlet sang Anh và cho hai tay sai chó săn, bạn cũ của Hamlet, hộ tống hoàng tử với một bức thư mật, yêu cầu vua Anh giết chết Hamlet. Nửa đường, biết sự thật, chàng quay trở về Ðan Mạch, viện cớ tàu bị cướp biển, chàng được tha về. Trước đấy, Hamlet đã giết chết Pôlôniut khi hắn rình nghe trộm buổi chuyện trò giữa chàng và hoàng hậu, vì chàng tưởng kẻ nghe trộm sau bức màn là Clauđiut. Nàng Ôphêlia hiền dịu và trong sáng, tuyệt vọng vì Hamlet hoá điên và vì cha chàng chết; nàng lang thang như một người mất trí rồi chết đuối ở một dòng suối trong suốt. Còn con trai của Pôliniut là Laơct đòi Vua Clauđiut phải cho chàng trả thù người đã giết cha mình. Clauđiut nói cho chàng biết người đó chính là Hamlet. Vua tổ chức cuộc đấu kiếm giữa Hamlet và Laơct. Vua ngầm sai người tẩm thuốc độc vào mũi kiếm của Laơct và pha một cốc rượu độc để mời Hamlet uống. Song, sự việc biến diễn khác. Khi Hamlet thắng Laơct trong một hiệp, Hoàng hậu cầm đúng cốc rượu độc uống mừng con. Ðến hiệp sau, Laơct đâm trúng Hamlet bằng kiếm tẩm độc. Ðổi kiếm, Laơct bị một mũi kiếm tẩm độc của chính mình. Hoàng hậu ngấm độc, ngã gục xuống và chết. Laơct biết mình sắp chết, nói tất cả âm mưu của Clauđiut, chàng và Hamlet sẽ chết vì mũi kiếm tẩm độc. Cả triều đình dự buổi đấu kiếm nháo nhác. Hamlet lấy kiếm tẩm độc đâm chết Clauđiut. Kết thúc vở kịch, quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi vĩnh cửu trong khi đại bác vang lên đón mừng ông Vua mới, Photinbrat.

Hamlet là tác phẩm mở đầu giai đoạn sáng tác bi kịch của Shakespeare ,  thời kỳ  ông đã từng trải  hai mươi năm bôn ba chìm nổi . Đó cũng là thời kì xã hội  đang đẻ ra những mâu thuẫn gay gắt chưa từng thấy. Con người lý tưởng của thời đại Phục hưng mà trước đây Shakespeare từng biểu hiện trong các vở kịch của mình dần nứt rạn , tan vỡ.  Một kiểu con người mới  ra đời : đó là con người đau khổ và bất bình trước thực tế phũ phàng của một xã hội đen tối đầy rẫy tội ác, con người băn khoăn muốn đánh giá lại toàn bộ cuộc sống trước mắt nó. Hamlet chính là hiện thân của kiểu người mới ấy:bản  chất thông minh, tư tưởng tự do khoáng đạt, tâm hồn cao quý, tấm lòng nhạy cảm. Xuất thân trong hàng quý tộc mà đã sớm gặp cảnh ngộ đắng cay chua xót, chàng sớm nhìn thấy mặt thật của xã hội, “sự áp bức của kẻ bạo ngược, sự trì chậm của công lý, sự hỗn xược của cường quyền, sự miệt thị của kẻ bất tài…”, cho nên trước mắt chàng cả thế giới chỉ là “một ngục thất rộng lớn”, và “Đan Mạch này à một ngục thất đáng ghê tởm nhất”. Thực tế phũ phàng của cuộc sống đã làm cho chàng phải đánh giá lại tất cả mọi quan hệ trong cuộc sống – từ tình họ hàng,tình vợ chồng, cho đến tình mẹ con, và cả đến tình yêu. Với Hamlet , vấn đề không chỉ  là nghĩa vụ trả thù và  đòi lại ngai vàng từ tay người chú ruột mà quan tâm hơn là   phẩm giá, lẽ phải  và lối sống con người.Thậm chí, trong cơn giày vò của đau khổ, chàng đã có lúc băn khoăn đặt lại cả vấn đề to lớn nhất: “Sống hay không  sống?”

“Sống hay không sống” – câu nói được viết ra ngay lúc hoàng tử xứ Đan Mạch đang băn khoăn giữa sự sống và cái chết. Sống thì sẽ phải sống như thế nào khi mà cuộc đời là: the sea of troubles – the slings and arrows – the thousand natural shocks (một biển trời rắc rối – những ná bắn và cung tên – và hàng ngàn những cú sốc).

Nhưng chàng cũng chẳng mấy chắc chắn về những gì sẽ đến sau khi chết: the dread of something after death (những nỗi khiếp đảm ngay sau cái chết). Hamlet băn khoăn không biết phải làm gì trong lúc này nên mới đặt ra câu hỏi “To be or not to be”. “Sống hay không sống” có nghĩa là chịu đựng hay vùng lên đấu tranh để giành được tự do và có được cuộc sống đích thực.

Không sống không có nghĩa là chết, mà nghĩa là tồn tại (exist). Tồn tại và sống hoàn toàn khác nhau vì tồn tại chỉ đơn giản là bạn có mặt trên cõi đời này mà thôi, còn sống có nghĩa là bạn phải làm cho cuộc đời mình trở nên có ý nghĩa bằng cách cống hiến hết mình cho đời. Sống có nghĩa là bạn phải có nhiệt huyết, phải có ước mơ và cố gắng hết mình để hoàn thành ước mơ đó.

Nhìn xa thì cuộc đời là hài kịch, nhìn gần thì cuộc đời là bi kịch…

Có những người rất thông minh sống trong thế giới này vì họ luôn biết cách làm chủ thế giới. Bản thân mỗi chúng ta, ai cũng luôn muốn làm được điều đó, để hiểu ý nghĩa thật sự của cuộc sống, vì mỗi ngày qua là một sự cố gắng như một món quà mà không có lại được. Những ngày đã sống đang dài ra chính là tuổi đời đang ngắn lại. Sống lâu đã gọi là sống chưa? Hay chỉ là đã tồn tại trong thời gian dài, ngủ im trong khi thế giới ngoài kia đang thức?

Con người ít ai tự nhận mình đang tồn tại. Bản thân con người không ai hoàn hảo. Vấn đề cốt lõi là biết mình là ai và đứng đâu trong thế giới rộng lớn này. Mình lại là một con người đa mang, nên không khi nào ngừng suy nghĩ xem mình đang là ai và sẽ trôi về đâu? Sống và tồn tại, mình đang đứng ở khoảnh khắc nào? Tại sao chúng ta lại phải sống thế này ngày qua ngày? Tại sao chúng ta không có cách giải thoát tốt nhất? Hay bản thân mỗi con người trong thế giới này đều tồn tại mà không biết mình đang tồn tại?

Đánh giá về tác phẩm, nhiều nhà nghiên cứu nhận định Hamlet thực sự là một trong những bi kịch nổi tiếng nhất của lịch sử sân khấu thế giới. Trong một hình thức nghệ thuật kịch-thơ trữ tình tuyệt vời, tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Trong sự bát nháo của một xã hội với “nhà tù”, “sự bẩn thỉu”, “phải hàng vạn người mới nhặt ra được một kẻ lương thiện” vẫn lóe sáng những hạt vàng của chủ nghĩa nhân văn, với nhân vật Hamlet không chỉ quan tâm đến nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết đến phẩm giá, lẽ sống và lối sống con người. Thực tế xã hội xấu xa mâu thuẫn với lý tưởng của chàng, khiến chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một thái độ cư xử phải đạo. Quá trình đánh giá thực tế và xác định đó đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn trở “tồn tại hay không tồn tại” (to be or not to be), những phút “chịu đựng hay vùng lên chống lại”. Cuối cùng, Hamlet đã tìm ra được chân lý đấu tranh nhưng vì đơn độc và thiếu cảnh giác nên chàng đã gục ngã vì cạm bẫy của kẻ thù. Ngày nay, trong văn học thế giới vẫn tồn tại khái niệm “bệnh Hamlet” chỉ thái độ suy tư, lý luận nhiều nhưng không đủ tin tưởng và dũng khí để hành động cụ thể. Nhưng dù sao chăng nữa, Hamlet cũng sống mãi trong lòng độc giả thế giới, với bi kịch của cuộc đời chàng phản ánh mâu thuẫn tất yếu của sự phát triển, của cuộc đấu tranh giữa cái đẹp và cái xấu trong tồn tại xã hội. Hamlet sẽ luôn làm nảy sinh trong lòng người muôn đời sau không chỉ tâm trạng trước nỗi buồn mà còn cả những xúc cảm thẩm mĩ, hướng họ đến những suy cảm về cái cao cả luôn hiện hữu giữa cõi đời trong đục.

(Bài làm của học sinh Vũ Ngọc Anh)

3.2.2 Dạng đề so sánh

Đề 1: So sánh một phương diện trong “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh và “Truyền Kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ.

 

GIÁ TRỊ HIỆN THỰC DƯỚI NGÒI BÚT KỲ ẢO TUYỆT DIỆU

 

Leeonit Leeonap đã từng nói rằng “mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung”. Quả thực không sai, giá trị của nghệ thuật nói chung hay văn chương nói riêng cốt lõi ở sự sáng tạo trong các thư pháp nghệ thuật và khắc sâu ở nội dung phản ánh. Mỗi nhà văn là một kiến trúc sư tài tình đã phác họa, xây dựng nên những đứa con tinh thần của mình theo lối viết riêng, phong cách riêng nhằm gửi gắm tới độc giả một tư tưởng độc đáo, mới mẻ, thấm thía. Ngược dòng thời gian chúng ta biết tới “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh và “Truyền Kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ; hai tác phẩm nổi tiếng thể hiện sâu sắc nội dung, giá trị hiện thực dưới ngòi bút kỳ ảo, tuyệt diệu, sáng tạo.

Trước hết chúng ta cần hiểu giá trị hiện thực là gì? Đó là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm của mình, tùy vào dụng ý nghệ thuật mà hiện thực đó có thể đồng nhất với hiện thực cuộc sống hoặc là hiện thực được hư cấu để phản ánh sự thực trên nhiều góc độ . Trái ngược với hai chữ “hiện thực”; “kỳ ảo” lại là một thế giới mới, ngòi bút kỳ ảo là sự tưởng tượng, hư cấu: lấy cái ảo, cái mơ hồ không có thực để nói cái thường, cái thực thể hiện ý thức sáng tạo, tầm nhìn và tư duy phong phú của người nghệ sỹ. Hiện thực đan xen và được thể hiện qua sự kỳ ảo mơ hồ hay sự kỳ ảo là cốt lõi phản ánh một điều thực tạo nên những tác phẩm văn chương nhiều mầu sắc, yếu tố thẩm mĩ, nhân văn, nhân đạo cao cả.

Tuy là hai tác phẩm được ghi lại trong hai thời điểm khác nhau, được chắp bút với một tác giả Trung Quốc tài hoa và một danh sỹ ưu tú của Việt Nam nhưng “Liêu Trai Chí Dị” và “Truyền Kỳ Mạn Lục” đều là những tác phẩm ghi lại , sáng tạo những chuyện lạ, kỳ bí ở đời nhưng mang tầm tư tưởng lớn, nội dung phong phú, đa dạng. Trong hai kiệt tác chúng ta không khỏi ấn tượng trước yếu tố kì ảo được vận dụng sáng tạo vô cùng điêu luyện từ đề tài, nhân vật, tình tiết cho tới thời gian, không gian, nghệ thuật. Thông qua các nhân vật hư cấu như thần liêu, ma quái… hai tác giả muốn gửi gắm ý tưởng phê phán xã hội đương thời với chủ nghĩa, đả kích nền chính trị bấy giờ, đồng thời nêu lên sự trân trọng, ca ngợi giá trị tốt đẹp trong đời sống như quyền sống của nhân dân, tình yêu đôi lứa, nghĩa vợ tình chồng và những triết lý sâu sắc…

Trước hết người đọc vô cùng ấn tượng trước giá trị hiện thực trong ngòi bút kì ảo qua tác phẩm “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh. Trải qua bao biến động của lịch sử, qua thời gian tập truyện ngắn này vẫn được coi là kiệt tác văn học, là niềm tự hào của văn học Trung Hoa nói riêng hay là sự ngưỡng mộ, thán phục của thế giới nói chung. Ra đời vào đầu đời nhà Thanh (cuối thế kỷ 17), bộ truyện gồm 431 thiên được coi là một kỳ thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại. Giá trị và ngòi bút nghệ thuật của tác giả Bồ Tùng Linh được thể hiện trong chính cách lựa chọn đề tài và nhân vật. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là những chuyện về người và cuộc sống hiện thực nhằm ngụ ý chỉ trích nền chính trị tàn bạo của Triều đìnhMãn Thanh đương thời, phê phán thói hư, tật xấu của bọn nho sĩ, thể hiện tư tưởng trong vấn đề tình yêu, hôn nhân. Dưới ngòi bút sáng tạo tài tình nhân vật chính trong các truyện ngắn đều được tái hiện qua góc nhìn đậm chất kỳ ảo như thần liêu ma quái, hồ ly, lang sói, hổ, báo… cho tới khói , mây, đá, gạch, cây cỏ hoa lá… tất cả tạo nên một thế giới riêng mà khi đọc và cảm nhận chúng ta mới có thể thấm hết  tầm tư tưởng đầy hiện thực và nhân đạo của tác giả. Trong chuyện “Dế Chọi” chương 116 trong quyển 7 của tác phẩm Bồ Tùng Linh mang cái nhìn ly kỳ mà vô cùng thực tế độc giả. Những chi tiết hư cấu, thần kỳ như: Thành Danh bắt được con dế cực kỳ to khỏe theo sự chỉ dẫn của bức vẽ trên mảnh giấy mà cổ đồng ném cho; tiếp đó là: đứa con tội nghiệp của Thành Danh sau khi xác được vớt từ dự li tiếng lên hơn một năm, tinh thần trở lại như xưa, kể lại “Mình đã hóa thành dế lanh lẹ, chọi giỏi nay mới thực sự sống lại”… tất cả gợi lên nhiều liên tưởng, suy ngẫm cho chúng ta. Lời kể sáng tạo, ngòi bút ly kì xây dựng hình ảnh con người làm được việc phi thực tế hay mất đi sống lại tưởng như xa dời hiện thực nhưng ở đây chúng kết hợp, đan cài chặt chẽ, tinh tế góp phần làm tăng giá trị tố cáo đanh thép. Tác giả ở cuối truyện phê phán đích danh kẻ thống trị tối cao, gọi tên bọn quan lại với đủ chức sắc và nêu bật bản chất tham quan lại ngược của chúng. Yếu tố “ảo”, “thực” tới đây chặt chẽ không ngờ, tạo ấn tượng đặc biệt, độc đáo. Truyện thành công không chỉ bằng ngòi bút tài hoa và giá trị hiện thực sâu sắc mà còn tô đậm tấm lòng nhà văn với con người, cuộc sống.

Nếu như “Liêu Trai Chí Dị” là niềm tự hào của  người dân Trung Hoa thì văn học Việt Nam vô cùng hãnh diện khi có “Truyền Kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ một áng “Thiên cổ kì bút” của bao thế hệ độc giả biết tới, trân trọng. Tác phẩm ra đời khoảng thế kỷ 16 được viết bằng chữ Hán sau được dịch ra chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Tập truyện gồm 20 truyện xen lẫn diễn văn và thơ ca, lời bình; đánh dấu bước tiến quan trọng về nghệ thuật, bút pháp cho tới nội dung của văn học chữ Hán. Trong đó “Chuyện chức phán sự đền tản viên” là truyện điển hình cho hiện thực kết hợp với kỳ ảo; bối cảnh truyện thời kỳ giặc Minh xâm lược nước ta nhưng được tác giả viết lại vào khoảng nửa đầu thế kỷ 16 khi chế độ phong kiến đang suy thoái, đầy mâu thuẫn. Nội chiến Lê Mạc bắt đầu xảy ra do vậy mà các thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện được tái hiện đầy kì ảo đó đã phần nào phản ánh hiện thực các thế lực cường quyền, phong kiến chia bè kết phái, hãm hại dân lành. Chịu ảnh hưởng từ tư duy thần linh siêu hình của dân gian, yếu tố kì ảo, hoang đường trong tác phẩm trước hết là sự xuất hiện của các nhân vật cõi âm như: hồn ma tên tướng giặc phương Bắc, quỷ Dạ Xoa, Thổ Công, Diêm Vương, các phán quan, tiếp đó là nhân vật Ngô Tử Văn tuy không là người từ cõi âm hay có sức mạnh siêu nhiên nhưng tác giả xây dựng cho chàng không gian nghệ thuật hư ảo như giấc mơ nối liền âm, dương gặp gỡ, nói chuyện với hồn ma và không gian âm ti được miêu tả “lanh tới thấu xương”. Bút pháp li kỳ còn được thể hiện ở việc Ngô Tử Văn chết đi sống lại hai lần tuy nhiên góp vào tổng thể chung những sáng tạo nghệ thuật độc đáo ấy nhằm nêu lên hiện thực thái độ của tác giả về bọn quan lại nhiễu nhương, vô lại, bất công cho những người khảng khái, cương trực. Yếu tố “ảo”, “thực” không hề tách nhau, cái li kỳ là nền tảng để tôn lên cái hiện thực rối ren của xã hội , cuộc sống thời đại.

Quả thực nếu chỉ qua điểm tên, đọc qua loa, đại khái độc giả sẽ chẳng cảm được hết sự kết hợp độc đáo giữa hiện thực và ảo ảnh trong “Liêu Trai Chí Dị’ và “Truyền Kỳ Mạn Lục”. Nhờ đó ta càng cảm phục tài năng nghệ thuật tinh tế , trí tưởng tượng phong phú của Bồ Tùng Linh và Nguyễn Dữ. Việc sử dụng yếu tố kì ảo như một phương thức nghệ thuật để chiếm lĩnh, tái hiện cuộc sống như làm tăng thêm hiệu quả biểu hiện cho các tác phẩm văn học trong cách nhìn nhận hiện thực; qua đó mà sức hấp dẫn tăng lên, độ thuyết phục cũng cao hơn. Qua thời gian các nhà văn Trung đại, hiện đại khác cũng đã tiếp thu lối viết ảo – thực đan xen tạo nên phong cách riêng cho tác phẩm của mình như Phạm Bình Hổ với “Vũ Trung Tùy Bút”; Nguyên Trường với “Nam Ông Mộng Lục” hay các nhà văn hiện đại như Nam Cao với “Ma Đưa”, Bùi Hiển với “Chiều Sương” đều tiếp thu, sáng tạo tinh hoa văn hóa, văn học của cha ông, của nước ngoài tạo nên các tác phẩm có ảo, thực, có truyền thống, hiện đại.

Văn học không phải đưa nguyên si hiện thực vào tác phẩm hiện thực đó mà phải được chon lọc và tái tạo, tưởng tượng mới để lại dấu ấn tốt đẹp với bạn đọc. Ảo và thực; li kỳ, kì ảo quyện hòa vời hiện thực cuộc đời là một chân lý, một nghệ thuật của văn học, đưa văn chương tới gần với các thế hệ độc giả.

(Bài làm của học sinh Lâm Khánh Linh)

 

Đề 2: Hình ảnh người lính qua hai bài thơ: Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng)

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

– Hình tượng người lính là hình tượng trung tâm của Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến

– Bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng) cùng sáng tác năm 1948, với đề tài là hình ảnh những người lính đấu tranh gian khổ kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Tuy nhiên, mỗi bài thơ là một cái nhìn tạo nên nét độc đáo riêng của hình tượng, làm hoàn thiện ấn tượng cho người đọc vẻ đẹp của những người chiến sĩ cách mạng.

  1. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
  2. Khái quát về bài thơ Đồng chí (Chính Hữu)
  3. Khái quát về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)
  4. Nét độc đáo về hình tượng người lính ở mỗi bài thơ
Đồng chí Tây Tiến
Xuất thân Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo:

 

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Người lính trong Tây Tiến họ đều xuất thân từ Đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có tri thức, có tâm hồn lãng mạn hào hoa.
Hoàn cảnh sống và chiến đấu – Đó là hoàn cảnh sống thiếu thốn: Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày

– Hoàn cảnh sống khắc nghiệt, phải đối mặt với những trận sốt rét rừng: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

– Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ: Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

– Những cuộc hành quân gian khổ, vượt qua sự hùng vĩ hiểm trở của núi rừng Tây Bắc: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống…

– Hoàn cảnh sống và chiến đấu gian khổ hiểm nguy: phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm; phải đối mặt với sự đe dọa của thiên nhiên: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Bức chân dung người lính – Vẻ đẹp chất phác, bình dị:

Những người lính ra đi từ những làng quê nghèo, họ bình dị trong sinh hoạt và trong cả những nghĩ suy: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính; Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ…

– Vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội:

+ Họ cùng sẻ chia với nhau những khó khăn hoạn nạn, thiếu thốn: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

+ Họ luôn thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau, luôn sát cánh bên nhau: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay; Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới…

– Vẻ đẹp hào hùng:

+ Hào hùng trong dáng vẻ: Dữ oai hùm, Mắt trừng...

+ Hào hùng trong ý chí: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới; Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

+ Hào hùng trong quyết tâm vượt mọi gian khổ hiểm nguy, tư thế hiên ngang ngẩng cao đầu: Heo hút cồn mây súng ngửi trời;

+ Hào hùng trong cái chết: Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành

– Vẻ đẹp hào hoa

+ Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây hoang sơ, hùng vĩ và trữ tình

+ Hào hoa trong cách nhìn, cách cảm nhận về hình ảnh con người, đời sống, với những Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi; Mai Châu mùa em thơm nếp xôi, Khèn lên man điệu nàng e ấp; hay Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

+ Hào hoa trong những khát khao mơ mộng, khi Nhạc về Viêng chăn xây hồn thơ, lúc lại Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Nhận xét Bút pháp hiện thực chủ đạo, Quang Dũng khắc họa bức chân dung những người nông dân mặc áo lính bình dị, hồn nhiên mà bên nhau nghĩa tình đồng đội thắm thiết. Bút pháp hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã tạo dưng bức chân dung những người lính trẻ Tây Tiến xếp bút nghiên ra sa trường, vừa dũng cảm, kiêu hùng vừa đầy lãng mạn, hào hoa
  1. Vẻ đẹp của người lính chống Pháp qua hai bài thơ

– Vượt lên hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, những người lính vẫn sống và chiến đấu hiên ngang, dũng cảm.

– Những người lính luôn mang trong mình tâm hồn lạc quan, yêu đời

– Tình cảm gắn bó keo sơn trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng.

*Nhận xét: Với nguồn cảm hứng khác nhau, nhưng hai tác phẩm đã phản ánh rất thực và rất đẹp về người lính trong một thời kì lịch sử đau thương mà vẻ vang của dân tộc. Mỗi bài thơ góp một nét vẽ để hoàn thiện bức chân dung của thời đại, đều khắc tạc một “tượng đài nghệ thuật” về người lính bất tử với thời gian.

(Dàn ý của học sinh)

  • Dạng đề tổng hợp

Nguồn mạch văn hóa dân gian trong các tác phẩm thơ ca cách mạng Việt Namgiai đoạn 1945 – 1975

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

– Đặc điểm của văn học Việt Nam 1945-1975: Trong thời kì đất nước đấu tranh gian khổ để giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, chống lại sự xâm nhập kệch cỡm của nền văn hóa ngoại lai, văn học tìm về với nguồn mạch văn hóa dân tộc như là một xu hướng tự nhiên và tất yếu.

– Tìm về với dân tộc, văn học, đặc biệt là thơ ca chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa và văn học dân gian. Người ta thấy những tâm tư, tình cảm, những lời ăn tiếng nói của dân gian ta từ ngàn đời xưa nay thấm nhuần trong những ý thơ của những nhà thơ hiện đại. Văn học chịu ảnh hưởng của nguồn mạch văn hóa dân gian từ nội dung cho đến những cách thức biểu hiện.

  1. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
  2. Nguồn mạch văn hóa dân gian trong nội dung thơ

– Thơ ca biểu hiện một nền văn hóa:

+ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là cảm xúc tự hào về truyền thống văn hóa của một vùng đất Kinh Bắc, cũng là niềm tự hào về vẻ đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam với Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp cùng những nét vẽ tươi vui dí dỏm: Mẹ con đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã…; đó còn là một vùng đất với Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trong chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài…; là vẻ đẹp của Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng…

+ Chương trích Đất Nước (Trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) lại tái hiện lại những phong tục, tập quán, lối sống làm thành văn hóa dân gian của Việt Nam ta: Những câu chuyện Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể, Miếng trầu bà ăn, Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng…

– Thơ ca biểu hiện những nghĩa tình của con người đã thấm nhuần trong những câu ca dao, tục ngữ:

+ Tình cảm gắn bó ân tình thủy chung với quá khứ, với cội nguồn: Mình đi mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu; Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn… (Việt Bắc – Tố Hữu)

+ Trân trọng tình nghĩa con người: Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi/ Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng (Tố Hữu)

+ Đề cao tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn (Nguyễn Khoa Điềm)

  1. Nguồn mạch văn hóa dân gian trong nghệ thuật thơ

– Kết cấu thơ: Việt Bắc (Tố Hữu) có kết cấu thơ đặc biệt theo lối của ca dao, đó là kết cấu đối đáp giữa mình – ta. Kết cấu này tạo cho bài thơ âm hưởng của cuộc chia li bồi hồi, bâng khuâng, bịn rịn của những đôi trai gái yêu nhau xưa; tạo không khí trữ tình cho một bài thơ cách mạng.

– Thể thơ: Thơ cách mạng vận dụng thể thơ lục bát truyền thống, đỉnh cao là Việt Bắc (Tố Hữu), tạo âm hưởng ngọt ngào và tính chất đại chúng cho thơ ca.

– Hình ảnh thơ: Các tác giả thời kì này có sự sáng tạo hình ảnh thơ bằng cách vận dụng những hình ảnh từ văn học dân gian đem vào các ý thơ của mình. Cách vận dụng cũng rất linh hoạt:

+ Có khi các nhà thơ sử dụng nguyên văn một câu ca dao: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”/ Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”; Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”… (Nguyễn Khoa Điềm)

+ Có khi nhà thơ mượn một vài hình ảnh của tục ngữ, ca dao dân ca để diễn đạt lại bằng cảm xúc của mình:

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

                   Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu (Tố Hữu)

                    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

                   Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (Nguyễn Khoa Điềm)

+ Có khi nhà thơ chỉ nhắc đến tên các truyền thuyết của dân gian để làm sống lại các huyền thoại: Lạc Long Quân – Âu Cơ, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, gót ngựa Thánh Gióng, đất Tổ Hùng Vương… trong Mặt đường khát vọng của NKĐ gợi người đọc thấy thế giới của văn học dân gian, hình bóng nhân dân luôn hiện hữu trong mỗi dáng hình đất nước.

– Cách xưng hô: mình – ta, đại từ phiếm chỉ “ai” trong thế giới của văn hóa, văn học dân gian được sử dụng linh hoạt và đạt hiệu quả cao trong thơ ca thời kì này, tiêu biểu phải kể đến Việt Bắc (Tố Hữu).

– Nhạc điệu: Nhiều tác phẩm mang âm hưởng trữ tình như những khúc hát giao duyên của đôi lứa (Việt Bắc), khi lại êm ái, sâu lắng như những lời ru ngọt ngào trong tiềm thức ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam (Việt Bắc – Tố Hữu; Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm)

  1. Ý nghĩa

– Đặt trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, việc đem các chất liệu văn hóa, văn học dân gian vào trong văn học, các tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu nước thiết tha, đi cùng với đó là thái độ nâng niu gắn bó, trân trọng và biết ơn những tài sản tinh thần vô giá mà cha ông ta để lại.

– Nhờ các chất liệu văn hóa dân gian, các phương diện tiêu biểu của đời sống tâm hồn con người Việt Nam hiện lên cụ thể, sinh động và gần gũi.

– Vận dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian giúp những áng thơ cách mạng trong thời kì này mang sắc thái trữ tình, đậm đà tính dân tộc, đến gần hơn với đời sống và bạn đọc.

(Dàn ý của học sinh)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

 

  1. Trong qua trình thực hiện chuyên đề, chúng tôi đã cơ bản thực hiện các mục đích đặt ra ban đầu: trang bị kiến thức về đọc hiểu văn bản nói chung và đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại cho học sinh; hình thành ở học sinh năng lực đọc hiểu văn bản ngoài chương trình qua một số giờ dạy trên lớp; rèn kĩ năng tự học, tự đọc hiểu những tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh qua các dạng đề luyện tập. Học sinh tỏ ra khá hứng thú với những tác phẩm mới mà các em được tiếp xúc ngoài chương trình. Điều đó cũng góp phần tăng thêm động lực và hiệu quả học tập của học sinh đối với bộ môn. Những kiến thức về tác phẩm ấy cũng được các em vận dụng nhuần nhuyễn vào những đề bài làm văn, nhất là các dạng đề tổng hợp phục vụ cho việc thi học sinh giỏi các cấp. Hơn nữa, kĩ năng đọc hiểu tác phẩm này sẽ còn theo các em trong chặng đường dài sau này, ngay cả khi các em không còn ngồi trên ghế nhà trường.

 

  1. Trên đây là chia sẻ về những công việc đã làm và cả chưa làm được của chúng tôi trong những nỗ lực rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. Trong một nỗ lực còn vướng phải nhiều hạn chế của hiểu biết, của kinh nghiệm, chúng tôi mong muốn nhận được những chia sẻ và đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp để có thể hoàn thiện nhận thức và kĩ năng của mình.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Nguyễn Thái Hòa, Vấn đề đọc – hiểu và dạy học đọc hiểu, Thông báo khoa học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 5, tháng 4/2004.
  2. Nguyễn Thanh Hùng, Kĩ năng đọc hiểu Văn, NXB Đại học Sư phạm, 2014
  3. Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo Dục
  4. Nguyễn Thanh Hùng, Phương pháp dạy học Ngữ Văn ở THCS, NXB Đại học Sư Phạm, 2006
  5. Phạm Thị Thu Hương, Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, 2012.
  6. Phạm Thị Thu Hương, Dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông – một cái nhìn hướng ra thế giới, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ Văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Đại học Sư phạm.
  7. Phan Trọng Luận, Văn học nhà trường,những điểm nhìn, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  8. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương – bạn đọc – sáng tạo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
  9. Phan Trọng Luận (2011), Văn học nhà trường – nhận diện, tiếp cận, đổi mới, NXB Đại học Sư phạm.
  10. Đỗ Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục.
  11. Bộ giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn, NXB Giáo dục, 2006.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *