Chuyên đề “Tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội”

Tài liệu Văn

HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI

CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI

VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM 2017

TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG BÀI VĂN 

NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

 

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.. 3

  1. Lý do chọn đề tài 3
  2. Mục đích của đề tài 4

PHẦN NỘI DUNG.. 4

  1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỂN.. 4
  2. Cơ sở lý luận. 4
  3. Cơ sở thực tiễn. 6
  4. TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI. 7
  5. Các nguyên tắc trong tư duy phản biện. 7
  6. Các bước và phương pháp trong quá trình phản biện. 8
  7. Rèn luyện tư duy phản biện qua các thao tác lập luận. 12

III. CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN TƯ DUY PHẢN BIỆN.. 15

  1. Nâng cao nhận thức của GV và HS về tầm quan trọng của tư duy phản biện và ý nghĩa của việc rèn luyện năng lực phản biện cho HS. 15
  2. Rèn kĩ năng phản biện cho HS trong các giờ học Ngữ văn. 16
  3. Phát huy tư duy phản biện của HS qua các buổi bồi dưỡng chuyên đề, các hoạt động ngoại khóa 18
  4. Một số biện pháp hỗ trợ nhằm phát huy tư duy phản biện của HS. 19
  5. Một số hoạt động nhằm rèn luyện tư duy phản biện cho HS. 20

PHẨN KẾT LUẬN.. 22

 

 

TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Tổ Ngữ văn – trường THPT chuyên Hoàng Lê Kha – Tây Ninh

 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay nhiều nước trên thế giới coi trọng tư duy phản biện trong dạy học. Phát huy khả năng phản biện của học sinh còn là một cách đề cao, coi trọng tính dân chủ trong giáo dục. Theo John Dewey – nhà giáo dục Mĩ: nền giáo dục biết coi trọng tính dân chủ là một nền giáo dục tiến bộ. Do đó, phát huy khả năng phản biện của học sinh là nội dung cốt lõi, là trọng tâm trong sứ mệnh của hệ thống giáo dục của các nước tiên tiến, nó được thể hiện xuyên suốt chương trình giáo dục, có mặt trong từng môn học và từng hoạt động giáo dục. Ở Việt Nam, Chỉ thị số 2737 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, ngày 27/7/2012 đã nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục năm học 2012-2013. Trong đó, toàn ngành tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Một trong những giải pháp trọng tâm vẫn phải là đổi mới phương pháp dạy học. Vận dụng các hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục là một trong những cách đổi mới thiết thực nhất; Trong Quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT ban hành kèm theo Thông tư số: 13/2012/TT-BGDĐT, ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có nói: “Hướng dẫn HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện”. Như vậy các nhà giáo dục Việt Nam cũng rất quan tâm đến rèn luyện năng lực tư duy phản biện cho học sinh.

Trong dạy học Làm văn ở trường trung học phổ thông, văn nghị luận xã hội có vai trò khá quan trọng trong việc gắn giáo dục ở nhà trường với xã hội, đồng thời đánh thức ở người học thái độ quan tâm tới các vấn đề của hiện thực cuộc sống. Văn nghị luận xã hội là kiểu bài không thể thiếu trong các đề thi chọn học sinh giỏi, đề thi THPT quốc gia nhiều năm gần đây. Trong cấu trúc đề thi Học sinh giỏi quốc gia, thi học sinh giỏi khu vực phần nghị luận xã hội chiếm 8/20 điểm, trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia phần nghị luận xã hội chiếm 3/10 điểm. Thực tế cho thấy, bài làm văn nghị luận xã hội đòi hỏi khá cao khả năng xử lí vấn đề của người viết, vì trong phạm vi yêu cầu hạn hẹp về hình thức văn bản (độ dài bài văn), trong phạm vi hạn hẹp về thời gian làm bài, người viết phải biết khai triến vấn đề một cách logic, mạch lạc để lí giải và thuyết phục người nghe (người đọc) về vấn đề xã hội được bàn luận. Bên cạnh đó, bài làm văn nghị luận xã hội không chỉ yêu cầu người viết biết cách bàn luận, mà còn phải có năng lực bàn luận vấn đề, đồng thời bài văn nghị luận xã hội cũng yêu cầu người viết phải có năng lực đề xuất các biện pháp, giải pháp để tác động cải tạo vấn đề xã hội. Để đáp ứng những yêu cầu trên của bài văn nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh phải chủ động, sáng tạo trong lập luận theo quan điểm của mình.

Mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc. Vậy nên việc rèn luyện và phát huy khả năng tư duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Việc rèn luyện năng lực tư duy phản biện cho học sinh trong làm văn nghị luận xã hội phải như thế nào? Chuyên đề “Tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội” của chúng tôi, mong muốn góp phần nhỏ trong việc rèn luyện năng lực tư duy phản biện và vận dụng trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh.

2. Mục đích của đề tài

Với mục tiêu mở ra một cái nhìn có ý nghĩa tổng quát về vấn đề tư duy phản biện và tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội đồng thời rút ra những kinh nghiệm rèn năng lực tư duy phản biện cho học sinh để làm tốt bài nghị luận xã hội trong các kì thi.

Chuyên đề cũng mong muốn góp phần phát huy tối đa năng lực phản biện của người giáo viên và học sinh trong việc dạy và học văn, đặc biệt trong trong làm văn nghị luận xã hội.

PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỂN

1. Cơ sở lý luận

1.1. Tư duy phản biện

Có nhiều cách hiểu khác nhau về tư duy phản biện (Critical thinking). Dưới đây là một số định nghĩa tiêu biểu:

“Tư duy phản biện là khả năng, hành động để thấu hiểu và đánh giá được những dữ liệu thu thập được thông qua quan sát, giao tiếp, truyền thông, và tranh luận” (Michael Scriven).

“Tư duy phản biện là loại tư duy nỗ lực để đưa ra một phán đoán sau khi đã tìm cách thức đáng tin cậy để đánh giá thực chất về mọi phương diện của các bằng chúmg và các luận cứ” (Hatcher).

“Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề” (theo Wikipedia).

“Tư duy phản biện là: thái độ sẵn lòng quan tâm suy nghĩ chu đáo về những vấn đề và chủ đề xuất hiện trong cuộc sống cá nhân; sự hiểu biết về phương pháp điều tra và suy luận có lý; và một số kỹ năng trong việc áp dụng các phương pháp đó. Tư duy phản biện đòi hỏi sự nỗ lực bền bỉ để khảo sát niềm tin hay giả thuyết bất kỳ có xem xét đến các bằng chứmg khẳng định nó và những kết luận xa hơn được nhắm đến”.

“Tư duy phán biện là một quá trình tư duy biện chứmg gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, lôgícc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm ” (Tài liệu tập huấn về Kỹ Năng sống của tổ chức World Vision Việt Nam).

Như vậy, tư duy phản biện không đơn thuần chỉ là những ý kiến “phản biện” như tên gọi. Quá trình tư duy phản biện gồm các giai đoạn: nhìn nhận lại (nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau); đánh giá (khảo sát những mâu thuẫn giữa các ý kiến, đo lường sức thuyết phục của những ý kiến); nêu những điểm chưa/không chuẩn xác trong lập luận đã có; nêu kết quả của quá trình tư duy lôgích và đưa ra ý kiến mới; v.v..

Những thao tác của quá trình tư duy phản biện gồm: nêu quan điểm, bảo vệ quan điểm; sử dụng bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ giữa các ý kiến; đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh các ý kiến; chỉ ra khó khăn, cách khắc phục sự khác nhau giữa các ý kiến; v.v..

Một quá trình tư duy phản biện được coi là tốt khi đạt được những tiêu chí: rõ ràng, mạch lạc, chính xác, thống nhất, ngắn gọn, phù hợp, có những giải thích và lý do phù hợp, khách quan, toàn diện và có chiều sâu.

Tư duy phản biện liên quan đến nhiều kỹ năng như: khả năng lắng nghe và đọc một cách cẩn thận; khả năng đánh giá các lập luận; khả năng tìm kiếm, phát hiện các giả định bên trong và khả năng vạch ra các hệ quả của một phát biểu nào đó, khả năng thể hiện quan điểm của mình một cách thuyết phục.

1.2. Văn nghị luận xã hội

1.2.1. Khái niệm

Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt, “nghị luận” là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rộng vấn đề; xã hội là tập thể người cùng chung sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác (quan hệ giữa người với người về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội).

Theo Từ điển thuật ngữ văn học cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, xã hội, triết học, văn hoá. Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó”.

Theo các cách hiểu trên, nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc, đánh giá các vấn đề liên quan đến con người, đến xã hội, đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích hướng đến bàn luận của văn nghị luận xã hội là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.

1.2.2. Đặc trưng văn nghị luận xã hội

Đối tượng phản ánh và phạm vi phản ánh của văn nghị luận xã hội trong trường phổ thông hết sức phong phú, đa dạng, bao gồm những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, hiện tượng xã hội, vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Nếu đối tượng nghị luận của văn nghị luận văn học chủ yếu là các vấn đề được đề cập trong tác phẩm văn học, thì đối tượng nghị luận của văn nghị luận xã hội lại hướng người học đến phạm vi, đến các vấn đề của hiện thực đời sống xã hội. Nếu học văn nghị luận văn học trong nhà trường, người học được tiếp cận với cuộc sống qua lăng kính sáng tạo của nhà văn, thì học văn nghị luận xã hội người học được trực tiếp trải nghiệm cuộc đời qua lăng kính của chính mình.

Đặc trưng nổi bật trong văn nghị luận xã hội là tính “thời sự”. Hầu như tất cả các vấn đề nổi cộm, nóng bỏng, báo động đang diễn ra trong xã hội, được dư luận quan tâm đều có thể trở thành đối tượng nhận diện, phản ánh, bàn luận kịp thời của văn nghị luận xã hội.  Do đó, trước một vấn đề xã hội, người viết không chỉ bàn luận một cách độc lập mà còn biết xem xét, đánh giá từ các góc nhìn, các quan điểm khác nhau của dư luận xã hội. Để làm tốt các bài văn nghị luận xã hội, người viết phải bám sát, phải trải mình với hiện thực “bụi bặm”, “bề bộn” đang diễn ra hàng ngày trong xã hội. Dạy văn nghị luận xã hội phải hình thành cho người học thói quen gắn đối tượng nghị luận với thực tế cuộc sống. Xa rời hiện thực xã hội, bài làm văn sẽ thiếu sức sống, thiếu tính thời sự (vốn là đặc trưng và yêu cầu của văn nghị luận xã hội). Bên cạnh đó, văn nghị luận xã hội cũng đòi hỏi người viết khi đối diện trước vấn đề xã hội phải biết chủ động, mạnh dạn đề xuất chính kiến của mình để lí giải và thuyết phục người đọc bằng những lí lẽ xác đáng.

Xuất phát từ đối tượng nghị luận, văn nghị luận xã hội có những đặc trưng riêng, đòi hỏi riêng, yêu cầu riêng trong cách thức nghị luận và phương thức biểu đạt. Từ những đặc trưng trên, ta thấy rằng để làm tốt bài văn nghị luận xã hội học sinh cần rèn luyện năng lực tư duy phản biện.

  1. Cơ sở thực tiễn

Những năm gần đây trong các đề thi tuyển Học sinh giỏi và thi THPT Quốc gia  luôn có câu nghị luận xã hội thường hướng tới những vấn đề mang tính thời sự đang thu hút sự quan tâm của cả xã hội. Đó có thể là nghị luận về một tư tưởng đạo lý hoặc nghị luận về một hiện tượng đời sống. Phần nghị luận xã hội là nơi để học sinh bộc lộ thái độ, quan điểm của các em trước những vấn đề của cuộc sống.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, mặc dù đề nghị luận xã hội chiếm tỉ lệ điểm tương đối cao trong các đề thi nhưng việc hướng dẫn học sinh trang bị kiến thức, năng lực làm bài chưa nhiều. Cụ thể: ở chương trình Chuẩn, nghị luận xã hội chỉ được dạy trong 2 tiết:  Nghị luận về một tư tưởng đạo lí nghị luận về một hiện tượng đời sống). Ở chương trình Nâng cao, có thêm 1 tiết: Luyện tập nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học. Điều này đã khiến việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh gặp rất nhiều khó khăn.

  1. TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Như phần mở đầu chúng tôi đã trình bày: đề tài nghiên cứu về tư duy phản biện chỉ giới hạn trong phạm vi văn nghị luận xã hội ở nhà trường phổ thông. Văn nghị luận xã hội vì thế cũng phải gắn với ba dạng bài cụ thể: nghị luận về hiện tượng đời sống xã hội, nghị luận về vấn đề đạo lý tư tưởng và vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học. Chúng tôi không tách riêng tư duy phản biện trong từng dạng bài một mà tập trung vào vấn đề cốt lõi: dạy cho học sinh nắm được các bước, phương pháp – cách thức phản biện bởi tư duy phản biện hướng tới mục đích rèn luyện cho học sinh óc sáng tạo, khả năng chủ động trong quá trình nhận thức chân lý, biết đào sâu, lật xới vấn đề.

  1. Các nguyên tắc trong tư duy phản biện

Tư duy phản biện mục đích không phải để “tranh cãi”, để “phủ nhận” mà là hướng tới khẳng định tính chân thực hay phi chân thực của vấn đề bằng các lý lẽ, dẫn chứng và phương pháp khoa học. Cho nên trước tiên chúng tôi xin đề xuất mấy nguyên tắc trong quá trình phản biện.

Nguyên tắc 1: “ Hoài nghi là tất cả”, chúng tôi lấy câu ngạn ngữ phương Tây này làm nguyên tắc khởi đầu cho tư duy phản biện. Nó là định hướng và thúc đẩy nhu cầu khám phá, lật lại những vấn đề tưởng là chân lý. Hoài nghi tích cực sẽ mang đến cho chúng ta nguồn cảm hứng bất tận. Một nhà triết học đã từng nói “Người, không ai là không có một ông thầy kiện – trạng sư nơi mình”

Nguyên tắc 2: Lấy khách quan – khoa học làm nguyên tắc chủ đạo, tránh áp đặt chủ quan, bị tình cảm chi phối. Tư duy phản biện là loại tư duy khoa học vì vậy nó là tiếng nói của lý trí tỉnh táo. Chỉ bằng con đường khách quan, khoa học mới có thể tiếp cận chân lý.

Nguyên tắc 3: Phải nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc cạnh, bởi các sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng và tính đa dạng phong phú sinh động.

Các nguyên tắc trên có tính chất định hướng trong quá trình phản biện, giáo viên phải thông qua những bài tập thực hành để rèn luyện, điều quan trọng là hình thành các kỹ năng.

2. Các bước và phương pháp trong quá trình phản biện

2.1. Các bước phản biện

Để tiến hành phản biện một vấn đề nào đó theo chúng tôi cần tiến hành theo ba bước sau:

– Xem xét, quan sát, suy ngẫm để tìm kiếm, phát hiện các khía cạnh phản biện.

– Tiến hành phản biện: dùng lý lẽ, dẫn chứng, lập luận để phản biện vấn đề.

– Rút ra ý nghĩa, bài học về nhận thức và hành động từ các vấn đề phản biện.

  1. 2. Định hướng, phương pháp và kỹ năng sử dụng các thao tác lập luận trong quá trình phản biện

2.2.1. Định hướng

Như trên chúng tôi đã trình bày, điều đầu tiên là xem xét, suy ngẫm, tìm kiếm, phát hiện các khía cạnh phản biện. Cho nên khi tiến hành phản biện cần định hướng học sinh mấy điều sau:

– Mọi sự vật, hiện tượng đều có hai mặt: trái – phải, tốt – xấu, đúng – sai, tích cực – tiêu cực…nên cần chú ý mặt trái của vấn đề (ngay cả những điều tưởng chừng là đúng là tốt đẹp).

Ví dụ:

 Đề: Lòng dũng cảm, tinh thần xả thân là rất đáng khâm phục, ngợi ca. Nhưng xả thân bằng mọi giá, bất chấp hoàn cảnh, tình huống thì có đáng ca ngợi không?

 Anh/ chị hãy trình bày quan điểm của mình.

Đề: Là học sinh thì phải biết vâng lời cha mẹ và thầy cô.

 Anh/ chị suy nghĩ gì về vấn đề trên?

– Mọi sự vật, hiện tượng đều không hoàn thiện: có khiếm khuyết, phiến diện, có cái đúng cái sai. Nên khi phản biện cần đề xuất bổ sung, hoàn thiện vấn đề.

Ví dụ:

  Đề: Quan điểm của anh/ chị về vấn đề: “Ở hiền, gặp lành”.

Đây là điều mà nhân dân đã đúc kết trong cuộc sống xã hội: ở hiền sẽ gặp lành. Câu tục ngữ khuyên con người hãy sống tốt, sống cho đúng đạo lý làm người nhưng cũng thể hiện một khát vọng (mà trong thực tế chưa đạt được)- khát vọng công lý. Cho nên chừng nào trong xã hội chưa có sự công bằng, công lý chưa thực sự được thực thi và bao nhiêu những yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ còn tồn tại thì “ở hiền” chưa chắc đã “gặp lành” và “ác giả” chưa chắc đã bị “ác báo”.

 Đề: Anh/chị suy nghĩ như thế nào về chương trình giải trí trên VTV “Gương mặt thân quen”.

Đây là chương trình giải trí đã lôi cuốn được số đông khán giả và trong một thời gian dài. Những người tham gia chương trình này đòi hỏi phải hóa thân vào một nghệ sĩ khác (thường là các nghệ sĩ nổi tiếng). Đây là một thử thách. Thế nhưng cần lưu ý rằng “Gương mặt thân quen” thực chất chỉ là sự “bắt chước” và nghệ thuật đích thực không bao giờ chấp nhận sự bắt chước. Khi chúng ta bắt chước người khác thì cũng tự đánh mất chính mình.

– Trên là những mặt trái, mặt khiếm khuyết trong bản chất của hiện tượng sự vật. Nhưng trong văn nghị luận còn có cái sai về hình thức lập luận. Chúng ta cũng cần tập cho học sinh phản biện ở phương diện này.

Ví dụ:

Anh/chị hãy phản biện cách lập luận sau:

Đã là con người thì sẽ mắc sai lầm. Anh ta là một con người nên sai lầm là điều hiển nhiên.

Lập luận trên dựa trên một chân lý được mọi người chấp nhận. Nhưng cần phản biện ở cái kết luận sau: là một con người nên sai lầm là điều hiển nhiên. Từ đấy để biện hộ, đổ lỗi cho những sai lầm của mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn.

Hay lập luận: Ông ấy là người vui vẻ. Uống rượu thì rất vui vẻ, nên ông ấy thường xuyên uống rượu.

Những bài tập nhỏ như vậy sẽ giúp các em có tâm thế nhìn nhận mọi vấn đề cuộc sống, bước vào bài học vỡ lòng trở thành “luật sư cuộc đời”.

2.2.2. Phương pháp và kỹ năng phản biện

Để rèn luyện phương pháp và kỹ năng phản biện chúng tôi dựa trên những bước đã trình bày ở phần trên.

2.2.2a.  Xem xét, quan sát, suy ngẫm, tìm kiếm và phát hiện các khía cạnh phản biện

Cần nhắc nhở học sinh rằng luôn luôn phải đặt câu hỏi: Tại sao lại như thế? Vấn đề ấy có đúng không? Trong tương lai liệu điều này sẽ thế nào?…

Ví dụ.

Đề: Khoa học kỹ thuật phát triển và khi được trang bị nhiều phương tiện hiện đại thì con người sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

 Anh /chị có đồng tình với ý kiến trên không?

Đây là vấn đề tưởng như là chân lý. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật là vì con người, vì tiến bộ của nhân loại. Con người đã trở nên mạnh mẽ nhờ các phương tiện hiện đại: nhìn vào vũ trụ xa xăm bằng kính viễn vọng, đi vào thế giới vi mô bằng kính hiển vi, có thể “đi mây, về gió” như các nhân vật huyền thoại, tạo ra các vũ khí hủy diệt hàng loạt…Nhưng con người không trở nên hoàn toàn mạnh mẽ nhờ những điều ấy. Mặt trái của sự phát triển, công nghệ đó là môi trường bị hủy hoại, con người đang phải đối mặt với những điều hết sức lớn lao. Nhà bác học vĩ đại Stephen Hawking đã cảnh báo chúng ta về trí tuệ nhân tạo. Mạng xã hội giúp con người có cơ hội kết nối giao lưu, nhưng chính mạng xã hội làm cho con người xa nhau hơn. Trong xã hội càng hiện đại con người dường như càng cô đơn và yếu đuối hơn.

Hay một ví dụ khác.

  Đề: Tục ngữ ta có câu: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”.

   Ý kiến của anh/ chị.

Câu tục ngữ trên là sự đúc kết kinh nghiệm của nhân dân trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nó hướng tới sự “an toàn” và tư lợi. Kinh nghiệm đã trở thành thói quen, tập quán và quan trọng hơn nó trở thành nếp nghĩ. “Lội nước” thì nên “theo sau” tránh sự bất trắc hiểm nguy. Vì thế chúng ta không ai dám đi tiên phong, mở đường. Vốn là người Việt, Tran Hung John khi nhìn về cội nguồn đã nhận ra điều này “Phần nhiều người Việt Nam có tính cách thụ động, là những người đi theo chứ không phải người tiên phong. Nếu có ai đó đi trước và thử trước, tôi sẽ theo sau chứ không bao giờ là người dẫn đường. Áp lực xã hội khiến bạn phải đi theo con đường đã vẽ sẵn.” ( John đi tìm Hùng, NXB Kim Đồng, 2013, trang 113).

Đây cũng là lý do chúng ta đang bàn: tư duy phản biện. Phải thay đổi cái nếp nghĩ này, phải giúp cho thế hệ trẻ vượt qua những người đi trước. Luôn biết phản biện, phải làm cho phản biện trở thành tinh thần của thời đại.

2.2.2b.  Tiến hành phản biện: dùng lý lẽ, dẫn chứng, lập luận để phản biện

Văn nghị luận là dùng lý lẽ, dẫn chứng, lập luận để thuyết phục người đọc về một vấn đề nào đó. Khi phản biện- bác bỏ thì lý lẽ phải càng sắc sảo, dẫn chứng phải hết sức thuyết phục và lập luận đòi hỏi phải chặt chẽ.

Trong làm văn Nghị luận xã hội, sự sáng tạo, linh hoạt của người viết được thể hiện qua việc khai thác, xử lí, giải quyết vấn đề nghị luận. Đứng trước một vấn đề xã hội, người viết sẽ có cách xử lí khác nhau tùy vào chỗ đứng, điểm nhìn và quan điểm để lập luận- điều này tạo ra sự khác biệt, đa dạng cho bài văn. Vì thế, khi dạy Làm văn Nghị luận xã hội, điều khó nhất đối với người dạy là phải đánh thức, khơi dậy được ở người học khả năng linh hoạt, sáng tạo, đa dạng trong cách lập luận giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, bài làm văn Nghị luận xã hội không chỉ yêu cầu người viết biết cách bàn luận, mà còn phải có năng lực bàn luận, đề xuất các biện pháp, giải pháp để tác động cải tạo xã hội.

Trong làm văn Nghị luận xã hội, dẫn chứng có vai trò quyết định tính thuyết phục và độ hay của cả bài văn. Dẫn chứng được xem như linh hồn tạo ra sức sống cho bài văn. Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng dẫn chứng trong văn Nghị luận xã hội có những yêu cầu và đòi hỏi riêng.

Trước hết, dẫn chứng trong bài làm văn Nghị luận xã hội có tính “mở” ở cả phạm vi khai thác và phạm vi sử dụng. Nếu dẫn chứng sử dụng trong bài làm văn nghị luận văn học thường gắn liền và bắt nguồn từ văn bản văn học trong nhà trường thì dẫn chứng trong văn Nghị luận xã hội có thể khai thác để sử dụng từ nhiều nguồn khác nhau như các sự kiện, sự việc, nhân vật, số liệu trong đời sống xã hội, dẫn chứng có thể lấy trong lịch sử, gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử. Cần lưu ý, trong bài văn Nghị luận xã hội, người viết cần tránh khai thác dẫn chứng trong tác phẩm văn học vì các nhân vật, sự kiện văn học thường được hư cấu, sáng tạo qua lăng kính của nhà văn. Dẫn chứng trong văn Nghị luận xã hội còn “mở” trong phạm vi sử dụng, đôi khi một sự kiện, một nhân vật. có thể được dùng trong nhiều bài văn Nghị luận xã hội khác nhau nếu người viết biết khai thác dẫn chứng để sử dụng cho nhiều góc độ lập luận khác nhau.

Khi sử dụng dẫn chứng cho bài làm văn Nghị luận xã hội, người viết cần lưu ý: dẫn chứng phải phù hợp với vấn đề nghị luận đang bàn và gắn với vấn đề đang bàn, dẫn chứng trong bài làm văn Nghị luận xã hội cần tránh nói chung chung, nó phải cụ thể, rõ ràng, chính xác như về con người, số liệu, sự kiện, thông tin…, đồng thời dẫn chứng phải tiêu biểu và có ý nghĩa xã hội. Do đó, việc khai thác, lựa chọn, sử dụng dẫn chứng trong bài làm văn Nghị luận xã hội thể hiện rất rõ năng lực làm văn của người viết.

Khi sử dụng dẫn chứng cho bài làm văn Nghị luận xã hội người viết cần tránh việc liệt kê dẫn chứng mà thiếu sự phân tích thấu đáo. Dẫn chứng khi đưa vào bài văn Nghị luận xã hội phải được phân tích, khái quát, đánh giá cụ thể để tăng độ tin cậy và sức thuyết phục cho luận điểm bài văn. Do đó, bài làm văn Nghị luận xã hội yêu cầu khá cao năng lực phản biện vấn đề của người viết.

Giáo viên cần có hướng ra những đề bài có nội dung phản biện để học sinh rộng đường trong việc bộc lộ quan điểm của mình, đồng thời đòi hỏi phải sử dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực, phát huy được trí lực học sinh, bản lĩnh của các em cũng có dịp thể hiện.

Ví dụ:

Đề: Nước Việt Nam lớn hay nhỏ?

Với đề bài này các em có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều phương diện: địa lý, lịch sử, văn hóa…trong đó trách nhiệm công dân, lòng tự hào dân tộc là điểm tựa để học sinh giải quyết vấn đề.

Hay đề bài sau:

  Đề: Hiện nay luật pháp của một số nước đã bỏ bản án tử hình. Anh/chị hãy đưa ra các lý do để chống lại bản án tử hình.

Về vấn đề này người viết phải đứng trên quan điểm nhân văn – tất cả vì con người. Ở phương diện chủ quan trong con người luôn ẩn chứa những mặt đối lập, trái ngược: cái tốt và cái xấu, ánh sáng và bóng tối, thiên thần và quỷ dữ… Dù con người có xấu xa đến đâu nhưng không phải là không thể cứu vãn. Bản án tử hình là biểu hiện sự bất lực trước khả năng cải tạo con người. Trong khi đó chủ nghĩa nhân văn luôn có niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp, khả năng hướng thiện của con người. Còn ở phương diện khách quan, con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Cần phải thay đổi hoàn cảnh để con người sống tốt hơn, nhân đạo hơn.

Có một thực tế là trong thời gian dài chúng ta đã duy trì tình trạng bao cấp về tư tưởng. Lối nghĩ, tư duy đã được chúng ta đã “bao cấp”. Học sinh luôn theo lối mòn, không có khả năng phán xét, phản biện những vấn đề của văn học cũng như đời sống. Theo chúng tôi, đây là vấn đề quan trọng của nền giáo dục tương lai. Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục có lẽ cũng bắt đầu từ đây.

2.2.2c.  Rút ra ý nghĩa, bài học về nhận thức và hành động từ những vấn đề đã phản biện

Đây là bước cuối cùng và cũng là cái đích của quá trình phản biện. Phản biện không chỉ để phản biện, phản biện chính là phải có nhận thức mới, tư duy mới và cách hành động mới.

Ví dụ yêu cầu của đề bài trên: Anh/chị hãy đưa ra các lý do để chống lại các bản án tử hình.

Học sinh phải rút ra những ý nghĩa, bài học về nhận thức và hành động: trong mọi hoàn cảnh phải biết trân trọng con người, con người là điều quý giá nhất. Tất cả ở trong con người và tất cả phải vì con người.

Hay ở đề bài: Nước Việt Nam lớn hay nhỏ.

Học sinh phải rút ra ý nghĩa: lòng tự tôn dân tộc luôn phải có cơ sở khoa học và thực tiễn. Con người ai cũng có cội nguồn, điểm tựa chính là quốc gia, dân tộc mình. Hãy nhìn ra thế giới bằng lòng tự hào dân tộc.

3. Rèn luyện tư duy phản biện qua các thao tác lập luận

Trong bài văn nghị luận, các thao tác đóng vai trò quan trọng, nó thể hiện rõ nét ý thức của người viết trong việc thuyết phục người đọc. Nhưng trong thực tế học sinh tỏ ra yếu kém trong việc sử dụng thao tác lập luận, thậm chí là không có ý thức về nó.

Rèn luyện thao tác lập luận cần phải được tiến hành trong mọi tình huống sư phạm, không chỉ trong các tiết luyện tập, các bài viết mà cả trong tiết đọc văn, hay khi học sinh phát biểu trên lớp, trả bài cũ… Giáo viên cần giúp học sinh nắm vững quy trình của các thao tác lập luận và hình thành các kỹ năng.

Trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi chỉ đề cập việc rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh ở hai thao tác lập luận: bác bỏ và bình luận, bởi vì “bác bỏ” và “bình luận” là một phần của phản biện.

3.1. Thao tác lập luận bác bỏ: là dùng các lý lẽ, dẫn chứng để phủ định tính chân thực của các luận điểm, luận cứ và cách lập luận sai. Từ đấy để khẳng định những luận điểm và cách lập luận đúng.

Trong thao tác lập luận bác bỏ, biểu hiện của tư duy khoa học trước tiên là nhận ra vấn đề có sai không? Và sai ở cấp độ nào: luận điểm, luận cứ hay cách lập luận?

Trong cuộc sống có rất nhiều tình huống và vô cùng đa dạng những cái sai. Có những luận điểm có thể rất logic kể cả trong luận cứ và cách lập luận nhưng xét kỹ thì mâu thuẫn và tỏ ra không ổn. Ví dụ có lập luận sau:

   – Loài bò sát thì có máu lạnh, những kẻ có máu lạnh cũng giống như loài bò sát vậy.

Chân lý bao giờ cũng là cụ thể, luôn thay đổi trong những hoàn cảnh, tình huống khác nhau. Tư duy phản biện của học sinh sẽ bộc lộ trong việc khám phá chân lý trong những hoàn cảnh, tình huống ấy. Vì vậy cũng cần để cho học sinh thử thách trí tuệ của mình trong việc tìm đến chân lý cụ thể. Ví dụ ở bài tập sau:

  Nhiều người cho rằng: thật thà là dại dột. Trong lúc đó tục ngữ ta lại có câu: “thật thà là cha quỷ quái”.

   Ý kiến anh/ chị thế nào?

Cần có nhiều bài tập cho học sinh luyện tập bác bỏ. Các đề bài nghị luận xã hội là mảnh đất màu mỡ. Trong các vấn đề xã hội cần lưu ý học sinh lật đi, lật lại vấn đề, xem xét soi chiếu từ nhiều góc độ, khía cạch khác nhau. Điều quan trọng là để cho các em bộc lộ quan điểm cá nhân của mình về các vấn đề đời sống.

3.2. Thao tác lập luận bình luận: Bác bỏ là thao tác lập luận rất gần với bình luận. Bình luận là bàn bạc, đánh giá về sự đúng – sai, thật – giả, hay – dở, lợi – hại…của các hiện tượng, sự vật, chủ trương, tư tưởng, hành vi…của con người, xã hội. Trước mọi vấn đề, hiện tượng trong đời sống xã hội chúng ta đều có nhu cầu bộc lộ quan điểm, chính kiến, bình luận về nó.

Để bàn bạc, đánh giá về một hiện tượng sự vật thì người bình luận phải hiểu thấu đáo về đối tượng bình luận. Không hiểu về nó thì bàn bạc, đánh giá hời hợt, phiến diện, có khi sai lệch. Vấn đề bình luận cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ. Chẳng hạn đề bài sau:

Anh/ chị hãy bình luận về hiện tượng thần tượng của giới trẻ hiện nay.

   “Thần tượng” là một hiện tượng xã hội có ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa tư tưởng, văn hóa…Trong bản chất thể hiện tình cảm của đám đông với một cá nhân – sự tôn thờ và hành động – bắt chước theo thần tượng.

Xét ở phương diện lịch sử, chúng ta thấy thời nào cũng có thần tượng. Thời trung cổ đó là những bậc thánh, những kẻ tuẫn tiết,tử vì đạo. Trong xã hội phong kiến là những kẻ trung thần. Và tùy theo thời kỳ mà nó thay đổi, biến chuyển. Hoàn cảnh chiến tranh, thần tượng là những bậc anh hùng ái quốc, dám xả thân cho tổ quốc. Chuẩn mực là sự hy sinh. Nhưng thời bình thần tượng gắn với tài năng, sự thành đạt trong một lĩnh vực nào đấy như khoa học, kinh doanh hay thành công trên con đường nghệ thuật như ca nhạc, điện ảnh, người mẫu…Loại thần tượng này thiên về sự hưởng thụ. Vì thế, một điều dễ hiểu là hiện nay giới trẻ có xu hướng là tìm cho mình các thần tượng là ca sĩ, diễn viên, người mẫu…

Thần tượng còn gắn với tâm lý lứa tuổi. Lúc còn bé trong gia đình bố mẹ là thần tượng. Là học sinh, thầy cô giáo là thần tượng. Và lúc ra ngoài đời thần tượng càng lớn lao, đa dạng hơn.

Xét ở phương diện văn hóa, thần tượng có tính chất trào lưu. Đó như một thứ “Mốt”. Giới trẻ hiện nay không thủy chung với một thần tượng. Các thần tượng nhanh chóng hết thời và sụp đổ để nhường chỗ cho các thần tượng khác với trào lưu, xu hướng mới. Thần tượng phản ánh thị hiếu thẩm mỹ, trình độ văn hóa, cá tính của mỗi người. Kẻ tôn thờ tài năng, kẻ tôn thờ cái dáng vóc bề ngoài. Kẻ thích, bị cuốn hút bởi sự lịch lãm, tinh tế và sự hiểu biết sâu rộng của thần tượng, kẻ si mê chỉ bởi cách ăn mặc, đầu tóc của thần tượng…

Thần tượng còn được nhìn trong chiều sâu là ý thức xã hội. Trong xã hội cũ, khi mà cái tôi cá nhân bị kìm hãm thì thần tượng thường đơn nhất, có tính chất bao trùm bền vững. Giữa cá nhân thần tượng và đám đông có khoảng cách của sự chiêm ngưỡng. Nhưng trong xã hội dân chủ, cái tôi được giải phóng thì thần tượng lại đa dạng, gần gũi cụ thể hơn và cũng nhất thời hơn. Thời đại dân chủ tạo điều kiện cho sự khẳng định con người cá nhân, tôn trọng và phát triển cá tính. Thần tượng là cái khuôn mẫu lý tưởng để cá nhân hướng tới, tìm thấy mình trong đó.

Rõ ràng vấn đề bình luận cần được mổ xẻ và nhìn nhận từ nhiều góc độ, đòi hỏi người viết có tầm hiểu biết sâu rộng.

Với đề bài này không chỉ dừng lại ở đấy. Các thao tác phân tích, giải thích chỉ là cơ sở cho bình luận – tức chuẩn bị cho sự đánh giá, bàn bạc tiếp theo. Cần nhìn nhận cả mặt trái của vấn đề. Trong thời đại ngày nay với xu hướng cởi mở dân chủ, tôn trọng và tạo điều kiện cho sự phát triển cá tính khi hướng tới thần tượng của mình. Nhưng cái gì cũng có hai mặt. Đấy là khi tôn thờ thần tượng thì cũng dễ trở thành một thứ nô lệ của thần tượng. Và như vậy cá nhân mình chỉ là cái bóng mờ nhạt của thần tượng. Điều đó đi ngược lại với mục tiêu khẳng định cá nhân, trở thành một thứ “ngu tín” thời hiện đại. Từ đấy học sinh có thể bàn rộng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng.

III. CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN TƯ DUY PHẢN BIỆN

1. Nâng cao nhận thức của GV và HS về tầm quan trọng của tư duy phản biện và ý nghĩa của việc rèn luyện năng lực phản biện cho HS

Muốn phát huy tư duy phản biện của HS, trước hết, cả GV và HS cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tư duy phản biện trong cuộc sống nói chung và trong bài văn nghị luận xã hội nói riêng; thấy được ý nghĩa của việc rèn luyện năng lực phản biện cho HS là một việc làm hết sức cần thiết trong dạy học ngày nay. Bởi các lí do sau đây:

Thứ nhất, tư duy phản biện giúp HS vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen, truyền thống có sẵn. Với tinh thần phản biện, HS sẽ vượt khỏi những quan niệm truyền thống, thoát ra khỏi những rào cản của định kiến trong suy nghĩ, nỗ lực tìm cách tiếp cận cái mới. Khi nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, chắc chắn sẽ đưa lại những kết quả khác, mới lạ hơn. Vì vậy, việc rèn luyện năng lực phản biện sẽ kích thích khả năng sáng tạo trong tư duy của HS.

Thứ hai, tư duy phản biện giúp HS suy nghĩ một vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau. Do đó, HS sẽ có cái nhìn đa chiều trước một vấn đề cần giải quyết trong cuộc sống và trong học tập, tránh được hiện tượng nhìn nhận xem xét vấn đề một chiều, phiến diện. Từ nhiều phương án khác nhau, HS sẽ phải cân nhắc để lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc.

Thứ ba, tư duy phản biện giúp HS có ý thức rõ ràng hơn trong lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác khi tranh luận, giảm tự ái (nếu có) và sẵn sàng chấp nhận sự thật hơn, cho dù có thể sự thật đó không làm bản thân hài lòng. Có tư duy phản biện, HS sẽ phát triển khả năng lắng nghe các ý kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu sự thật, tìm hiểu bản chất của vấn đề, thấu hiểu vấn đề trước khi đưa ra kết luận về vấn đề đó. HS sẽ dám thừa nhận cái sai của mình, sẵn sàng hơn khi thừa nhận cái đúng của người khác và vì vậy dễ thiết lập được quan hệ tốt với mọi người.

Thứ tư, tư duy phản biện giúp cho HS – với tư cách là chủ thể tư duy – có phương pháp tư duy độc lập, nhìn ra những hạn chế và những sai lầm dễ mắc phải trong quá trình tư duy của chính mình. Từ đó, giúp HS đưa ra những nhận định, phán đoán tối ưu nhất có thể. Ngoài ra, HS sẽ nhận thức được rằng có nhiều ý tưởng là điều rất tốt nhưng quan trọng hơn là việc thực hiện ý tưởng có khả thi hay không? Làm thế nào để thực hiện được ý tưởng đó?

Thứ năm, tư duy phản biện giúp cho HS suy nghĩ theo hướng tích cực, giảm đươc trạng thái tâm lí buồn rầu, thất vọng, chán đời, mất lòng tin khi gặp thất bại trong cuộc sống, trong học tập, trong các mối quan hệ… Khi từng học sinh  đều suy nghĩ  theo hướng tích  cực, các em sẽ khám phá những tiềm năng vốn có trong bản thân mình và những tiềm năng này khi được khám phá, khai thác sẽ trở thành những “nội lực” giúp HS vượt lên chính mình, tự khẳng định mình, góp phần hình thành nhân cách tự chủ, độc lập và sáng tạo.

Thứ sáu, tư duy phản biện giúp HS nỗ lực cập nhật, chắt lọc được thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích cho bản thân trong một biển thông tin rộng lớn. Từ đó nâng cao kĩ năng tiếp cận mọi nguồn tin, tìm kiếm và xử lí thông tin một cách sáng tạo. Việc học và rèn luyện tư duy phản biện một cách tích cực sẽ hỗ trợ quá trình “tiêu hóa” kiến thức của HS. Giúp các em suy nghĩ độc lập, tư duy theo hướng mở, nhận thức mọi vấn đề một cách rõ ràng hơn, biết phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, từ đó suy nghĩ chín chắn hơn, tự ra quyết định và hành động phù hợp.

Ngoài ra, việc rèn luyện năng lực phản biện cho HS còn giúp thầy cô giáo thu được những thông tin phản hồi hữu ích, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học của mình sao cho giờ học đạt hiệu quả cao. Thông qua việc phản biện của học trò, người dạy cũng sẽ phân loại được đối tượng, và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng khác nhau.

Nói cách khác, việc rèn luyện tư duy phản biện cho HS là một việc làm tích cực để đạt đến tính tối ưu của chân lí chứ không phải là hành vi khiếm nhã, ngông cuồng hay vô lễ mà nhiều người vẫn thường hiểu. Nó là một khâu trong quá trình học tập, là một thói quen tốt cần được hình thành và bồi dưỡng ở HS, nhất là trong bối cảnh giáo dục hiện đại ngày nay.

2. Rèn kĩ năng phản biện cho HS trong các giờ học Ngữ văn

Kĩ năng phản biện là hệ thống các kĩ năng trong từng khâu của quá trình phản biện, bao gồm kĩ năng tư duy độc lập, phân tích – tổng hợp, kĩ năng lập luận, kĩ năng đánh giá vấn đề, v.v…

Thiết nghĩ, có tư duy phản biện mới chỉ là cơ sở thứ nhất của để có phản biện, còn phản biện đạt hiệu quả thuyết phục đến đâu thì chủ yếu là nhờ vào kĩ năng phản biện, mà trọng tâm là kĩ năng lập luận phản biện. Muốn vậy, HS cần phải có một quá trình rèn luyện thường xuyên qua tất cả các môn học, đặc biệt là ở bộ môn Ngữ văn, từ các giờ đọc – hiểu văn bản, đến giờ Tiếng Việt, lí thuyết – thực hành và trả bài Làm văn.

GV cần hướng dẫn để HS thấy rằng thông thường một quá trình tư duy phản biện sẽ trải qua những bước sau đây:

 Đọc và theo dõi cẩn thận những bước đi của luận cứ nhằm xác định các tiên đề và các kết luận mà tác giả luận cứ nêu ra (đây chính là các kiến thức mới mà người thầy muốn HS tiếp nhận). Trong trường hợp này, HS nên đặt ra những câu hỏi nghi vấn như: Tại sao lại như thế? Bản chất vấn đề là gì? Nếu thế này, thế kia thì sao? v.v …

– Nếu trong luận cứ, ta thấy không có suy luận mà chỉ là những khẳng định (facts), nghĩa là luận cứ chỉ chứa đựng những thông tin, và những thông tin đó có thể chính xác hay sai lệch. Khi đó, HS có quyền không quan tâm đến những gì mà tác giả của luận cứ muốn thuyết phục người nghe. HS có thể hoài nghi: Kết luận rút ra từ những luận cứ đó có thể không có sức thuyết phục.

– Trong trường hợp kết luận không thuyết phục, có nghĩa là nó mang tính ngụy biện, chúng ta cần xem xét lại. Có nên chấp nhận những kết luận mà tác giả đã nêu hay không? Đây là điểm mấu chốt của tư duy phản biện. Bởi vì nếu ta chấp nhận tập hợp các luận cứ, tức là ta hoàn toàn chấp nhận kết luận của tác giả; ngược lại, nếu ta phủ nhận những luận cứ này có nghĩa là ta không chấp nhận kết luận. Việc từ chối hay chấp nhận những kiến thức mới là một thành phần của hệ thống kiến thức mà HS cần tích lũy trong suốt quá trình học tập của mình.

Lưu ý: Cách đánh giá vấn đề, dù là chấp nhận hay từ chối phải dựa trên kiến thức đã được tích lũy, dựa trên kinh nghiệm và lòng tin cá nhân. Kiến thức phụ thuộc vào môi trường giáo dục, phương pháp giảng dạy của người thầy cũng như phương pháp học tập của HS; kinh nghiệm phụ thuộc vào môi trường xã hội và cuối cùng là lòng tin lại phụ thuộc vào môi trường giáo dục gia đình.

Trong quá trình vận dụng tư duy phản biện, bất cứ ở tại thời điểm nào, người học cũng phải sẵn sàng động não, suy luận và đánh giá; những hoạt động này sẽ tạo thành một phong cách tư duy, luôn luôn sẵn sàng lắng nghe, nhưng trước khi chấp nhận bất cứ ý kiến nào, người học phải chủ động phân tích và đánh giá. Hoạt động của não bộ theo phong cách này sẽ giúp người học hình thành vững vàng tư duy độc lập và tư duy phản biện. Với tư duy độc lập và tư duy phản biện như nền tảng, cùng với kiến thức tích lũy thành hệ thống, HS sẽ có điều kiện phát triển tư duy sáng tạo của mình.

Ta thấy rằng, kĩ năng tư duy độc lập là rất cần thiết với HS trong quá trình học tập nói chung, cũng như trong quá trình phản biện nói riêng. GV có thể giúp HS suy nghĩ độc lập bằng cách không phải lúc nào cũng đưa ra ngay câu trả lời. Thay vào đó, hãy để người học tự mình nghiên cứu và tìm ra phương án giải quyết trước khi đưa ra sự trợ giúp. HS cũng cần học cách tổ chức vấn đề. Một vấn đề có thể trở nên rất rối rắm và phức tạp nếu HS không biết cách tổ chức. GV có thể làm mẫu các kỹ năng và cung cấp các tư liệu cần thiết để HS luyện tập cách tổ chức vấn đề cũng như phác thảo trình tự xử lý các công việc. Thao tác suy luận cũng rất cần thiết. Thay vì trông chờ vào những câu trả lời rõ ràng, HS nên học cách tự mình suy luận. Một trong những phương pháp luyện tập kĩ năng suy luận hiệu quả là cho HS đọc các đoạn văn ngắn từ các dữ liệu học tập trong sách giáo khoa hay các bài tập thực hành mở rộng khác rồi yêu cầu phân tích ý nghĩa của mỗi đoạn. Khả năng dự đoán những tình huống có thể xảy ra cũng cần thiết không kém. Những câu hỏi mở có liên quan đến nhiều chủ đề có thể giúp HS phát huy trí tưởng tượng và dự đoán kết quả hợp lý nhất. Một kĩ năng quan trọng nữa là phân biệt luận cứ hợp lý và luận cứ bất hợp lý. Có một sự khác nhau giữa các luận cứ hợp lý và luận cứ bất hợp lý, tuy nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt được. Đâu là các sự việc chứng minh được cho luận cứ? Đâu là luận cứ không có cơ sở bởi thiếu tính thuyết phục? Hãy đưa ra các đoạn văn bao gồm cả các luận cứ thuyết phục và không thuyết phục, và yêu cầu HS phân biệt chúng. Các kỹ năng nói trên được tổng hợp thể hiện ở khâu giải quyết vấn đề. Bằng cách đưa ra nhiều phương án giải quyết, GV có thể giúp HS tự mình nhìn nhận một vấn đề, trước khi cần sự trợ giúp, và nhớ là cho các em có đủ thời gian để tư duy.

Một phản biện muốn thuyết phục và đạt hiệu quả cao thì quan trọng hơn cả là ở kĩ năng lập luận phản biện của HS. Sức thuyết phục của phản biện phụ thuộc vào độ sắc của những lí lẽ, độ mạnh mẽ hùng hồn của lập luận, độ chắc chắn, đáng tin cậy của minh chứng mà người phản biện đưa ra. GV hãy khuyến khích HS sử dụng các kỹ năng lập luận. HS sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời. Có nhiều cách luyện tập kỹ năng này như: những bài tập trình bày một vấn đề; đánh giá và giải thích đánh giá của mình về một vấn đề; tổ chức hệ thống luận điểm theo các trình tự logic khác nhau; tìm kiếm minh chứng cho luận điểm…  Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm.

Ngoài ra, HS cũng cần rèn luyện khả năng mở rộng vấn đề. Không chỉ bó hẹp trong nguồn tài liệu mà GV cung cấp, HS cần học cách tự tìm những tư liệu mới để phục vụ cho chủ đề. Từ đó, phát huy khả năng tự phân tích và đưa ra cách nhìn nhận riêng đối với mỗi chủ đề được đặt ra.

Như vậy, có thể nói lập luận phản biện có vai trò quyết định trong phản biện của HS. Và kĩ năng này không phải ngày một ngày hai có được mà phải luyện tập trong một thời gian dài, đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực rất cao. Kết quả của học tập và vận tốc phát triển trí tuệ phụ thuộc mạnh mẽ vào phương pháp học tập của HS. Người nào nắm vững phương pháp tư duy phản biện và có kĩ năng phản biện tốt thì chất lượng học tập càng cao và trí tuệ càng phát triển vững chắc.

  1. Phát huy tư duy phản biện của HS qua các buổi bồi dưỡng chuyên đề, các hoạt động ngoại khóa

Cũng như việc chế biến cần phải có nguyên liệu, việc bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cho HS là rất quan trọng nhằm phát huy năng lực phản biện của các em. Độ sâu của kiến thức sẽ là thước đo khả năng phản biện của HS.

Có nhiều cách bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cho HS, chẳng hạn như: hướng dẫn trực tiếp qua các chuyên đề của chương trình chuyên (2 tiết/1 tuần); các buổi bồi dưỡng học sinh giỏi; làm các dự án dạy học dưới dạng các bài tập nghiên cứ; tổ chức các chuyên đề ngoại khóa; cung cấp tài liệu tham khảo và hướng dẫn cho HS cách lĩnh hội; thông qua các cuộc thi; các trò chơi dưới dạng “Đố vui”…

Tùy theo từng đối tượng HS mà bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo chuyên đề hoặc mảng chuyên đề cho phù hợp. Làm sao cho hiệu quả mà không gây áp lực, căng thẳng cho HS. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chủ yếu hướng đến đối tượng là HS các lớp chuyên Văn và HS trong đội tuyển học sinh giỏi các cấp môn Ngữ văn. Ở đối tượng này, hầu hết đều được cập nhật, đào sâu kiến thức trong các buổi học tập chuyên đề trên lớp và chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi. Bởi lẽ, trong quá trình học tập, HS sẽ được lắng nghe, trao đổi và đối thoại với bạn bè và thầy cô.

Ngoài ra, một trong những cách làm hiệu quả nhất hiện nay, theo chúng tôi, đó là tổ chức các buổi chuyên đề ngoại khóa. Nhiều thì 1 lần/ tháng, ít thì 2 lần/ học kì. Tổ chức chuyên đề ngoại khóa sẽ giúp HS mở rộng, nâng cao kiến thức theo kiểu “chơi mà học, học mà chơi”, rất thoải mái. Dạy học theo phương pháp dự án, giao đề tài, cung cấp tài liệu, hướng dọc HS đọc nghiên cứu, làm việc theo nhóm, sau đó báo cáo sản phẩm của nhóm trước tập thể, rồi thảo luận, tranh luận, tìm ra phương án tối ưu,… sẽ giúp HS hứng thú hơn, phát huy hết thế mạnh của mình. Đấy cũng là biện pháp rèn luyện năng lực phản biện cho HS một cách hiệu quả mà chúng ta cần tiến hành không chỉ ở các trường chuyên mà cả những trường không chuyên.

4. Một số biện pháp hỗ trợ nhằm phát huy tư duy phản biện của HS

4.1. Khích lệ, động viên, mở đường

Đây là những biện pháp mang tính hỗ trợ kiểu “giọt nước tràn ly”. Nhiều khi HS có tư duy phản biện, có kĩ năng phản biện tốt cùng với kiến thức chuyên sâu nhưng do hoàn cảnh, tính cách nhút nhát… mà các em không dám hoặc e ngại phản biện. Lúc này, sự động viên của thầy cô giáo sẽ giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn bước vào cuộc.

Có nhiều kiểu động viên: động viên thường xuyên, động viên tức thì… Động viên thường xuyên là việc làm thường ngày mỗi khi lên lớp. Động viên tức thì gắn với hoàn cảnh, tình huống cụ thể cần giải quyết. Những câu nói động viên có thể là động lực thúc đẩy tinh thần học sinh, chẳng hạn:  Em có đồng ý như vậy không? Em có ý kiến khác không? Hãy mạnh dạn trình bày ý kiến của em? Thầy (cô) sẽ trân trọng ý kiến của em! Những ý kiến phản biện của các em sẽ được cân nhắc, nếu đúng, hay sẽ được tuyên dương và bổ sung vào bài học; nếu sai thì hướng dẫn thêm cho các em (Em hãy cố gắng lần sau! ), chứ không vì lời nói khinh suất mà trách mắng HS.

Việc động viên, khích lệ HS  phải đảm bảo tính chân thực, tránh sáo rỗng, giả tạo nhưng cũng tránh gay gắt, làm mất cảm hứng học tập của các em. Thay vì nói: “Em sai rồi”, “Em nói thế không ai chấp nhận!”, hãy nói: “Ý kiến của em chưa thuyết phục lắm!”, “Em hãy tiếp tục suy nghĩ và cố gắng lần sau!”.  Khích lệ là cách làm cho HS thấy yên tâm như có đồng minh bên cạnh, để từ đó nói thật những suy nghĩ của mình.

Biện pháp này hướng tới tất cả các đối tượng, đặc biệt là với những HS nhút nhát, ít va chạm, ít tham gia phát biểu, tranh luận, đối thoại; những HS hay mặc cảm, tự ti. GV vận dụng biện pháp này cần phải khéo léo, cũng có thể pha một chút dí dỏm sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

4.2. Tạo không khí đối thoại, tự do dân chủ

Một giờ học thật sự hiện đại phải có những đối thoại sôi nổi trong một không khí thực sự dân chủ. Khoảng cách thầy – trò được rút ngắn, quan hệ thầy – trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một môi trường học tập như thế, HS hoàn toàn có đầy đủ tự tin để đưa ra những phản biện để tranh luận với bạn bè, thầy cô về một nội dung nào đó. Và các em sẽ coi đó như là những hoạt động học tập tích cực, sáng tạo.

Bằng cách nào có thể tạo được không khí đối thoại, tự do dân chủ? Có nhiều cách và tùy theo từng đối tượng HS khác nhau:

Thứ nhất, tạo không khí học tập, kích thích tính tò mò, khả năng khám phá của học sinh. Theo Xôcrát, chân lý không có kiểu ăn sẵn mà chân lý và tri thức phải tìm tòi, phát hiện. “Làm cho người ta muốn biết, tranh luận, đối thoại, chân lý sẽ xuất hiện”… Lý thuyết về tiếp nhận tác phẩm văn chương cũng đã mở ra nhiều hướng phát triển cho giờ học đối thoại.

Thứ hai, hướng vào “phản ứng” của HS và phân loại những ý kiến của các em. Chú ý tập hợp thành hai hay nhiều luồng ý kiến đối lập nhau. Đây chính là cơ sở tuyệt vời để tạo đối thoại.

Thứ ba, khéo léo gợi mở, định hướng để các em có cái nhìn so sánh. Nêu ra lí lẽ và dẫn chứng cần thiết để bảo vệ ý kiến của mình. GV cần tỏ ra khách quan, công tâm trong phán xét vấn đề; phải hướng tới tính tối ưu trong giải quyết đối thoại.

Thứ tư, không nên dùng những “đòn phủ đầu” đối với những ý kiến chưa phù hợp. Hãy tỏ ra trân trọng và lắng nghe, hãy để cho các em trình bày trọn vẹn ý kiến của mình. Điều đó giúp các em hiểu rằng, mình đang được học trong một giờ học đầy ắp tính dân chủ.

Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng HS. Với những HS có sự đam mê văn chương thì biện pháp này càng phát huy hiệu quả cao.

4.3. Linh hoạt xuất hiện và ẩn đi nhằm phát huy vai trò của HS

Biện pháp này đề cập đến vai trò của người GV trong giờ học. Có lúc đứng ra làm chủ giờ dạy, có lúc phải “lui vào hậu trường” nhường chỗ cho chủ thể chính hoạt động, lúc này GV chỉ giữ vai trò là người hướng dẫn, cố vấn khi các em cần.

Nhà giáo dục Pháp, J.Vial, cho rằng: Mục đích cao nhất của dạy học là giải phóng tiềm năng sáng tạo của học trò; học sinh và giáo viên quan hệ tỉ lệ nghịch trong quá trình phát triển của dạy học (học sinh tiến dần đến chỗ làm chủ – giáo viên tiến dần đến chỗ bị xóa mờ, càng mờ càng tốt). Ở đây, chúng tôi chưa dám nghĩ đến việc xóa mờ vai trò của GV  trong giờ học mà chỉ là “linh hoạt xuất hiện và ẩn đi” theo từng thời điểm của tiết học. Khi HS còn lúng túng, chưa định hình thì cần vai trò dẫn dắt của thầy. Khi các em vào cuộc đối thoại, tranh luận, phản biện thì GV cần ẩn mình để tính chủ động, sáng tạo của các em được phát huy tối đa.

Việc xuất hiện và ẩn đi một cách linh hoạt, nhịp nhàng như vậy sẽ tạo cơ hội cho HS tự do tranh luận, phản biện. Biện pháp này không chỉ vận dụng cho HS giỏi mà cho nhiều đối tượng HS khác nhau trong  những tình huống của tiết học có tranh luận, phản biện giữa HS với HS hoặc trong các giờ ngoại khóa, hùng biện theo chủ đề.

5. Một số hoạt động nhằm rèn luyện tư duy phản biện cho HS

Trong giờ học, GV nên tổ chức cho HS tranh luận với nhau thường xuyên, yêu cầu HS tự chứng minh quan điểm của mình, tổ chức cho HS thực hành phát hiện chỗ sai, chỗ yếu kém, chỗ hạn chế, nhận xét những lỗi lập luận của người học, hướng dẫn người học các thức đánh giá một vấn đề, cách thức lập luận thuyết phục trong nội dung mình đang giảng dạy.

Trong gia đình, chúng ta cũng cần tạo ra bầu không khí cởi mở với các cuộc tranh luận mang tính xây dựng, thể hiện thái độ lắng nghe khi con nói, khuyến khích con tham gia các lớp học bổ ích (học kỹ năng sống, tham dự các hội thảo…) để mở rộng kiến thức, khen ngợi khi con cái phát hiện ra điểm sai, nghịch lý, chủ động hỏi ý kiến con cái, đề nghị con cái tự đưa ra ý kiến riêng… để giúp bạn trẻ có lập trường, biết lập luận và dám phát biểu.

Ngoài ra, những buổi sinh hoạt lớp, những hoạt động đoàn thể, các cuộc thi tranh luận – hùng biện, hoặc các câu lạc bộ kĩ năng sống, v.v… cũng là những nơi rất có ích cho việc rèn luyện tư duy phản biện và kĩ năng phản biện của HS. Chẳng hạn, trong giờ sinh hoạt lớp, GV có thể đưa ra những đề tài xoay quanh những vấn đề mà giới trẻ đang gặp phải trong cuộc sống hiện nay cho HS tranh luận, như:

  1. Sau khi học hết lớp 12, nên dành một năm “Xách balo lên và đi”;
  2. Nên học ngành xã hội cần hơn là học ngành mình đam mê;
  3. Nếu được phép, nên đưa vào chương trình học cấp 3 bộ môn hướng nghiệp.
  4. Chỉ có học vấn cao mới là con đường duy nhất dẫn đến thành công…

Đây là những đề tài đòi hỏi HS phải có suy nghĩ riêng, chính kiến riêng. Dù đứng ở vị trí nào, ủng hộ hay phản đối, mỗi HS đều phải đưa ra những ý kiến sắc bén để bảo vệ cho luận điểm mình. Có thể sẽ có những ý kiến trái chiều nhau, và đấy chính là cơ hội để HS tranh luận, đối thoại nhằm phát huy tư duy phản biện của bản thân.

Albert Einstein đã từng nói: “Điều quan trọng là đừng bao giờ ngừng đặt câu hỏi”. Hãy đặt thật nhiều câu hỏi về bất kỳ vấn đề nào mà bạn đang tìm cách giải quyết. Càng đặt nhiều câu hỏi, bạn sẽ hiểu nhiều về vấn đề đó bấy nhiêu. Những người sáng tạo cao, đặc biệt là người có tính sáng tạo cao, thường biết vượt qua cái bóng của mình để đặt ra những câu hỏi, đây là bản tính của họ. Những câu hỏi ko phải là những lời phê phán hay sự chỉ trích mà chỉ đơn giản là chất vấn, thăm dò.

PHẨN KẾT LUẬN

 

  1. Trong dạy học Làm văn ở trường trung học phổ thông, văn Nghị luận xã hội có vai trò khá quan trọng trong việc góp phần đưa văn học về gần hơn với đời sống, giúp cho học sinh có cơ hội nhìn nhận và đánh giá những vấn đề xã hội một cách có chiều sâu, đồng thời đánh thức ở người học thái độ quan tâm tới các vấn đề của hiện thực cuộc sống. Văn Nghị luận xã hội trang bị, rèn luyện cho người học năng lực bày tỏ quan điểm, thái độ cũng như năng lực tư duy phản biện xã hội. Trong khuôn khổ một chuyên đề tham gia hội thảo, chúng tôi không có tham vọng trình bày thật đầy đủ, cặn kẽ mọi nội dung liên quan đến Tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hộimà chỉ mong muốn nêu ra một số vấn đề để chia sẻ cùng các đồng nghiệp nhận thức của chúng tôi về vấn đề đã đặt ra và đề xuất một số hình thức rèn luyện tư duy phản biện.

 

  1. Trong quá trình giảng dạy và bồi dưỡng kĩ năng làm bài Nghị luận xã hội cho học sinh, giáo viên cần tránh giới hạn, gò ép mà cần gợi ra cho học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về vấn đề, cho phép học sinh có cơ hội được bày tỏ chủ kiến của mình, tự bộc lộ mình. Giáo viên cần tạo môi trường học tập để các em tìm lí lẽ của riêng mình, bộc lộ cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Làm được như thế chúng ta đã kích thích được sự phát triển của năng lực tư duy phản biện cần có của học sinh.
  2. Chúng tôi nghĩ rằng, để rèn năng lực tư duy phản biện trong Nghị luận xã hội là rất cần thiết. Vì thế, từ việc học sinh phải nắm rõ các bước rèn tư duy phản biện vận dụng tốt các thao tác lập luận, sử dụng dẫn chứng…đến việc soạn đề – chấm – chữa bài cho học sinh trong mỗi kì kiểm tra cần thiết kế một đề bài mở, đáp án mở… cho phép học sinh có cơ hội được bày tỏ chủ kiến của mình. Việc rèn năng lực tư duy phản biện trong nghị luận xã hội chỉ thực sự hiệu quả khi gắn với thực hành, do vậy, giáo viên cần đầu tư tâm huyết để xây dựng được một hệ thống đề bài có chất lượng ở những mức độ, phạm vi khác nhau cho học sinh thực hành luyện tập.

Trên đây chỉ là một vài đóng góp nhỏ của chúng tôi để tìm một hướng đi trong quá trình rèn luyện năng lực tư duy phản biện trong nghị luận xã hội cho học sinh, với mong muốn giúp các em học sinh chuyên văn nói riêng, THPT nói chung rèn luyện kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội đạt được những kết quả nhất định trong quá trình học và thi môn Ngữ Văn.  Chúng tôi rất mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quý báu của các quý Thầy, Cô đồng nghiệp về vấn đề này để chúng ta cùng giúp các em học sinh yêu thích và học tập môn Ngữ Văn ngày càng tốt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Lê A (Chủ biên)( 2009), Thực hành Làm văn lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam.
  2. Lại Nguyên Ân(1999), 150 Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
  3. Hà Thúc Hoan, Làm văn nghị luận: lý thuyết và thực hành, NXB Thuận Hóa.
  4. Hoàng Thị Mai( 2009), Phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam.
  5. Nguyễn Đăng Mạnh(Chủ biên) (2001), Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục.
  6. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Nguyễn Thanh Huyền)(2010), Dạy và học nghị luận xã hội, NXB Giáo Dục VN.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *