Đọc hiểu theo thể loại và nội dung qua văn bản “Hịch Tướng sĩ” ( Trần Quốc Tuấn)

Văn mẫu lớp 10

 

  1. Đọc hiểu thể loại 

– “Hịch” là thể văn chính luận cổ xưa, thuộc loại hình văn học chức năng; với mục đích cổ động, thuyết phục, kêu gọi, tập hợp lực lượng; thường do vua chúa,  tướng lĩnh ban bố. Hịch ra đời khi đất nước có biến cố lớn, đòi hỏi nhân dân phải đồng sức đồng lòng, quyết tâm trừ gian diệt ác. Để huy động sức người và lòng dân, hịch phải có lập trường vững chắc, quan điểm rõ ràng, tình cảm thống thiết, bằng chứng xác thực, lí lẽ đanh thép. “Tướng sĩ là những binh lính, quân sĩ dưới quyền chỉ huy của Trần Quốc Tuấn – danh tướng kiệt xuất thời đại nhà Trần. Tác phẩm còn có tên gọi khác là “Dụ chu tì tướng hịch văn”. Bằng cảm xúc yêu nước cháy bỏng, Trần Quốc Tuấn đã biến một tức phẩm với chức năng cổ vũ tinh thần cho những tướng sĩ dưới  quyền trở thành một tác phẩm văn học giàu tính nghệ thuật, kết tinh tình cảm yêu nước cháy bỏng, có sức mạnh tác động to lớn tới người nghe.

– Lập luận chặt chẽ

+ Nghệ thuật thuyết phục của bài hịch thể hiện ở một hệ thống lập luận chặt chẽ, lô-gic, “ý nọ gọi ý kia” để làm nên một bài hùng biện oai phong, khoáng hoạt, thể hiện tài năng của bậc văn võ toàn tài. “Chiến lược” thu phục lòng người, khích lệ tướng lĩnh không nằm ở thanh gươm, lưỡi đao mà bằng ngòi bút chính luận sắc sảo. 

+ “Hịch tướng sĩ” có bố cục 4 phần tương ứng với trình tự lập luận chặt chẽ của tác giả. Đầu tiên, Trần Quốc Tuấn nêu gương các trung thần nghĩa sĩ dám xả thân lập công phò vua giúp nước nhằm mục đích đánh vào lòng  tự trọng, tự tôn của các tướng sĩ. Sau đó, bài hịch nêu ra nguy cơ mất nướcvà sự kiêu ngạo, hống hách của sứ giặc, nhằm khơi gợi lòng trắc ẩn tước bối cảnh đất nước rối ren và trách nhiệm của các tướng sĩ. Phần tiếp theo, Trần Quốc Tuấn thẳng thắn lên án thái độ thờ ơ của các tướng sĩ trong hoàn cảnh nước mất nhà ta, hậu quả khôn lường của lối sống vô trách nhiệ ấy để các tướng sĩ cảm thấy hổ thẹn. Cuối cùng,bài hịch truyền ngọn lửa nhiệt huyết, kêu gọi tướng lĩnh dốc lòng học tập binh pháp, rèn luyện võ nghệ, nung nấu ý chí đánh giặc.

+ Với cách lập luận: Nêu gương- cảnh báo- lên án- khích lệ, bài hịch trở thành lời đối thoại với các tì tướng, giúp khơi dậy lòng tự tôn, trách nhiệm, bổn phận với chủ tướng, tình cảm với quốc gia dân tộc. Trần quốc Tuấn đã khích lê các tướng sĩ bằng nhiều phương diện: Khích lệ ý chí lập công danh, lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc, lòng căm thù giặc,tinh thần trung quân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục…để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chống giặc, rời xa thói cầu an hưởng lạc.

– Dẫn chứng xác thực 

+ Tác giả lấy dẫn chứng là các bận trung thần nghĩa Trung Hoa, đây được coi là những nhân vạt anh hùng lí tưởng, mẫu mực, thể hiện rõ đặc trưng “sùng cổ” của văn học Trung đại. Tội ác của kẻ thù được chứng minh bằng các sự thật lịch sử, đặc biệt là tội bốc lột và sỉ nhục quốc thể. Lối sống có phần thờ ơ, cá nhân, vún vén cho gia tộc của các tướng lĩnh cũng được Trần Quốc Tuấn chỉ rõ với nhiều bằng chứng cụ thể, xác đáng.

+ Như vậy, phạm vi dẫn chứng được bao quát từ các điển tích, điển cố trong sách vở đến các câu chuyện gần gũi trong thực tế cuộc sống, làm tăng thêm sức mạnh cho phần lập luận.

– Cảm xúc chảy bỏng

 Bài hịch có sức mạnh hiệu triệu, thức tỉnh lòng người không chỉ bởi lí lẽ đanh thép, mà còn bởi cảm xúc cháy bỏng: sôi nổi mãnh liệt khi nêu gương các anh hùng nghĩa sĩ, căm giận tột cùng khi tố cáo tội ác kẻ thù, đau đớn xót xa khi quân sĩ có tư tưởng cầu an hưởng lạc, cuối cùng là tha thiết tin tưởng khi thúc giục động viên tướng lĩnh. Từ đó bài hịch đã vượt ra khỏi đặc trưng “tải đạo”, “nói chí” của văn học trung đại thể hiện những cung bậc cảm xúc cá nhân rất mới mẻ.

  1. Đọc hiểu nội dung

  – Hoàn cảnh sáng tác

“Hịch tướng sĩ” được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông lần thứ hai (1835). Theo Biên niên lịch sử cổ Trung đại Việt nam (xuất bản năm 1987) thì bài hịch được công bố vào tháng 9 năm 1284 tại cuộc duyệt binh ở Đông Thăng Long. Quân xâm lược đã kéo đến biên thùy, sứ giặc cậy thế mạnh nên hống hách . Tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, trong khi đó một bộ phận tướng sĩ dao động tư tưởng, muốn cầu hòa, cầu an, nhụt ý chí chiến đấu. Để giành chiến thắng, điều quan trọng nhất lúc này là phải đánh bại tư tưởng dao động, thờ ơ với vận mệnh đất nước của các tướng sĩ, truyền cho họ một nhiệt huyết chiến đấu và tình yêu nước cháy bỏng. Bài hịch ra đời đã trở thành một hồi kèn xung trận nhằm xốc lại ý chí chiến đấu cho toàn quân đội.

– Tinh thần quyết chiến quyết thắng, kêu gọi đánh giặc

+ Nội dung chủ đạo xuyên suốt của bài hịch qua các phần là kêu gọi đánh giặc, nêu cao tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ. Với nội dung chính này,  Trần Quốc Tuấn đã lựa chọn những cách thức, nội dung phong phú:

+ Nêu gương những trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn dùng giọng chuyện trò để đối thoại với các tì tướng, nêu ra sáu tấm gương liều chết cứu chủ  của các bậc trung quân trong sử sách Trung Hoa: Kỉ Tín đem mình chết thay cho Cao Đế, Do Vu chịu giáo che chở cho Chiêu Vương, Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ, Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước, Kính Đức phò trợ Thái Tông, Cảo Khanh mắng giặc, không mắc mưu kế giặc mà phản chủ. Đồng thời Trần Quốc Tuấn lại nêu lên bốn tâm gương gần đây trong cuộc chiến tranh Tống, Nguyên: Vương Công Kiên được tì tướng Nguyễn Văn Lập hết lòng phò trợ chống lại quân Mông Kha, cốt Đãi Ngột Lang được tì tướng Xích Tu Tư tận tâm dốc sức đánh bại quân Nam Chiếu, việc nêu gương các trung thần nghĩa sĩ tận tâm với chủ, tận trung với đất nước đã đánh mạnh vào lòng tự ái tự trọng của mỗi tướng sĩ đang lắng nghe bài hịch, cốt để khích lệ ý chí phải noi gương tiền nhân để không phải hổ thẹn với chủ tướng, với đất nước.

+ Lột tả sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù. Phần tiếp theo, tác giả nhắc đến hoàn cảnh chung của “ta” và “các ngươi” : “ Huống chi ta cùng các ngươi, sinh phải thời loạn lạc,lớn gặp buổi gian nan”. Đây là cách thu phục lòng người rất khéo, bởi Trần quốc Tuấn đã đặt ngang hàng vị trí của mình với các tướng sĩ, cả hai đều có điểm chung là sinh ra và lớn lên trong bối cảnh thật sự khó khăn, giặc giã hoành hành. Kẻ thù ngang ngược, xấc xược với những hành động: uốn lưỡi cú diều mà mắng mỏ triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, vét của kho. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra sự xấu xa, hèn mạt của quân giặc qua các hình ảnh ẩn dụ “củ diều”, “dê chó”, đồng thời chỉ ra nỗi nhục mất nước của chính các tướng sĩ khi thờ ơ với thời cuộc.

 + Trần Quốc Tuấn đã nêu lên mối ân tình giữa chủ và tướng, phê phán những biểu hiện sai trong hàng ngũ tướng sĩ. Khẳng định hành động đúng nên làm để tướng sĩ thấy rõ điều hay. Sau khi chỉ ra mối nguy mất nước bởi quân giặc ngang ngược, Trần quốc Tuấn bộc bạch lòng căm thù giặc với lời văn thống thiết: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” để các tướng sĩ thấy được nỗi lo lắng thường trực của các vị chủ tướng trong thời buổi nhiễu nhương. Để ràng buộc các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn nhắc lại những ân tình, đối đãi, chia ngọt sẻ bùi của chủ tướng dành cho các tướng sĩ dưới quyền: Không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Dụng ý của lời văn là ta đã dối đãi với các ngươi với ân tình sâu nặng như vậy, mà sao các ngươi lại thờ ở, vô trách nhiệm. Trần Quốc Tuấn đã có những lời trách mắng trực diện: nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hần quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường để đã yến ngụy sứ mà không biết căm…Đây là phép khích tướng, kích họ bằng cách đẩy họ vào tình thế phải chứng tỏ tấm lòng biết thẹn, biết nhục biết lo cho vận mệnh đất nước. Ông cũng mỉa mai khinh miệt những thú vui tiêu khiển tầm thường như chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săc bắn…

+ Nêu lên nhiệm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu. Từ việc phê phán thái độ, hành động lơ là, chủ quan, mất cảnh giác của các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra những việc cần làm lúc này. Đó là cần nêu cao tinh thần cảnh giác; nên xem việc để mồi lửa dưới đống củi là mối nguy, cần có mục tiêu hành động cụ thể: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên. Có như vậy mới bảo vệ được quyền lợi riêng của gia quyến, tổ tông. Từ đó dẫu các tướng lĩnh không muốn vui vẻ, phỏng có được không? Sau khi răn dạy, khuyên nhủ, Trần Quốc Tuấn bắt buộc các tướng lĩnh phải chuyên tâm tập luyện theo tập sách “Binh thư yếu lược” ( nếu các ngươi viết chuyên tâm tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là nghịch thủ).

– Hình tượng Trần Quốc Tuấn

  Bài hịch sử dụng đại từ nhân xưng “ta”- là cách xưng hô của Trần Quốc Tuấn với các tướng sĩ, “ Hịch tướng sĩ” mở đầu bằng câu “Ta thường nghe”, nội dung bài hịch cũng là lời giãi bày: “huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan”, “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đem vỗ gối”, “ nay ta bảo thật các ngươi”, “nay ta chọn binh pháp các nhà”, kết thúc là “ ta viết ra bài hịch này để các người biết bụng ta”. Như vậy bên cạnh nội dung tư tướng chính của bài hịch là kêu gọi tinh thần chiến đấu chống giặc của các tướng sĩ, bài hịch còn phạc họa gián tiếp hình tượng Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn là người có tài thao lược, giỏi binh nghiệp, đồng thời cũng rất am hiểu văn chương và có tài hùng biện. Ông hiện lên là người có lý trí mạnh mẽ khi phân tích mối nguy từ sự hống hách của sứ giặc, chỉ ra những biểu hiện lơ là, củ quan, mất cảnh giác của các tướng sĩ; cũng là người có cảm xúc sôi nổi, cháy bỏng khi bộc lộ nỗi đau đớn, niềm căm giận tột độ, sự quyết tâm hi sinh bản thân mình để đánh giặc.

– Chủ đề tư tưởng

Bài hịch có nhiều phần nhưng tư tưởng chủ đạo xuyên suốt vẫn là nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, nhằm đánh bại tư tưởng động, bàng quan trong hàng ngũ tưởng sĩ. Từ đó tác phẩm thể hiện lòng yêu nước bất khuất của Trần Quốc Tuấn, của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, và được coi là một áng thiên cổ hùng văn.

Cảm nhận “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn

   Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc văn võ toàn tài. Tên tuổi ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng bất tử.

Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần cử giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A. Đông – A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần(1226-1400), hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc. Hào khí Đông-A tỏa sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh giặc Nguyên – Mông. Bằng cảm xúc yêu thương cháy bổng, Trần Quốc Tuấn đã biến một tác phẩm với chức năng cổ vũ tinh thần cho những tướng sĩ dưới quyền trở thành một tác phẩm văn học giàu tính nghệ thuật, kết tinh tình cảm yêu nước cháy bỏng, có sức mạnh tác động to lớn đối với người nghe.

Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh… đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ.

Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đông- A. Nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng. Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thử bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và căm ghét tận xương tủy, phải tiêu diệt!

Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với lũ giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời hào khí Đông – A.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đông – A. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa, …, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(…) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon,mê tiếng hát,… thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa.

Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ trong ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận.

Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục, phải biết thẹn khi thấy nước nhục, phải biết tức khi thấy nước nhục, phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến ngụy sứ!

Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyết chiến quyết thắng, là vinh quang.

Hịch tướng sĩ sáng ngời hào khí Đông-A, nó có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,…

Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông-A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã! Là tư thế lẫm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: phá cường địch, báo hoàng ân. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ- tử chi binh trăm trận trăm thắng:

Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao ngưu.

                   Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)

Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm lớn nhất, tráng lệ nhất,biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Qua bài hịch, ta càng thêm ngưỡng mộ và biết ơn vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ, còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *