rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh chuyên Văn

Tài liệu Văn
  CHUYÊN ĐỀ

DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

NĂM 2017

 

RÈN TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

 

MỤC LỤC

Nội dung Trang
A. Phần mở đầu 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu 4
3. Đối tượng nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Cấu trúc 4
B.  Phần nội dung 5
I. Cơ sở vấn đề 5
1. Cơ sở lí thuyết 5
1.1. Tư duy phản biện 5
a. Tư duy 5
b. Phản biện 6
c. Tư duy phản biện – Critical thinking 7
1.2. Nghị luận xã hội 8
          a. Khái niệm 8
          b. Phân loại các dạng bài nghị luận xã hội 9
1.3. Tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội 9
2. Cơ sở thực tiễn 11
2.1. Thực trạng dạy 11
a. Thuận lợi 11
b. Khó khăn 12
2.2. Thực trạng học 12
a. Thuận lợi 12
b. Khó khăn 13
II. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh chuyên Văn 13
1. Đối với giáo viên và hoạt động dạy 13
1.1. Sử dụng phương pháp, kĩ thuật  dạy học linh hoạt 13
a. Phương pháp dạy học 13
b. Kĩ thuật dạy học 15
1.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi kích thích tư duy phản biện 16
1.3. Tạo không khí dân chủ cho giờ học 17
1.4 . Kiểm tra đánh giá linh hoạt 18
a. Đề kiểm tra 18
b. Đáp án, hướng dẫn chấm 20
c. Chấm điểm 21
d. Trả bài 21
2. Đối với học sinh và hoạt động học 21
2.1. Hình thành nếp tư duy phản biện 21
a. Đặt nghi vấn và giải quyết nghi vấn 21
b. Khách quan sự việc 21
c. Phân tích, tổng hợp 22
d. Đưa giải pháp thuyết phục 22
2.2. Thực hành tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội 22
a. Sử dụng các thao tác lập luận để thể hiện tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội 22
b. Sử dụng giọng điệu phù hợp để thể hiện tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội 25
c. Sử dụng các phương thức biểu đạt để phản biện trong bài văn nghị luận xã hội 27
III. Một số ví dụ minh họa (18 đề và gợi ý, đáp án) 29
C. Phần kết 53
D. Tài liệu tham khảo 54

                                            PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trường học Aten (The school of Athens) là một trong những bức bích họa thời kì Phục Hưng nổi tiếng trên toàn thế giới của họa sĩ, kiến trúc sư người Ý Raphael. Bức bích họa gây ấn tượng không chỉ bởi tài năng hội họa mà còn bởi ý tưởng độc đáo của Raphael: Bức tranh vẽ cho nhà thờ – nơi ngự trị niềm tin vào đức chúa trời nhưng lại mang màu sắc trần tục khi tác giả hướng vào ngợi ca tri thức khoa học. Bức tranh là cuộc hội ngộ tưởng tượng của những nhà triết học lừng danh (ở cả hai trường phái duy tâm và duy vật), những nhà tiên tri, nhà toán học, nhà thiên văn học… Tinh thần của bức tranh không chỉ là ca ngợi tri thức mà còn thể hiện một tinh thần phản biện dân chủ, công khai không phân biệt ngành nghề, lĩnh vực, lãnh thổ, địa vị, tuổi tác… để đạt mục đích cuối cùng là chân lí. Tuy nhiên, tinh thần phản biện không phải đến thời kì Phục Hưng mới được đề cao ở phương Tây mà ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học Hi Lạp như Socrates, Platon, Aristoletes… đã đề cập đến như một phương thức tư duy để tiếp cận sự thật. Tương tự như vậy, ở phương Đông – Ấn Độ, trong kinh Phật cũng đề cập đến phản biện như một phương thức để đi đến giác ngộ lẽ đạo. Ở Trung Quốc cổ đại, thời kì bách gia tranh minh, tuy phản biện không được nêu ra như một phương thức tư duy đầy đủ, nhưng mỗi triết gia như Lão Tử, Khổng Tử, Trang Tử, Mặc Tử, Dương Tử, Hàn Phi Tử… khi trình bày học thuyết của mình đã phản biện hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp những học thuyết khác một cách thuyết phục. Như vậy có thể thấy, tư duy phản biện ngay từ thời cổ đại đã được chú ý và đóng một vai trò quan trọng trong hành trình tiến tới tri thức của nhân loại trên toàn thế giới.

Ngày nay, tư duy phản biện đã trở thành một trong những tiêu chí cần đạt trong giáo dục ở nhiều quốc gia, nó được đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học trên toàn thế giới. Sở dĩ như vậy bởi tư duy phản biện đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống: từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội… Đây là một trong những loại tư duy quyết định lớn đến năng lực, nhân cách cũng như sự thành công của mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng hơn, một xã hội không khuyến khích tư duy phản biện là một xã hội không phát triển và dần trở nên lạc hậu. Theo học thuyết của Mác: cái mới ra đời trên cơ sở vừa tiếp thu, vừa phủ định cái cũ. Như vậy, tư duy phản biện chính là nền tảng của sự sáng tạo, đổi thay và phát triển của mỗi đất nước, mỗi dân tộc.

1.2. Trong khi giáo dục thế giới đã chú trọng đến rèn luyện tư duy đặc biệt là tư duy phản biện, thì giáo dục Việt Nam vẫn nặng về truyền thụ tri thức. Việc kiểm tra, đánh giá vẫn nặng về tri thức mà chưa chú ý đúng mức tới các năng lực, kĩ năng mềm – trong đó có tư duy phản biện. Bởi thế, ở Việt Nam có hiện tượng: nhiều học sinh, sinh viên đạt được thứ hạng cao trong các kì thi kiến thức nhưng trong thực tế đời sống lại không đạt được thành công như mong muốn. Vì vậy, Nghị quyết số 29 của hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã nhấn mạnh giáo dục Việt Nam phải đổi mới theo hướng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại hóa, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng của người học; khắc phục lối học truyền thụ, áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực… Và tư duy phản biện hiện nay đang trở thành một mục tiêu đào tạo hướng tới của nhà trường các cấp nhằm hoàn thiện hơn phẩm chất và tư duy của học sinh.

1.3. Với học sinh chuyên Văn, tư duy phản biện rất cần thiết. Trong quá trình tiếp nhận văn bản, tư duy phản biện giúp các em có được những cảm nhận, suy nghĩ độc lập. Trong quá trình tạo lập văn bản, nó thể hiện chiều sâu nhận thức và chính kiến riêng của người viết. Sức hấp dẫn của một áng văn hay không chỉ bởi lối hành văn mà còn bởi những cảm xúc suy nghĩ độc đáo có khi khác với truyền thống, đi ngược lại đám đông. Những bài viết có tư duy phản biện thường có độ sắc và bộc lộ được cá tính của người cầm bút. Điều này biểu hiện rõ nhất là trong những bài văn nghị luận xã hội.

Tóm lại, với chuyên đề này, chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm ý kiến vào việc hình thành và rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh chuyên Văn trong bài văn nghị luận xã hội. Điều này không chỉ có ý nghĩ đối với môn học mà xa hơn, chúng tôi mong muốn tư duy phản biện sẽ giúp các em có thể tiến xa hơn trong cuộc sống.

  1. Mục đích và nhiệm vụ của chuyên đề

Mục đích của chuyên đề: Nghiên cứu, đào sâu một số vấn đề về rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện của học sinh chuyên Văn trong bài văn nghị luận.

Nhiệm vụ: Tìm hiểu khái niệm, biểu hiện của tư duy phản biện và nghiên cứu các biện pháp cụ thể rèn tư duy phản biện cho học sinh chuyên Văn trong bài văn nghị luận xã hội.

  1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này là học sinh chuyên Văn lớp 10,11,12.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tôi đã nghiên cứu những tài liệu giáo dục học, tâm lí học, triết học, lí luận văn học, tập làm văn, báo chí… để tổng hợp từ lí thuyết đến các ví dụ minh họa trong bài.

Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và kiểm tra kết quả trực tiếp ở lớp 10,11,12 chuyên Văn của trường. Từ đó chúng tôi đi đến kết luận và đề ra những giải pháp được đề cập trong chuyên đề.

  1. Cấu trúc
  2. Phần mở đầu
  3. Phần nội dung
  4. Cơ sở vấn đề
  5. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học văn nghị luận xã hội cho học sinh chuyên Văn

III. Một số ví dụ minh họa (đề và đáp án)

  1. Phần kết luận

 

 

 PHẦN NỘI DUNG

  1. Cơ sở vấn đề
  2. Cơ sở lí thuyết

1.1. Tư duy phản biện

  1. Tư duy

* Khái niệm tư duy:

Theo Từ điển tiếng Việt, tư duy được hiểu là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý. [11,1357].

Theo triết học Mác – Lênin, tư duysản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là não bộ, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận… Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại. [13]

Theo tâm lí học, tư duy là sự phản ánh trong óc ta những sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của chúng [7], hay theo giáo sư Nguyễn Quang Uẩn – Trưởng khoa tâm lí học của viện Khoa học xã hội, tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tương trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết. [6]

Tóm lại, tổng hợp từ các góc độ, có thể hiểu tư duy là một quá trình nhận thức đặc biệt chỉ có ở con người, phản ánh hiện thực khách quan vào trí óc con người dưới dạng khái niệm, phán đoán, lí luận… Tư duy chính là sản phẩm của hoạt động xã hội. Tư duy bao gồm những quá trình nhận thức tiêu biểu như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, phát hiện và giải quyết vấn đề… Kết quả của tư duy là một ý nghĩa về sự vật, hiện tượng nào đó, và ở mức độ cao hơn là một tư tưởng nào đó hướng tới giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra cho mỗi chúng ta.

* Phân loại tư duy:

Có nhiều cách phân loại tư duy dựa trên các tiêu chí khác nhau như: đối tượng tư duy, đặc trưng của tư duy…

Phân loại theo đối tượng của tư duy: Tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy văn học, tư duy toán học…

Phân loại theo đặc trưng của tư duy: Tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy biện chứng,  tư duy thực hành, tư duy phân tích, tư duy phản biện, tư duy sáng tạo,…

Trong đó, tư duy phản biện được coi là loại tư duy ở mức độ cao, được tổng hợp nhiều loại tư duy trước đó như tư duy phân tích, tư duy logic. Sở dĩ như vậy bởi tư duy phản biện được hình thành và phát triển qua quá trình rèn luyện trí tuệ về các khả năng: phân tích thực tiễn, tổng quan, tổ chức hệ thống các ý tưởng, đối chiếu so sánh, nhận thức và cân nhắc thận trọng một hiện tượng, sự việc để đưa ra các phán đoán, rút ra một kết luận, quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ. Và tư duy phản biện tham gia được ở mọi lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học…

Như vậy, dù phân loại theo tiêu chí nào, tư duy phản biện đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức ở mức độ cao của con người để tiếp cận được tri thức ở mọi lĩnh vực.

  1. Phản biện

* Khái niệm phản biện:

Theo Từ điển tiếng Việt, phản biệnđánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình được đưa ra bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi. [11, 968]

Như vậy, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học – cuốn từ điển thông dụng nhất hiện nay, phản biện mang ý nghĩa đánh giá chất lượng – nghĩa là không chỉ bác bỏ hay có ý kiến trái ngược mà là đánh giá chung trên cơ sở tìm hiểu, phân tích vấn đề… Tuy nhiên, định nghĩa này cũng giới hạn phạm vi sử dụng của từ phản biện: một công trình khoa học được đưa ra bảo vệ để lấy học vị – rõ ràng phạm vi này không bao quát được hết ngữ dụng của từ phản biện. Vì vậy, chúng tôi đã đối chiếu từ phản biện trong tiếng Việt với từ critical (phản biện, phê phán) trong tiếng Anh.Theo kết quả nghiên cứu của thạc sĩ Cẩm Giang, tác giả đã tìm trong từ điển Oxford Advanced Learn’s Dictionary thì critical là tính từ dùng để diễn tả:

Nghĩ là không tốt, chê bai, bất đồng, không tán thành, phản đối

Cực kì quan trọng, sẽ có ảnh hưởng nhiều trong tương lai

Nghiêm trọng, nguy hiểm

Đưa ra phán đoán cẩn thận, công bằng về chất lượng tốt hay kém

Phê bình

Một ý nghĩa của thuật ngữ phản biện (critical) có nghĩa là cốt yếu (crucial) hay liên quan tới những tiêu chí cốt lõi (related to core criteria) có nguồn gốc từ thuật ngữ tiêu chí (kriterion) của người Hy lạp cổ; một ý nghĩa thứ hai có nguồn gốc từ kriticos, có nghĩa những nhận định sâu sắc, sáng suốt (discerning judgment).

Như vậy,  phản biện  như được dùng trong cụm từ tư duy phản biện bao hàm tầm quan trọng hay tính chất trọng tâm của tư duy đối với một vấn đề, một câu hỏi, hay một mối quan ngại nào đó. Phản biện trong văn cảnh này không có ý nghĩa phản đối mang tính tiêu cực mà là đưa ra đánh giá hoặc nghi vấn trên cơ sở cân nhắc, thảo luận; hay phân tích những giả định và chất lượng của vấn đề để đạt tới mức độ tin cậy hợp lý; hoặc đưa ra một phán đoán dựa trên cái nhìn đa chiều với sự vật, hiện tượng được đưa ra xem xét.

* Đối chiếu với một số khái niệm khác:

Trước đây, ở Việt Nam, khái niệm critical có khi được dịch là phản biện, có khi được dịch là phê pháncritical thinking được hiểu là tư duy phản biện hoặc tư duy phê phán. Phê phánvạch ra cái sai trái để tỏ rõ thái độ không đồng tình hoặc lên án. [11, 983]. Sắc thái của từ phê phán là tiêu cực, chỉ mang nghĩa phản đối. Nhưng phản biện thì mang tính đánh giá khách quan, bao gồm tất cả các mặt dù tích cực hay tiêu cực, có đồng tình cũng có thể phản đối. Vì vậy, ngày nay, critical thinking thường được dịch phổ biến nhất là tư duy phản biện ở Việt Nam.

Phản biện cũng khác hoàn toàn với ngụy biện. Ngụy biệncố ý dùng những lí lẽ bề ngoài có vẻ đúng nhưng thật ra là sai, để rút ra những kết luận xuyên tạc sự thật. [11, 877]. Như vậy, về hình thức, phản biệnngụy biện đều dùng lí lẽ để đưa ra một đánh giá, nhận định về vấn đề, nhưng về bản chất, chúng khác nhau hoàn toàn, phản biện là dùng lí lẽ, phân tích, dẫn chứng, lập luận để đi đến kết luận đúng đắn, còn ngụy biện  là dùng lí lẽ, dẫn chứng, lập luận nhằm che giấu kết luận đúng.

Tóm lại, phản biện ở đây phải được hiểu đầy đủ là đưa ra phán đoán, nhận định, kết luận về một vấn đề nào đó trên cơ sở xem xét các khía cạnh, phân tích các dẫn chứng, lập luận một cách kĩ càng nhằm đưa ra kết luận đầy đủ, chính xác nhất về vấn đề đang xem xét.

  1. Tư duy phản biện – Critical thinking

* Khái niệm tư duy phản biện:

Lí thuyết về tư duy phản biện đã được chú ý nghiên cứu và đưa ra các nguyên tắc phản biện từ thời Socrates ở phương Tây. Sau này, tư duy phản biện càng được giới nghiên cứu tâm lí học, giáo dục học, kinh tế học chú ý và đưa ra nhiều kết quả nghiên cứu. Trên cơ sở tổng hợp tài liệu, chúng tôi xin giới thiệu một số cách hiểu phổ biến nhất trên thế giới về tư duy phản biện.

Nhà triết học, tâm lí học, giáo dục học người Mỹ John Dewey lại nhấn mạnh tính chủ động và liên tục khi định nghĩa: tư duy phản biện là sự suy xét chủ động, liên tục, cẩn trọng về một niềm tin, một giả định khoa học có xét đến những lí lẽ bảo vệ nó và những kết luận xa hơn được nhắm đến.

Nhà nghiên cứu Edward Glaser cũng có nhiều điểm tương đồng với John Dewey khi khẳng định tư duy phản biện là: (1) là thái độ sẵn lòng quan tâm suy nghĩ chu đáo về những vấn đề và chủ đề trong cuộc sống cá nhân; (2) là sự hiểu biết về phương pháp điều tra và suy luận có lý; (3) là một số kĩ năng trong việc áp dụng các phương pháp đó. Tư duy phản biện đòi hỏi sự nỗ lực bền bỉ để khảo sát niềm tin hay giả thuyết bấy kỳ ai có xem xét đến các bằng chứng khẳng định nó và những kết luận xa hơn được nhắm đến.

Robert Ennischa đẻ của phong trào tư duy phản biện ở Bắc Mỹ định nghĩa: tư duy phản biện là sự suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm, thực tế và hữu ích để quyết định niềm tin hay hành động. [3, 19] Với định nghĩa này, R. Ennis không chỉ nhấn mạnh tư duy phản biện ở khía cạnh suy nghĩ mà còn thể hiện tác động của nó ở tâm lý và hành động.

Richard Paul – giám đốc nghiên cứu của trung tâm tư duy phản biện Mỹ có một góc nhìn khác với các tác giả trước ông: tư duy phản biện là một mô hình tư duy – về một chủ thể, một vấn đề, một nội dung bất kỳ – trong đó chủ thể tư duy cải tiến chất lượng tư duy của mình bằng việc điều khiển một cách thành thạo các cấu trúc nền tảng có sẵn của tư duy và áp đặt các tiêu chuẩn của hành động trí tuệ lên quá trình tư duy của mình. Phát biểu này sở dĩ được quan tâm vì nó chỉ ra cách thức để phát triển tư duy phản biện là thông qua tư duy về tư duy (siêu nhận thức).

Ở Việt Nam, cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, các nhà tâm lí, giáo dục học cũng đặc biệt chú ý đến tư duy phản biện. Không chỉ là những bài dịch thuật, giới thiệu lí thuyết, nhiều nhà nghiên cứu cũng bước đầu đưa ra những định nghĩa tư duy phản biện trên cơ sở phân tích, chọn lọc các lí thuyết trước đó.

Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Gia Cầu trong bài viết của mình đã nhận định: Tư duy phản biện là một quá trình tư duy gồm phân tích, lựa chọn sàng lọc và đánh giá một thông tin, một vấn đề đã có theo các cách nhìn khác nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. [1] Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn quan niệm: tư duy phản biện được hiểu đơn giản nhằm giúp bạn thay đổi cách bạn tư duy về cái bạn đang tư duy. Một người có lối tư duy phản biện tiếp cận vấn đề và các tình huống phức tạp dựa trên nhận thức và suy nghĩ thấu đáo. Nếu nhận thức và suy nghĩ của họ chưa chuẩn, họ có thể nắm những suy nghĩ, niềm tin, và quan điểm đó theo cách hợp lí hơn và chính xác hơn.

Tóm lại, từ việc tổng hợp các định nghĩa trên, chúng tôi đi đến một cách hiểu khái quát về tư duy phản biện như sau: Tư duy phản biện là một tiến trình tư duy tích cực và thành thạo trong việc khái niệm hóa, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những tin tức thu nhận được từ sự quan sát hay do kinh nghiệm, suy niệm, lí luận, hay giao tiếp để hướng dẫn hành động và sự tin tưởng.

Các kĩ năng và thái độ cần có của tư duy phản biện gồm:

Nhận biết lập trường, luận cứ và kết luận của người khác

Đánh giá dẫn chứng của những quan điểm khác.

Biết cách so sánh các luận cứ và dẫn chứng đối lập một cách công bằng, dân chủ.

Có thể đoán ý ngoài lời, xem xét những nội dung ẩn bên trong luận cứ và nhận ra các giả định sai hoặc gian lận.

Nhận biết các kĩ thuật gian lận được sử dụng để làm cho một số lập trường có vẻ thuyết phục hơn những lập trường khác, chẳng hạn như sử dụng một logic hoặc một công cụ thuyết phục sai.

Tái hiện vấn đề theo một cấu trúc hợp lí để nhìn rõ logic và nội hàm của nó.

Rút ra kết luận về việc luận cứ có đúng đắn, hợp lí, dựa trên các dẫn chứng vững chắc và các giả định phù hợp hay không.

Trình bày một quan điểm theo một cấu trúc rõ ràng, hợp lí để thuyết phục được người khác.

Các nguyên tắc cơ bản của tư duy phản biện học sinh cần có:

Thứ nhất: cần thu thập đủ thông tin cần thiết cho vấn đề đang được đưa ra bàn luận trong quá trình dạy học, học sinh có thói quen tích lũy và biết huy động vốn kiến thức mà mình đã tiếp thu được.

Thứ hai: hiểu và xác định rõ các khái niệm có liên quan đến vấn đề mình đang bàn luận.

Thứ ba: tư duy phản biện khuyến khích sự hoài nghi, không bác bỏ bừa bãi mà hoài nghi để hiểu rõ hơn một vấn đề trước khi chấp nhận nó. Câu hỏi áp dụng trong quá trình phản biện hay tự phản biện: Tại sao lại đưa ra kết luận đó? Căn cứ để khẳng định điều đó? Nguồn gốc thông tin? Tại sao điều này lại quan trọng? Điều gì có thể giải thích cho hiện tượng này? Còn có những phương án nào khác, làm thế nào để tốt hơn nữa?

Thứ tư: chú ý đến các giả thuyết – tránh thiếu ý, sót ý, dự đoán.

Thứ năm: xem xét các quan hệ nhân – quả logic nhất quán, không bị chi phối bởi tình cảm hay áp lực xã hội.

Thứ sáu: có niềm tin vào những giá trị, ý tưởng mà mình trình bày, tìm hệ thống luận cứ chứng minh…

1.2. Nghị luận xã hội

  1. Khái niệm

Đến nay, khái niệm văn nghị luận xã hội đã trở nên rất quen thuộc với chúng ta. Trong chuyên đề này, chúng tôi sẽ không đi quá sâu vào việc nhắc lại lý thuyết chung về văn nghị luận xã hội. Dưới đây là một số nhận định có uy tín về văn nghị luận xã hội:

Theo Bảo Quyến: Văn nghị luận là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bao gồm những vấn đề thân thuộc mọi quan hệ, hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đồi sống, xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số… [10]

Theo giáo sư Đỗ Ngọc Thống: Văn nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mỗi quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội. [4,5]

Theo nhà giáo Hoàng Dân: Nghị luận xã hội là một kiểu bài dùng lí lẽ và thực tế để giải quyết một vấn đề đặt ra trong xã hội, từ những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày ở cộng đồng lớn nhỏ đến những vấn đề chính trị rộng lớn, từ những vấn đề luân lí đạo đức cá nhân đến những vấn đề có tầm quan trọng về triết lí nhân sinh. Đó là những vấn đề chính trị – xã hội có liên quan đến mỗi cá nhân, nó khiến mọi người phải suy nghĩ và có trách nhiệm tham gia giải quyết bằng một phương thức nào đó (nói, viết, hành động) để góp phần duy trì sự tồn tại của cộng đồng. [5,5]

Tựu trung lại, văn nghị luận xã hội là loại văn bản trong đó người viết, người nói sử dụng lí luận với các luận điểm, luận chứng… để trình bày những quan điểm, nhận xét đánh giá của mình về một vấn đề xã hội nhằm thuyết phục người nghe, người đọc hiểu và tin vào những ý kiến đó.

  1. Các dạng bài nghị luận xã hội

Hiện nay, tiêu chí phân loại dạng bài nghị luận xã hội dựa vào nội dung đang được sử dụng nhiều nhất. Theo tiêu chí này, có thể chia nghị luận xã hội thành 3 dạng chính:

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí

Nghị luận về một hiện tượng đời sống

Nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra từ một tác phẩm văn học

Ngoài ra, còn có dạng đề nghị luận về hai mặt đối lập, dạng đề mở… Dù thuộc dạng nào, bài văn nghị luận xã hội cũng cần người viết có tư duy phản biện để tăng chất văn và chiều sâu cho bài viết.         

1.3. Tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội

Do đặc trưng của văn nghị luận là trình bày những quan điểm, nhận xét đánh giá của người viết về một vấn đề nhằm thuyết phục người nghe, người đọc hiểu và tin vào những ý kiến đó nên người viết trước hết phải có một quan điểm, thái độ rõ ràng, đúng đắn và tự tin thể hiện nó. Trong thời đại bùng nổ thông tin và quan niệm tư tưởng đạo đức, chính trị… khác nhau, việc có được chính kiến riêng rõ ràng, đúng đắn đã khó, việc bảo vệ quan điểm đó trước những ý kiến trái chiều, thậm chí là đi ngược lại tư tưởng đám đông lại càng khó hơn. Tư duy phản biện giúp cho học sinh trước hết thể hiện được năng lực tư duy độc lập, cá tính độc đáo với những góc nhìn riêng từ đó tạo nên sức hấp dẫn trong bài viết. Có năng lực phản biện tốt, bài văn nghị luận sẽ tỏa ra sức hút từ trí tuệ, tâm hồn và cá tính của chính người viết.

Trong bài văn nghị luận văn học, tư duy phản biện dựa trên nền tảng phân tích, suy luận, tổng hợp, liên tưởng, so sánh sẽ giúp học sinh không chỉ cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm từ nội dung đến hình thức mà còn cho thấy những góc nhìn riêng độc đáo. Thế kỉ XX, các nhà lí luận văn học đặc biệt chú ý đến quá trình tiếp nhận và vai trò đồng sáng tạo của người đọc. Thậm chí, có người đã coi lịch sử văn học cũng là lịch sử tiếp nhận. Càng những tác phẩm văn học lớn, có tư tưởng phức tạp, có hình thức nghệ thuật đặc biệt thì càng gây nhiều tranh cãi trong quá trình tiếp nhận. Và những ý kiến phản biện sắc sảo sẽ giúp khẳng định giá trị thực sự của tác phẩm. Cùng cảm nhận về Thúy Kiều, ngay chính các nhà Nho dù đều xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình đã có những thái độ đánh giá khác nhau về người con gái đầu lòng họ Vương. Nổi tiếng ngông, dám bứt phá những lễ nghi phong kiến, bất chấp khen chê của người đời để thể hiện cá tính, tài năng, vậy mà Nguyễn Công Trứ lại tỏ ra rất gay gắt khi đánh giá nàng Kiều của Nguyễn Du: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Cách Nguyễn Công Trứ nửa thế kỉ sau, cụ Huỳnh Thúc Kháng có cảm thông hơn nhưng vẫn có thái độ không hoàn toàn đồng tình với Kiều vì: tình thì ngay nhưng lý thì gian. Dẫu rằng, Huỳnh Thúc Kháng có hoàn cảnh lịch sử cụ thể mới bày tỏ thái độ như vậy, song những nhận định này đã ảnh hưởng lớn tới giới trí thức lúc đó trong việc đánh giá Truyện Kiều cũng như hiểu đúng về Thúy Kiều. Cũng là một trí thức Nho học từng đỗ đạt, từng làm quan thế kỉ XIX nhưng Chu Mạnh Trinh lại hết lời ca ngợi Kiều: Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu/Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng (Tổng vịnh Kiều). Các nhà nghiên cứu, phê bình hiện đại thế kỉ XX hầu hết đều bày tỏ sự cảm thông, trân trọng dành cho tài, sắc và đặc biệt là tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều. Như vậy, trong khoảng hơn hai trăm năm kể từ khi tác phẩm ra đời, Truyện Kiều vẫn luôn nhận được sự quan tâm, đánh giá và có những ý kiến phản biện sâu sắc về tác phẩm. Trong quy luật phát triển của văn học, thời gian như một thứ lửa thử vàng khắc nghiệt nhất – mà kinh qua thứ lửa ấy, tác phẩm nào thật sự có giá trị sẽ trường tồn, ngược lại sẽ tiêu biến như tro bụi trong lãng quên. Cái sức nóng hủy diệt của ngọn lửa thời gian chính là thái độ, ý kiến đánh giá của độc giả các thế hệ – trong đó sự phản biện liên tục của độc giả nhiều thế hệ đã xác lập các giá trị đích thực của văn chương.

Đối với bài văn nghị luận xã hội, tư duy phản biện vừa là cách thức tư duy, vừa là cách sàng lọc, tự vệ về tư tưởng của người cầm bút trước các vấn đề xã hội. Sở dĩ nói như vậy là bởi, tư duy phản biện đòi hỏi người viết phải trải qua quá trình phân tích, chứng minh, kiểm chứng, tổng hợp… một cách khoa học, logic từ đó đi đến kết luận, phán đoán. Kết quả của quá trình tư duy đó có thể đi ngược lại với quan điểm của số đông, thậm chí đi ngược lại với những chuẩn mực của một vài thời đại, giai đoạn nhất định về các vấn đề xã hội. Nếu người viết đủ bản lĩnh, tự tin và kiến thức để bảo vệ quan niệm, niềm tin của mình thì đã tạo ra cả một sự đổi thay về tư duy, nhận thức cộng đồng. Nếu người viết không thể thuyết phục được người đọc, người nghe thì cũng nhận ra điểm phản biện chưa thỏa đáng của mình. Từ đó, tư duy phản biện giúp ta vượt qua niềm tin cũ (khi nó lạc hậu, lỗi thời) và xác lập niềm tin mới cho đúng đắn, hoàn thiện nhận thức của bản thân.

Trong bài văn nghị luận xã hội, vấn đề đặt ra có thể không mới, nhưng đặt dưới các góc nhìn khác nhau, nhất là trong một thời đại bùng nổ thông tin, khi học sinh được tiếp cận với nhiều nguồn tin, nhận thức sớm phát triển, thì những bài viết có tính phản biện vẫn có thể đem đến một kiến giải mới. Đó là lí do vì sao, nhiều khi bài làm của các em còn sáng tạo hơn đáp án.

Đề văn: Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy trình bày suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình trong xã hội.

Trong phần bình luận nguyên nhân nạn bạo hành gia đình, một học sinh đã viết: Gia đình chính là mảnh đất đầu tiên nuôi nấng tâm hồn con người. Mảnh đất ấy màu mỡ thì cây tâm hồn tốt tươi, hoa trái ngọt lành, đất mà cằn cỗi, cây tâm hồn dễ héo hon, khẳng khiu. Nhân vật Phác trong truyện khiến tôi vô cùng ám ảnh bởi cậu bé đã dám cướp dây da quật lại cha để bảo vệ mẹ, thậm chí còn giấu sẵn con dao trong người để đe dọa (hay còn hơn thế?) người cha ruột. Rõ ràng cách giải quyết của cậu bé lại đi vào cái vòng luẩn quẩn: dùng bạo lực để giải quyết bạo lực! Và đau đớn hơn, bạo lực này là một đứa con hướng vào người cha đã và đang vất vả mưu sinh chèo chống nuôi gia đình. Người cha đáng trách đã để lại một tấm gương vô cùng xấu xí in hằn vào tâm thức đến hành động của đứa trẻ. Còn người mẹ nhân hậu, tội nghiệp ấy thì sao? Tôi cảm thương, xót xa cho số phận của người đàn bà hàng chài nhưng lại không hoàn toàn đồng tình với cách hành động của chị. Chị thương con, muốn bảo vệ tâm hồn con mà gửi nó lên ở với ông ngoại, tránh để thằng bé thấy cảnh bạo hành trong gia đình. Nhưng nhân danh tình thương chị đã che giấu những éo le của gia đình và những nỗi niềm của một người vợ, người mẹ – mà một thành viên trong gia đình như Phác có quyền được biết, được hiểu. Lâu nay, cha mẹ Việt Nam thường thương con, muốn bao bọc con mà quên mất rằng tôn trọng con, chia sẻ cùng con cũng là một cách dạy con sống có trách nhiệm, bản lĩnh. Phác đã có ý thức bảo vệ mẹ, đã biết san sẽ nỗi đau khi muốn đưa tay lau đi những giọt nước mắt của mẹ, vậy thì em càng có quyền hiểu những áp lực, căng thẳng của cha khi là trụ cột trên con thuyền nhỏ phải mưu sinh trước muôn trùng bão tố, hiểu được tấm lòng tự nguyện hi sinh của người mẹ. Tôi tin rằng hiểu được điều này, Phác sẽ hành động khác đi, chứ không dùng bạo lực như một giải pháp duy nhất.

(Trích bài làm của học sinh)

Một bài văn nghị luận xã hội có tư duy phản biện đòi hỏi độ sắc của lập luận, độ sâu của luận điểm và độ rộng của luận chứng. Tất cả những điều đó đòi hỏi người viết không chỉ phải tư duy thực sự, tư duy độc lập mà còn có vốn sống phong phú làm chất liệu cho tư duy, có tâm hồn và tình cảm sâu sắc, với góc nhìn độc đáo so với truyền thống. Chất văn của bài nghị luận xã hội được tạo nên từ nhiều yếu tố mà một trong những yếu tố đó chính là chất trí tuệ và tâm hồn của người viết. Đây cũng chính là một yếu tố mà học sinh chuyên văn cần phải đáp ứng được để tạo nên chất riêng.

  1. Cơ sở thực tiễn

2.1. Thực trạng dạy

  1. Thuận lợi

          Rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh không phải là chuyện dễ dàng, nhưng giáo viên chuyên văn có nhiều thuận lợi trong quá trình này bởi:

          Đa phần đội ngũ giáo viên dạy chuyên đều là những thầy cô nhiệt huyết, có nhiều kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi, trình độ chuyên môn cao, luôn có ý thức trau đồi, học hỏi kinh nghiệm và kiến thức mới.

Đội ngũ giáo viên chuyên khu vực đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ có cơ hội tham gia các hội thảo khoa học nâng cao chuyên môn; được cọ xát qua các kì thi chọn học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi khu vực, học sinh giỏi quốc gia.

Bên cạnh đó, giáo viên chuyên Văn còn tiếp cận khoa học kĩ thuật mới nhanh, kịp thời bổ sung liên tục các thông tin xã hội, tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gian tiếp với những vấn đề xã hội bằng nhiều góc nhìn. Từ đó, họ đánh giá các vấn đề xã hội một cách nghiêm túc, sâu sắc và có độ chính xác rất cao.

Mỗi giáo viên chuyên luôn có ý thức rèn luyện tư duy phản biện cho chính mình và xây dựng thói quen tư duy phản biện cho học sinh để vừa tạo ra những giờ học lí thú, bổ ích, vừa phát triển toàn diện năng lực tư duy, nhận thức của học sinh.

Hình thức thi học sinh giỏi quốc gia, bên cạnh việc kiểm tra kiến thức còn đánh giá được khá tốt năng lực tư duy của học sinh do lối ra để mở, sáng tạo.

  1. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, đội ngũ giáo viên chuyên Văn cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình rèn kĩ năng tư duy cho học sinh chuyên Văn bởi những vấn đề sau:

Lối học thụ động truyền thống đã ăn sâu vào cách dạy học ở các nhà trường THPT dù chuyên hay không chuyên bởi môi trường học ở Việt Nam còn nặng về áp đặt kiến thức. Biểu hiện là giáo viên vẫn truyền thụ kiến thức một chiều, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết giảng, các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, khăn trải bàn,… mới chỉ mang tính hình thức. Tương tác giữa giáo viên và học sinh trong giờ học tương đối ít, hầu như vẫn là hình thức thầy tác động một chiều đến trò là chủ yếu.

Kiến thức văn học trong chương trình khá nặng, thậm chí với chương trình chuyên của ban xã hội – các em còn phải làm quen với những kiến thức có tính hàn lâm, và do sự giới hạn của khung thời gian (một tiết học 45 phút) thì khả năng phản biện của học sinh bị hạn chế rất nhiều.

Phương thức kiểm tra đánh giá của Việt Nam vẫn nặng về tái hiện kiến thức, khía cạnh thể hiện năng lực – đặc biệt là năng lực tư duy đã được chú ý nhưng chưa cao. Hình thức thi này được áp dụng cho nhiều thì ki quan trọng như thi học kì, thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi khu vực… Vì vậy, nhiều học sinh thi quốc gia dễ bị hẫng khi quay trở lại làm bài thi THPT quốc gia.

2.2. Thực trạng học

  1. Thuận lợi

Học sinh chuyên Văn đều có nhận thức tốt. Để là thành viên của các lớp chuyên, hầu hết các em đều phải trải qua kì thi tuyển chọn vào lớp 10. Những học sinh đã qua chọn lọc đều thể hiện được kiến thức tốt và năng lực tư duy nhanh nhạy. Không những thế, môi trường học chuyên vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện  để các em trau đồi kiền thức và rèn giũa năng lực tư duy.

Là những học sinh chuyên ở độ tuổi từ 14 đến 18, 19, các em cũng năng động, sáng tạo, dễ dàng tiếp thu và thích nghi với cái mới đặc biệt là những đổi thay trong phương pháp dạy học. Các em cũng có điều kiện tiếp cận kiến thức, quan niệm mới.

Liên tục trải qua những kì thi tuyển chọn học sinh giỏi, các em càng có điều kiện tích lũy kinh nghiệm học tập và tư duy.

Người học văn vốn nhạy cảm và cũng rất sắc sảo, có những bạn thể hiện cá tính rất rõ rệt. Tất cả đều in dấu trong khả năng tư duy và cái tôi của người viết.

Tóm lại, những điều đó chính là một thuận lợi cho việc hình thành và rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh chuyên Văn trong bài văn nghị luận xã hội. Nếu khai thác được những lời thế đó, người thầy không chỉ giúp các em thể hiện mình qua những áng văn nghị luận độc đáo mà con giúp các em hoàn thiện nhân cách, trí tuệ trong quá trình dạy – học văn, là hành trang cho các em bước vào đời một cách tự tin, bản lĩnh.

  1. Khó khăn

          Bên cạnh những thuận lợi, thực tế cũng tồn tại không ít khó khăn trong quá trình mài sắc tư duy phản biện cho học sinh chuyên Văn. Chẳng hạn như lối học thụ động, tiếp nhận kiến thức một chiều từ các cấp học dưới đã ăn sâu, thành thói quen trong học tập của nhiều em, khiến học sinh lười, ngại tư duy, động não thực sự. Chính vì thế, trước nhiều vấn đề mới hay phức tạp, các em chưa chủ động đặt và tự giải quyết vấn đề.

Nhiều học sinh tư duy phản biện khá tốt nhưng còn e dè, chưa mạnh dạn thể hiện do còn thiếu tự tin. Cũng có học sinh, tư duy phản biện trước các vấn đề xã hội rất chính xác nhưng lại thể hiện trong bài làm thiếu thuyết phục. Đó là do tính cách rụt rè hoặc kĩ năng phản biện của các em còn chưa tốt.

Học sinh chuyên Văn thường học lệch, kiến thức khoa học tự nhiên nhiều bạn chưa thực sự tốt. Nhưng để có tư duy phản biện thì một yêu cầu tối quan trọng là phải có kiến thức sâu và rộng. Trên cơ sở đó, các em mới dễ dàng phát hiện vấn đề và có nhu cầu cũng như khả năng tự giải quyết vấn đề.

Với chuyên đề này, chúng tôi mong muốn đóng góp một số giải pháp đã tích lũy được trong thực tế dạy học để tận dụng những thuận lợi trong quá trình dạy – học cũng như khắc phục những tồn tại để giúp các em phát triển năng lực tư duy nói chung và đặc biệt là tư duy phản biện nói riêng.

  1. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy – học văn nghị luận xã hội cho học sinh chuyên Văn
  2. Đối với giáo viên và hoạt động dạy

Để học sinh hình thành và có tư duy phản biện tốt là điều rất khó khăn bởi nó đòi hỏi một môi trường giáo dục toàn diện và sâu rộng từ gia đình – nhà trường – xã hội. Cha mẹ chính là người thầy đầu tiên hình thành tri thức, nhân cách và tư duy cho con trẻ. Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến lối sống, nếp tư duy của học sinh. Tuy nhiên, trong chuyên đề này, chúng tôi chỉ đề cập đến hai đối tượng chính là giáo và học sinh – mà trung tâm là học sinh. Hơn thế, giáo viên ở đây chỉ giới hạn ở bộ môn Ngữ văn mà chưa phải giáo viên ở tất cả các bộ môn. Bởi vậy hạn chế là không tránh khỏi.

1.1. Sử dụng phương pháp, kĩ thuật  dạy học linh hoạt

Một trong những yêu cầu cơ bản của đổi cải cách giáo dục ở Việt Nam giai đoạn đương thời đó là đổi mới phương pháp dạy học. Hướng đổi mới ở đây là đặt người học vào vị trí trung tâm, kích thích hứng thú, sự say mê tìm tòi và chủ động khám phá tri thức của người học. Các phương pháp, kĩ thuật đổi mới vô cùng phong phú, dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới có tác dụng tích cực trong việc kích thích tư duy phản biện cho học sinh.

  1. Phương pháp dạy học

* Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:

Về bản chất, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học đặt ra trước học sinh các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề. Phương pháp này hoàn toàn có thể áp dụng trong quá trình giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, lập dàn ý cho các đề nghị luận xã hội. Lợi thế của phương pháp này là tăng tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu vấn đề và tự giải quyết vấn đề phát sinh trong học tập.

Trong một buổi luyện tập sau giờ đọc hiểu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, chúng tôi đã đặt vấn đề: “Vội vàng” có thể coi là tuyên ngôn sống của Xuân Diệu? Anh/chị có đồng tình với lối sống đó không? Kết quả thu được sau khi học sinh thảo luận và trình bày như sau:

Có hai nhóm hoàn toàn đồng tình Vội vàng chính là tuyên ngôn sống của Xuân Diệu (có lí giải).

Có hai nhóm không hoàn toàn đồng tình vì:

Một nhóm cho rằng Vội vàng chỉ đề cập đến khía cạnh tận hưởng, sống gấp, sống vội để tận hưởng, trong khi đọc thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng, tìm hiểu tính cách, con người ông thì Xuân Diệu còn đề cao lối sống tận hiến. Tận hưởng và tận hiến mới là tuyên ngôn sống đầy đủ của Xuân Diệu.

Một nhóm khác không đồng tình vì trong hoàn cảnh đất nước đau thương, mất tự do, các nhà thơ mới tìm cách trồn tránh hiện thực cũng là một biểu hiện của yêu nước, bất hợp tác, Xuân Diệu lại kêu gọi tận hưởng cuộc sống hiện tại, vì vậy, tuy có mặt tích cực nhất định nhưng cũng sẽ có mặt phù hợp với tình thế dân tộc.

Như vậy, khi nhìn từ góc độ hoàn cảnh xã hội, hoặc toàn bộ chiều dài sự nghiệp văn chương cũng như nhân cách, con người Xuân Diệu, học sinh đã có sự phản biện hợp lí.

* Phương pháp đóng vai:

Về bản chất, đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, làm thử một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc diễn không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.

Phương pháp đóng vai có thể sử dụng trong các tiết học luyện tập về thao tác lập luận trong bài văn nghị luận, lập dàn ý bài văn nghị luận… Trong quá trình giảng dạy thực tế, chúng tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy bài Thao tác lập luận bác bỏ (Ngữ văn 11). Trong phần luyện tập thao tác lập luận bác bỏ, chúng tôi yêu cầu hai nhóm học sinh đóng vai khác nhau: nhóm 1 đóng vai những chủ doanh nghiệp muốn khai thác dãy núi đá quê hương để sản xuất vật liệu xây dựng, nhóm 2 đóng vai những người dân địa phương muốn bác bỏ dự án này để bảo vệ môi trường. Kết quả giờ học diễn ra rất sôi nổi, học sinh thể hiện được quan điểm, góc nhìn và kĩ năng phản biện rất tốt.

* Phương pháp dạy học theo dự án:

Về bản chất, dạy học theo dự án là học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được.

Ưu điểm của phương pháp khi dạy văn nghị luận xã hội là thúc đẩy học sinh tìm hiểu thực tiễn cuộc sống khi giải quyết một vấn đề đặt ra trong đề nghị luận xã hội. Chúng tôi thường sử dụng phương pháp này khi dạy học bài các bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Dự án của chúng tôi là Học sinh trung học phổ thông Việt Nam đang sử dụng tiếng Việt như thế nào? Các nhóm học sinh đã tiến hành khảo sát, sưu tập, phỏng vấn từ đó tổng hợp kết quả, các em chỉ ra hiện tượng, nguyên nhân, giải pháp và rút ra bài học rất xác đáng. Từ những dự án đơn giản, chúng tôi dần mở rộng những dự án phức tạp hơnPhương pháp này không chỉ làm cho học sinh chú tâm hơn đến thực tế đời sống mà còn giúp các em có những trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc hơn đến thế giới xung quanh, nâng cao hiểu biết cũng là nâng cao khả năng tư duy phản biện.

Trên đây chỉ là một số phương pháp dạy học tích cực có thể làm tăng tư duy cũng như kĩ năng phản biện cho học sinh. Trên thực tế, còn có một số phương pháp khác như: dạy học theo nhóm, trò chơi… nhưng trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới thiệu những phương pháp chúng tôi đã áp dụng và có hiệu quả nhất để kích thích tư duy phản biện ở học sinh.

  1. Kĩ thuật dạy học

* Kĩ thuật giao nhiệm vụ:

Kĩ thuật giao nhiệm vụ thường sử dụng trong các phương pháp dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án… để tăng hiệu quả của những phương pháp dạy học này.

Khi dạy học nghị luận xã hội, nhất là khâu phân tích, lập dàn ý cho bài văn, chúng tôi thường sử dụng phương pháp này sau khi đã lập dàn ý chung. Mỗi nhóm sẽ phụ trách nhiệm vụ ứng với các luận điểm lớn, nhỏ trong bài.

* Kĩ thuật khăn trải bàn:

Kĩ thuật khăn trải bàn cũng được áp dụng trong các phương pháp dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án, dạy học tích hợp… Khi áp dụng kĩ thuật này, mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình về vấn đề giáo viên yêu cầu vào phần cạnh khăn trải bàn (giấy A0) của nhóm mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa khăn trải bàn.

Trong luyện tập làm văn nghị luận xã hội, chúng tôi đã cho học sinh lập dàn ý theo kĩ thuật khăn trải bàn đề văn sau:

Một con chuột rơi vào trong lu gạo, số gạo trong lu vẫn còn một nửa, sự cố ngoài ý muốn này khiến nó vui mừng không sao tả được.

Sau khi xác định là không có nguy hiểm gì, nó liền bắt đầu cuộc sống ăn rồi lại ngủ, ngủ rồi lại ăn trong cái lu gạo.

Rất mau, lu gạo sắp cạn kiệt, nhưng nó rốt cuộc vẫn không thoát khỏi sự cám dỗ của những hạt gạo, nên tiếp tục ở lại trong lu. Cuối cùng, gạo đã ăn hết, chuột ta mới phát hiện rằng mình không thể nhảy ra ngoài được nữa, lực bất tòng tâm.

(Theo tinhhoa.net)

Suy nghĩ của anh/ chị về bài học sâu sắc nhất từ câu chuyện trên.

Các thành viên trong mỗi nhóm đều viết bài học sâu sắc nhất của mình lên giấy.  Sau khi nhóm trưởng tổng hợp và báo cáo, các bài học rút ra như sau:

Cuộc đời đầy rẫy những cám dỗ, ngay cả khi tưởng như yên bình nhất, phải có bản lĩnh vượt qua những cám dỗ đó.

Mong muốn được hưởng thụ khiến con người ngừng cố gắng và tự giết chết chính mình.

Cơ hội luôn đến cùng thử thách: phải biết nắm bắt cơ hội và vượt qua thử thách.

Hoàn cảnh luôn thay đổi, nếu không nhận thức kịp sự thay đổi của hoàn cảnh, con người sẽ thất bại.

Trên cơ sở đó, các nhóm sẽ thảo luận lựa chọn bài học và bảo vệ quan điểm của mình.

* Kĩ thuật nói cách khác:

Kĩ thuật này thường được chúng tôi sử dụng vừa nhằm tăng khả năng diễn đạt cho học sinh, vừa buộc các em phải tư duy, nhìn nhận theo một góc độ khác cùng một vấn đề – đặc biệt là góc nhìn tích cực. Nhìn nhận theo một góc khác chính là một trong những bước quan trong để có tư duy phản biện.

Để minh họa cho kĩ thuật này, chúng tôi đã lấy cách nói của Thomas Edison làm dẫn chứng. Khi Edison thử nghiệm hơn mười nghìn lần vẫn chưa tìm ra vật liệu thích hợp làm dây tóc bóng đèn, có người đã chế giễu ông thất bại mười nghìn lần, nhà sáng chế lừng danh nước Mỹ đã trả lời: Tôi không thất bại. Tôi đã thành công tìm ra 10.000 vật liệu không phù hợp làm dây tóc bóng đèn...

Trên đây chỉ là một số kĩ thuật chúng tôi đã sử dụng để kích thích tư duy phản biện, thực tế, còn một số kĩ thuật khác cũng có thể phát triển tư duy phản biện như kĩ thuật bể cá, kĩ thuật mảnh ghép…

1.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi kích thích tư duy phản biện

Trong thực tế, câu hỏi là phương tiện đơn giản nhưng hữu hiệu nhất khuyến khích tư duy – đặc biệt là tư duy phản biện của học sinh. Giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau, tranh luận với giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:

Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.

Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe – nhìn.

Vấn đáp tìm tòi: giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.

Dưới đây là 10 câu hỏi thường được sử dụng nhất để kích thích tư duy phản biện theo tổng hợp của các chuyên gia tâm lí:

  1. Vấn đề chính là gì?
  2. Khái niệm chính là gì? Độ rõ ràng?
  3. Thông tin có khách quan không?
  4. Nguồn thông tin này có đáng tin cậy không?
  5. Đã có đủ thông tin chưa?
  6. Lập luận có logic không?
  7. Có ngụy biện không?
  8. Có góc nhìn nào khác không?
  9. Kết luận có dựa trên thông tin không?
  10. Có khách quan không? Có công bằng không?

Thực chất 10 câu hỏi trên đều liên quan chặt chẽ đến kết cấu bài văn nghị luận xã hội. Câu hỏi 1 chính là phần nêu vấn đề của mở bài. Các câu còn lại đều giải quyết những nhiệm vụ khác nhau của phần thân bài: câu hỏi 2 – giải thích vấn đề; câu hỏi 3, 4, 5 là phần chứng minh vấn đề qua các luận chứng, câu hỏi 6, 7 hướng vào tính mạch lạc, khoa học, logic, chính xác của lập luận, câu 8,9,10 thường được trả lời trong phần bình và luận của bài văn nghị luận. Như vậy xét đến cùng, mỗi học sinh khi làm một bài văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng đã khởi động tư duy phản biện trong đầu. Có điều sự phản biện ấy có hiệu quả hay không thì còn phụ thuộc vào hướng đi và câu trả lời cho mỗi câu hỏi đó.

Chúng ta cũng có thể tham khảo cách đặt câu hỏi của giáo viên Mỹ khi dạy văn qua chia sẻ của du học sinh Đỗ Nhật Nam: Trong quá trình dạy, mỗi câu hỏi của giáo viên cũng rất thú vị. Không cần thiên về việc ghi nhớ, các câu hỏi chủ yếu mong muốn học sinh trình bày quan điểm của mình về một vấn đề. Giáo viên nào cũng thường hỏi những câu gợi mở sự suy tưởng như: Điểm nào trong truyện theo em chưa hợp lý? Nếu được thay đổi thì em sẽ thay đổi như thế nào? Em thấy bố cục như vậy đã hay chưa? Em có cách nào khác không? [8,54] Điểm thú vị ở đây là Nam cho rằng câu hỏi của giáo viên không thiên về ghi nhớ nhưng thực chất câu hỏi của giáo viên đã buộc học sinh phải tự học, nắm chắc vấn đề từ trước và khi trả lời câu hỏi của giáo viên, học sinh phải suy ngẫm về thông tin chứ không dừng lại ở việc ghi nhớ thông tin. Qua câu trả lời của học sinh, giáo viên có thể đánh giá được mức độ suy nghĩ, mức độ hiểu bài cũng như khả năng tư duy của học sinh.

1.3. Tạo không khí dân chủ cho giờ học

Theo quan niệm của đạo Nho, trong ba mối quan hệ là rường cột của xã hội (tam cương): quân – sư – phụ, mối quan hệ thầy – trò có vị trí rất cao. Vị trí của người thầy (sư) chỉ đứng sau vua (quân), thậm chí còn hơn một bậc so với người cha (phụ). Truyền thống tôn sư trọng đạo là truyền thống đẹp của một dân tộc hiếu học nhưng đồng thời nó cũng tạo ra khoảng cách nhất định giữa thầy và trò trong xã hội phong kiến. Ngày nay, cùng với sự đổi thay của xã hội với các hệ tư tưởng mới, nhiều thang giá trị mới, người thầy vẫn đóng một vai trò quan trọng với sự phát triển của xã hội nhưng khoảng cách giữa thầy và trò đã thu hẹp dần. Mối quan hệ thầy trò dần trở nên gần gũi hơn ở các nước phương Đông trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tâm lí ngại phản bác thầy vẫn còn tồn tại ở trong giáo dục nước ta. Điều này xuất phát từ hai phía: thầy và trò. Ở chuyên đề này, trong phần này, chúng tôi chỉ đề cấp đến vai trò của người thầy trong việc tạo không khí dân chủ trong giờ học – tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy phản biện và dám bày tỏ một cách tự tin.

Thực tế trên thế giới, nếu Galileo không biết nghi ngờ và phản biện Kinh Thánh và thuyết Địa Tâm: Chúa lập địa cầu trên nền vững, không chuyển lay muôn thuở muôn đời; mặt trời mọc rồi lặn, mặt trời vội vã ngã xuống nơi nó đã mọc lên..., thì không có thuyết Nhật Tâm ra đời. Nếu Newton không hề nghi ngờ thuyết Nhật Tâm, không biết phản biện khi bị trái táo rơi trúng đầu mà chấp nhận nó như một điều hiển nhiên thì không có định luật vạn vật hấp dẫn ra đời… Và Einstein vì nghi ngờ thuyết cơ học cổ điển của Newton nên đã tìm cách phản biện để  rồi phát hiện ra thuyết tương đối… Bởi thế, mỗi người thầy hãy khuyến khích học sinh phản biện mình để trước hết các em tìm ra tri thức thực sự, tiếp đó là tạo thói quen tư duy phản biện và hoàn thiện sự tự tin, dám thể hiện, khao khát tìm tòi ở học sinh.

Với nghị luận xã hội, các em càng cần được khuyến khích nhìn bằng những góc nhìn khác nhau đều phát hiện vấn đề được trọn vẹn, sâu sắc. Thoát khỏi lối mòn tư duy, thoái khỏi tư tưởng đám đông để xây dựng dược chính kiến, quan điểm riêng là chuyện không dễ, nhưng một khi làm được điều này, bài viết của các em sẽ mang màu sắc độc đáo, cá tính riêng. Và với người cầm bút, tạo được dấu vân riêng đã là một thành công rồi.

Đỗ Nhật Nam chia sẻ không khí học dân chủ trong giờ văn ở Mĩ như sau: Trong quá trình học, có sự hỗ trợ của giáo viên. Học sinh có thể đặt bất cứ câu hỏi nào cho giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau. Sau mỗi chương sẽ có những giờ trao đổi chung của cả lớp. Khi ấy, cả lớp biến thành một “diễn đàn” và ai cũng được quyền nói lên ý kiến của mình về chương mà mình đọc. Thông thường, các ý kiến rất khác nhau, người đồng tình, người phản đối và giáo viên sẽ phải làm nhiệm vụ… lắng nghe. Không có đúng, sai, miễn là bạn phải tìm cách bảo vệ được quan điểm của mình. [8,55]

1.4. Kiểm tra đánh giá linh hoạt

  1. Đề kiểm tra

Để học sinh phát triển tư duy phản biện, trước hết, đề văn phải có khả năng kích thích tư duy phản biện. Vậy một đề văn như thế nào đáp ứng được yêu cầu đó?

Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới giáo dục vẫn có ý nghĩa nóng hổi và một trong những khâu quan trọng được yêu cầu đổi mới đó là kiểm tra đánh giá. Thay vì tập trung kiểm tra kiến thức theo kiểu tái hiện, những đề kiểm tra đánh giá hiện nay đã tập trung vào kiểm tra năng lực, kĩ năng của người học. Với môn ngữ văn, đó là hướng ra đề mở. Đề kiểm tra, đề thi theo hướng mở là đề văn không giới hạn bài làm trong một lối mòn tư duy và những khuôn mẫu chung về hình thức nhưng vẫn gợi mở giúp học sinh có định hướng về cách viết. Đề văn mở giảm thiểu tối đa tính hạn định, tạo khả năng cho học sinh tự do lựa chọn vấn đề và cách giải quyết vấn đề. Đề mở phải cho thấy sự sáng tạo, linh hoạt, những suy nghĩ, cảm thụ độc lập, không lệ thuộc vào các tài liệu tham khảo ở mỗi học sinh. Đề mở kích thích khả năng tư duy – trong đó có tư duy sáng tạo. Chẳng hạn với đề bài: Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: Có nên bước qua những giới hạn? –  đề bài không yêu cầu vận dụng cụ thể một thao tác lập luận nào cho phép học sinh lựa chọn, kết hợp các thao tác lập luận một cách linh hoạt, vấn đề đặt ra cho phép học sinh bày tỏ quan điểm đồng tình/ phản đối một cách thoải mái miễn là thuyết phục được người nghe. Trong những đề thi học sinh giỏi quốc gia, đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia, các dạng đề mở được sử dụng đã tạo điều kiện phân loại học sinh rõ nhất.

Đề nghị luận xã hội kì thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2016-2017:

          Ngày xưa, ở một xứ nọ, có một vị vua rất yêu đàn gia súc của mình. Khi phải chuyển chúng từ vườn thượng uyển ra nuôi ở ngoài đồi núi, ngài cần một người hoàn toàn tin cậy để trông nom. Cất công đi khắp nơi, cuối cùng, quan quân tìm được bác nông dân Masaro, người được coi là thật như đếm. Vua truyền cứ cuối tuần, bác phải vào cung bẩm báo trung thực về đàn gia súc. Mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Sự trung thực của Masaro làm nhà vua rất hài lòng và cũng khiến ngài nhận ra tư cách thấp kém của nhiều cận thần. Do đố kị, quan tể tướng đã dèm pha rằng trên đời làm gì có người thật thà như thế, và xúc xiểm: lần tới Masaro sẽ nói dối vua. Do tin tưởng Masaro, nhà vua đặt cược: nếu Masaro nói dối, sẽ bị chém đầu. Còn tể tướng cũng cược cả mạng sống của mình, nếu Masaro vẫn nói thật.

          Để giúp chồng thắng cược, vợ tể tướng đã cải trang thành một phụ nữ sang trọng, quyến rũ, tìm gặp Masaro ngỏ ý sẵn sàng đổi tất cả trang sức vàng ngọc cùng nụ hôn để lấy một con cừu, đồng thời bầy cho Masaro cách nói dối vua sao cho trót lọt. Nhưng Masarokiên quyết từ chối. Thất bại, bà ta bèn sắm vai một người mẹ đau khổ đang cần sữa bò để cứu con trai duy nhất khỏi trọng bệnh. Lần này, Masaro đã mủi lòng và tự ý cho đi con bò quý của vua. Đem được con bò về cung, vợ chồng tể tướng yên chí mình thắng cược.

          Biết đã phạm trọng tội, Masaro tìm cách nói dối. Nghĩ được cách nào, bác đều thử tập theo cho nhập vai. Cuối cùng, bác đã chọn được cách ứng ý nhất. Khi vào chầu, trước mặt đức vua và quần thần, Masaro đã kể lại sự thật. Bác nói rằng con bò ấy cần cho người đàn bà khổ hạnh hơn là cần cho nhà vua, và sẵn sàng chịu tội. Nghe xong, nhà vua khen ngợi Masaro là người không sợ quyền uy và muốn trọng thưởng cho bác. Thật bất ngờ, phần thưởng mà Masaro xin nhà vua lại chính là tha chết cho kẻ thua cược. Hơn thế, bác còn cảm ơn ông ta vì nhờ có tình thế này, bác mới biết chắc mình đích thị là MasaroThật – Như – Đếm.

(Phỏng theo Masaro Thật – Như – Đếm, truyện cổ tích Italia, bản dịch của Nguyễn Chí Được, Báo Văn nghệ, số 50/10 –12–2016)

Bài học cuộc sống mà anh/chị tâm đắc nhất từ câu chuyện trên?

Cách hỏi của đề khá mở, câu hỏi không ấn định cụ thể vấn đề cần nghị luận mà thí sinh phải đọc câu chuyện rồi tự lựa chọn bài học mình tâm đắc nhất để trình bày quan điểm của mình. Với câu chuyện được dẫn, rõ ràng, có hơn một bài học mà mỗi thí sinh có thể rút ra:

Bài học về đức tính ngay thẳng, trung thực của Masaro (đây là bài học rõ nhất, lớn nhất của câu chuyện);

Bài học về lòng tốt, vị tha, nhân hậu (Masaro sẵn lòng tự ý cho người mẹ khốn khổ con bò của vua vì con bà ta đang trọng bệnh dù biết chính mình có thể sẽ chết, Masaro xin tha chết cho tể tướng);

Bài học về nhân cách không màng danh lợi (dù được vợ tể tướng sẵn lòng đổi hết trang sức vàng ngọc cùng nụ hôn, Masaro cũng không đồng ý đổi bò), không sợ quyền uy (Masaro kể lại câu chuyện và sẵn lòng chịu tội)…

Tuy nhiên, đề bài yêu cầu thí sinh nghị luận về Bài học cuộc sống mà anh/chị tâm đắc nhất từ câu chuyện trên? nên thí sinh chỉ cần chọn một trong các bài học trên đây để trình bày suy nghĩ của mình, miễn là bài viết của các em hợp lí, có sức thuyết phục. Và để bài viết của mình có chất, thí sinh cần thể hiện được năng lực tư duy phản biện bằng cách đặt ra và trả lời câu hỏi lật lại vấn đề. Chẳng hạn, nếu tâm đắc  nhất với bài học về sự trung thực trong câu chuyện, các em có thể nêu và thể hiện quan điểm qua những câu hỏi như:

Ngay thẳng, trung thực là một đức tính, song có phải trong hoàn cảnh nào con người ta cũng nên trung thực hay không?

Trong thực tế, có phải sự ngay thẳng, trung thực nào cũng đưa con người ta đến kết thúc có hậu không?

Sự ngay thẳng, trung thực cần đi liền với những phẩm chất/ điều kiện gì thì mới giúp người ngay thẳng, trung thực không thiệt thòi (Ví dụ: lòng dũng cảm, sự thông minh, tỉnh táo, sự khôn khéo…)

Một yêu cầu nữa với đề văn có tính phản biện là phải có tính vấn đề. Con người chỉ bắt đầu tư duy khi muốn hiểu biết hoặc giải quyết vấn đề nào đó. Tính vấn đề có thể được tạo ra từ những mâu thuẫn trong những quan điểm, ý kiến, hoặc vấn đề nảy sinh mà con người không thể giải thích được hoặc hành động bằng những kiến thức cũ, phương thức cũ. Để giải quyết được vấn đề, con người cần thoát ra khỏi phạm vi hiểu biết cũ và người viết có cơ hội bộc lộ mình khi giải quyết vấn đề đặt ra ở đề bài.

Chẳng hạn với đề bài: Suy nghĩ của anh/chị về câu nói: Thử thách của cuộc đời không phải là dám chết mà là dám sống. Vấn đề đặt ra ở đây là dám sống và dám chết – điều gì là thử thách thực sự với con người. Theo quan điểm xưa nay, cái chết là đáng sợ bởi chết là tan biến vào hư vô, là hết – đó là điều đáng sợ nhất, thì quan điểm nêu trong đề văn lại cho rằng dám sống mới là điều khó khăn. Học sinh phải đưa ra được quan điểm đồng tình/bác bỏ trên cơ sở các lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.

  1. Đáp án, hướng dẫn chấm

Đáp án là phần giải đáp cho đề thi. Tuy nhiên, đề mở có thể có nhiều đáp án, người soạn đề, đáp án cần hết sức linh hoạt bởi văn chương chấp nhận nhiều quan điểm khác nhau miễn là đảm bảo quan điểm đạo đức, chính trị, văn hóa, mĩ tục…của dân tộc. Một đề văn mở nhưng đáp án chấm đóng thì đề văn đó chưa thực sự được coi là đề mở.

Một đáp án văn cũng có thể khuyến khích tư duy phản biện nếu chấp nhận nhiều cách giải quyết khác nhau. Nếu chỉ chấp nhận một cách giải quyết, một góc nhìn, người soạn đã vô tình áp đặt góc nhìn của mình cho học sinh và dần triệt tiêu tư duy phản biện.

Chẳng hạn với đề: Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: Có nên bước qua những giới hạn? Đáp án có thể chấp nhận quan điểm bước qua/không bước qua hay xem xét loại giới hạn để quyết định bước qua hay không – miễn là người viết có một kiến giải hợp lí, thuyết phục cho quan điểm của mình.

Hướng dẫn chấm cũng cần linh hoạt, không nên quy phổ điểm một cách chung chung hoặc đếm ý cho điểm, đặc biệt không cho điểm những ý sáng tạo nhưng không có trong đáp án. Việc chấm văn linh hoạt sẽ khuyến khích những ý tưởng phản biện mới là hoặc những cách thể hiện sáng tạo của học sinh trong bài văn nghị luận.

  1. Chấm điểm

Thông thường chấm điểm là sự đánh giá của giáo viên đối với bài làm của học sinh. Sự tương tác này không chỉ nhằm phân loại học sinh theo điểm số mà còn thể hiện thái độ của người viết với quan điểm và cách thể hiện quan điểm của giáo viên đối với bài làm của học sinh.

Bên cạnh một số cách chấm điểm truyền thống (giáo viên chấm cho học sinh), giáo viên có thể chữa đề, hướng dẫn chấm và để học sinh chấm chéo cho nhau. Học sinh được tham khảo bài bạn, vừa tự đánh giá lại chính mình. Trong quá trình chấm, các em đã nhận xét, bổ sung cho bạn và hoàn thiện cho chính mình.

Giáo viên cũng có thể giao cho học sinh tự chấm bài của mình sau khi đã chữa đề. Giáo viên có thể chấm trước và để học sinh so điểm với điểm giáo viên đã chấm. Sự khác biệt về điểm số sẽ khiến học sinh muốn phản biện cùng thầy cô để bảo vệ quan điểm của mình.

  1. Trả bài

Giáo viên trả bài để học sinh biết đánh giá của cô giáo, tự đánh giá một lần nữa sản phẩm của chính mình. Giáo viên nên để những bài làm có quan điểm, kiến giải mới mẻ, độc đáo để cả lớp tham khảo, học tập hoặc tranh biện. Có tranh biện, có phản biện mới tạo nên sự sáng tạo, đổi mới không ngừng trong tư duy của các em.

  1. Đối với học sinh và hoạt động học

          Tất cả những hoạt động dạy của giáo viên chỉ thực sự có ý nghĩa nếu như hoạt động học của học sinh đạt được kết quả tốt.

2.1. Hình thành nếp tư duy phản biện

  1. Đặt nghi vấn và giải quyết nghi vấn

Nghi vấn và khao khát giải đáp nghi vấn chính là cội nguồn của tiếp nhận tri thức. Học sinh phải luôn được đặt hoặc tự đặt vào tình huống nghi vấn, lựa chọn và giải quyết vấn đề. Ban đầu là việc đặt câu hỏi, những câu hỏi Tại sao? Có đáng tin cậy không? Có cách nhìn khác về vấn đề này không?… trước hết giúp học sinh có cái nhìn rộng hơn, khách quan hơn với vấn đề xã hội. Thói quen đặt câu hỏi sẽ làm nên thói quen luôn suy nghĩ. Ngược lại, người luôn suy nghĩ sẽ không ngừng đặt câu hỏi.

Để giải quyết nghi vấn, học sinh phải tích lũy, tìm kiếm tri thức, lựa chọn thông tin phù hợp để đi đến kết luận, kiến giải riêng. Khi câu trả lời còn chưa thỏa đáng người học còn tiếp tục tìm kiếm, đó là con đương đến với tri thức của cả nhân loại.

  1. Khách quan sự việc

Mỗi con người không tồn tại một cách độc lập, đơn lẻ, tách rời mà luôn gắn với một hoàn cảnh xã hội, bối cảnh thời gian, chịu sự chi phối hữu hình hoặc vô hình của một nền văn hóa, những hệ tư tưởng… Và tính cách, tình cảm của mỗi người cũng góp phần chi phối cái nhìn, cách đánh giá của họ trước các vấn đề – nhất là vấn đề xã hội. Loại bỏ cái tôi, không thành kiến là một nguyên tắc giúp học sinh có được cái nhìn khách quan đối với vấn đề sự việc. Nếu không loại bỏ thiên kiến chủ quan, người viết khó đồng cảm hoặc không thấy hết được những mặt khác của vấn đề.

Trước những vấn đề phức tạp ắt sẽ có nhiều ý kiến trái chiều. Người viết khi đánh giá vấn đề ắt phải đón nhận những ý kiến trái chiều đó. Nếu không biết bình tĩnh đón nhận những ý kiến khác biệt, người viết se rơi vào đánh giá một chiều, đơn giản.

  1. Phân tích, tổng hợp

Để nhìn nhận vấn đề sâu sắc, thấu đáo, người viết sẽ phải đặt vấn đề dưới nhiều khía cạnh, xem xét từ nhiều góc độ hay chia vấn đề thành nhiều mảng để phân tích.

Tuy nhiên, song hành cùng phân tích và thao tác tổng hợp, nếu chỉ phân tích mà không có cái nhìn tổng thể, khái quát thì cũng chưa thể thấy được sự đồng bộ, tính tổng thể của vấn đề. Vì vậy, nhìn nhận một cách tổng quát, toàn diện cũng là một yêu cầu để có tư duy phản biện.

  1. Đưa giải pháp thuyết phục

Có được kiến giải riêng là chưa đủ, yêu cầu quan trọng của tư duy phản biện là đưa giải pháp thuyết phục. Xét đến cùng, mục đích của văn nghị luận xã hội vẫn là bày tỏ qua điểm thuyết phục người đọc, người nghe. Người viết có tư duy phản biện nhưng cần có kĩ năng phản biện tốt thể hiện qua áng văn nghị luận có sức hấp dẫn.

2.2. Thực hành tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội

Có được nếp tư duy phản biện chưa thể đáp ứng được yêu cầu của một học sinh giỏi văn, thể hiện một cách thuyết phục tư duy phản biện trong bài văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng tạo nên sức hấp dẫn cho bài viết mới là đích hướng tới của chuyên đề. Dưới đây là một số biện pháp chúng tôi đã tổng hợp được trong quá trình giảng dạy.

  1. Sử dụng các thao tác lập luận để thể hiện tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội

Một đặc trưng của văn nghị luận là sử dụng các thao tác lập luận để thể hiện quan điểm, lập trường, thái độ của người viết về vấn đề cần nghị luận. Các thao tác lập luận được sử dụng trong bài nghị luận là: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ. Một bài văn nghị luận không chỉ sử dụng một mà thường sử dụng kết hợp các thao tác nghị luận để tăng tính thuyết phục và hấp dẫn cho bài viết. Và học sinh hoàn toàn có thể sử dụng các thao tác lập luận khi phản biện trong bài văn nghị luận xã hội.

Ví dụ: Sử dụng thao tác giải thích để phản biện:

Đây là cách giáo sư Trần Đình Hượu giải thích về cái đẹp trong ý thức của người Việt để làm cơ sở cho những quan điểm, đánh giá của ông về tính cách người Việt: Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.

(Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, Trần Đình Hượu, theo Ngữ văn 12, tập 2)

Ví dụ đề bài: Đi dọc đất nước với tâm nguyện tìm hiểu nguồn cội bằng trải nghiệm của chính mình, chàng trai Việt kiều Trần Hùng John có một nhận xét:
Phần nhiều người Việt Nam có tính cách thụ động, là những người đi theo chứ không phải người tiên phong. Nếu có ai đó đi trước và thử trước, tôi sẽ theo sau chứ không bao giờ là người dẫn đường. Áp lực xã hội khiến bạn phải đi theo con đường đã được vẽ sẵn.

(John đi tìm Hùng, Nxb Kim Đồng, 2013, tr.113)

Anh/chị có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy trao đổi với Trần Hùng John và bày tỏ quan điểm sống của chính mình.

(Đề thi tuyển sinh đại học năm 2013 – khối D)

Sử dụng thao tác lập luận phân tích để bài tỏ quan điểm về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng giới trẻ Việt Nam thụ động:

Quan điểm của anh John nói khá đúng về tính cách con người Việt Nam. Trong gia đình, cha mẹ luôn dành sự quan tâm, chăm sóc kĩ đến mức bao bọc khiến cho trẻ em Việt Nam đang yếu dần đi khả năng tự lập so với nhiều trẻ em trên thế giới. Còn trong môi trường giáo dục nhà trường, việc truyền đạt một chiều từ phía thầy cô khiến chúng ta ngày càng trở nên thụ động, học sinh không được và cũng không biết thể hiện tiếng nói của chính mình, có ít cơ hội tham gia các hoạt động ngoại khóa, không có điều kiện để thực hiện những ý tưởng của mình. Bản thân nhiều học sinh có tâm lí ngại khó, ngại khổ, lười suy nghĩ, lười vận động, có thói quen “ăn sẵn” từ gia đình đến nhà trường nên khi bước ra xã hội, nhiều bạn trẻ trở nên yếu và thiếu kĩ năng sống trầm trọng…Vậy làm sao giới trẻ chúng em có đủ tự tin để đi trên con đường mới mà không phải là con đường có sẵn và càng không dám mạo hiểm là người mở đường.

(Trích bài làm của học sinh)

Kết hợp thao tác lập luận chứng minh, so sánhbình luận để phản biện:

Tôi đã từng đọc được rằng: hãy là người đầu tiên hơn là người giỏi nhất, bởi “trên mặt đất vốn làm gì có đường”. Quả thực, sự tiên phong là một điều rất đáng khích lệ và ngưỡng mộ. Với nó, chúng ta mới có được sự phát triển, mở rộng nền văn minh nhân loại. Với nói, ta được cuốn mình trong vị ngọt của những trải nghiệm, kinh nghiệm cho dù vấp ngã, áp lực. Đã không ít người được tạc tên vào lịch sử nhân loại nhờ sự khai phá của họ ở lĩnh vực nào đó, chẳng hạn như Menden, người được tấn phong là cha đẻ của ngành di truyền học, Đac-uyn là cha đẻ của thuyết tiến hóa… Thế nhưng, chúng ta cần nhớ rằng, tiên phong phải hướng tới các giá trị Chân – Thiện – Mĩ, phải hướng tới sự tiến bộ của loài người. Không phải cứ là người khởi xướng thì sẽ được hoan nghênh, tôn vinh. Giờ đây, không ít những người trẻ “tiên phong” cho những lối sống trụy lạc, thiếu lành mạnh. Sự “tiên phong” ấy chắc chắn không thể nào khiến cho xã hội đi lên mà trái lại, sẽ bị giật lùi, tụt dốc và đương nhiên không đáng được hoan nghênh, ghi nhận.

Ngoài ra, có những người, thay vì dẫn đường, học lại chọn con đường “đi theo”. Cách sống này bị gọi bằng những cái tên khác có vẻ thiếu thiện cảm như “ăn theo”, “ăn hôi”. Phải chăng thật sự “đi theo” là xấu, là sai? Người Nhật phát triển xe máy Honda, sau đó sản xuất tại Hàn Quốc, Đài Loan. Người Hàn, người Đài học theo phát triển ngay thương hiệu Daelim, SYM. Người Nhật phát minh ra bột ngọt Ajinomoto, sau đó đem qua sản xuất ở Hàn, người Hàn bắt chước tự sản xuất bột ngọt Miwon, người Đài bắt chước làm bột ngọt Vedan. Khi hãng trà Lipton đặt nhà máy sản xuất ở Sri Lanka, người Sri Lanka đã tự mình xây dựng những thương hiệu trà Dilmah. Người Philippine học hãng KFC của Mĩ làm Jolibee, Hàn quốc học làm Lottreria…Tôi tự hỏi vì sao Việt Nam chưa có những thương hiệu đi theo gây được tiếng vang như thế? Còn nếu thí nghiệm thất bại, đó chính là bài học cho những nước khác không chạy vào vết xe đổ…Các bạn hãy nhớ, nhà phát minh thiên tài người Mĩ Thomas Eddison từng khẳng định: tôi thành công vì đứng trên vai những người khổng lồ!

 Đất nước của chúng ta còn nghèo, nhìn chung vị trí kinh tế so với thế giới còn thấp. Hãy tưởng tượng việc phần lớn người dân lao vào đầu tư tiền bạc, sức cốt làm ra cái mới, cái khác mà chưa rõ hiệu quả thế nào thì có lẽ vừa phí phạm vừa không hiệu quả…Thay vào đó, chúng ta đã và đang, sẽ tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật của những nước phát triển để thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thiện cơ sở hạ tầng, ổn định đời sống kinh tế – xã hội. Đúng vậy! Áp lực xã hội khiến bạn phải đi theo những con đường đã được vẽ sẵn nhưng đâu đó vẫn có những người nông dân vẫn sáng chế máy gặt, máy tẽ ngô…hay John đi tìm Hùng người Việt Kiều đi dọc đất nước để tìm hiểu cội nguồn, gây dựng quỹ nhân đạo chẳng phải là một sự dẫn đường hay sao?

Còn bản thân tôi, tôi luôn ngưỡng vọng sự “dẫn đường” nhưng tôi lựa chọn đi theo và là người đi theo xuất sắc nhất. Tôi biết mình sẽ không được trải nghiệm sự hi sinh, mất mát có giá trị cũng như vinh quang của những người tiên phong. Nhưng tôi thích cảm giác tìm tòi, khai phá ra những điều mới mẻ trên con đường mòn mà những người khác thản nhiên đi qua. Như thế, tôi tin là mình không bị gọi là “thụ động” và tôi cũng nghĩ rằng đây là một lối sống cần được trân trọng.

(Trích bài làm của học sinh)

Ví dụ: Sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để phản biện:

Bên cạch việc đồng tình với những khía cạnh tích cực của sự đồng cảm, tác giả Lã Nguyên (La Khắc Hòa) cũng có một sự phản biện sắc sảo khi chỉ mặt khác của đồng cảm: tôi tán thành quan điểm được thể hiện trong công trình “Phản đối đồng cảm” (“Against Empathy”) của Paul Bloom, Giáo sư tâm lí học và khoa học tri nhận Đại học Yale, Mĩ. Theo ông, “đồng cảm” (hay “thấu cảm” như các vị thích dùng chữ ấy để dịch chữ “empathy”) là tình cảm sơ đẳng của con người. Chưa nói gì tới tinh tinh, khỉ, vượn, ngay cả chó mèo cũng có sự “đồng cảm”. P. Bloom cho rằng, hiểu theo nghĩa truyền thống, “đồng cảm” có mặt “sáng”, nhưng cũng có mặt “tối”. Người ta dễ mủi lòng trước cái riêng, cái cụ thể và số phận cá nhân, nhưng lại thường dửng dưng trước cái chung, cái trừu tượng và số phận cộng đồng. Ta sẵn sàng mở hầu bao giúp mẹ góa, con côi, hay kẻ nghèo khó, cơ nhỡ ngồi bên đường mà ta nhìn thấy. Nhưng liệu mấy ai mủi lòng thực sự trước những số liệu thống kê ngày nào cũng thấy phơi ra trên mặt báo về tỉ lệ “cận nghèo”, “nghèo”, “dưới nghèo”, “tái nghèo” ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Yên Bái… Ta dễ đồng cảm với người thân, đồng tông, đồng tộc, đồng chủng. Nhưng ở đời, “khác máu tanh lòng”, sự cảm thông, trắc ẩn, bao dung khó đến được với người dưng, dị chủng, dị tộc. D. Trump thắng cử, trở thành Tổng thống chẳng phải vì khi tranh cử ông giương cao khẩu hiệu “thấu cảm” với những người Mĩ da trắng đó sao? Ông thề sẽ mang công ăn việc làm về cho người Mĩ, làm cho nước Mĩ vĩ đại. Ông thể hiện sự “thấu cảm” của mình với dân Mĩ bằng cách nào? Xây hàng rào dọc biên giới Mexico, rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, tuyên bố các nước trên thế giới muốn làm ăm với Mĩ thì phải trả tiền. Sự “thấu cảm” kiểu Trump đang mở đường cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan trên phạm vi toàn thế giới. Chỉ riêng nước Pháp không đi theo con đường ấy! Tổng thống Pháp thắng cử vì không giương khẩu hiệu “thấu cảm” như thế.

(“Thấu cảm”, tôi không phản đối nhưng mà…, Lã Nguyên

nguồn http://languyensp.wordpress.com)

Ví dụ: sử dụng thao tác lập luận bình luận để phản biện:

Đề bài: Ý kiến của anh/chị về nhận định: Mỗi con người sinh ra đều có sự bình đẳng, nếu có sự khác biệt là do học vấn

(Câu 1 – Đề thi chọn HSG Quốc gia năm 2013)

Sau phần thể hiện sự đồng tình với vấn đề được nêu, người viết phản biện lại quan điểm được nêu trong đề bài: Tuy nhiên, cũng có khi học vấn không phải là tiêu chí duy nhất làm nên sự khác biệt giữa người với người. Diện mạo, khí chất mỗi con người còn khác biệt bởi nhân cách, ý chí của họ. Có những người được ngưỡng mộ, trân trọng bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha với đồng loại dù học vấn của họ không cao. Có những người không được đến trường lớp học hành đầy đủ nhưng ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống của họ khiến cho ai cũng phải nể phục. Trong cuộc sống này có biết bao nhiêu việc tử tế vẫn được thực hiện mỗi ngày bởi những con người rất bình thường, giản dị giữa cuộc đời. Ngược lại, cũng có người dù học vấn cao, bằng cấp nhiều mà không có nhân cách tốt sẽ cũng không được cộng đồng coi trọng đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”… Nên học vấn có thể là một tiêu chí đánh giá con người nhưng không phải tất cả. Nếu sống cũng là “hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người” thì hãy cảm nhận bằng cả lí trí và con tim bạn nhé!

(Trích bài làm của học sinh)

  1. Sử dụng giọng điệu phù hợp để thể hiện tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn. [12,114] Sở dĩ ở đây chúng tôi đề cập đến giọng điệu bởi nó thể hiện rất rõ thái độ, đánh giá của người viết đối với vấn đề đang đề cập. Đặc biệt, thái độ khi phản biện đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục người đọc, người nghe đặt niềm tin vào quan điểm, kiến giải của mình. Dĩ nhiên, để tạo được giọng điệu riêng không phải điều dễ dàng với sức viết của học sinh cấp trung học phổ thông.

Việc tạo giọng điệu riêng trong bài văn nghị luận của học sinh nói chung và phần phản biện nói riêng còn gặp khó khăn bởi người đọc đặc biệt mà bài viết hướng tới – giáo viên/giám khảo – người luôn được mặc định ở vị trí đánh giá cao hơn người viết nên những giọng trào phúng, giễu nhại,… rất ít khi được sử dụng. Ở đậy, chúng tôi xin giới thiệu một số phần phản biện đã có được giọng điệu riêng làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài viết.

Ví dụ: Sau chỉ những biểu hiện sùng ngoại thái quá – nhất là sùng bái các nước phương Tây, Mĩ, Nhật, Do Thái – từ trong suy nghĩ đến hành động của nhiều người Việt đương thời mà kì thị các nước kém phát triển hơn, tác giả Đặng Hoàng Giang đã sử dụng giọng mỉa mai, châm biếm nhẹ nhàng để phản biện lại thái độ này:

Nhưng có lẽ “nước ngoài” cũng không phải là một miền đất hứa êm đềm, đầy mật ngọt trên mặt đất và tiếng chuông lục lạc vang trong không trung, như người ta vẫn hình dung? Và  cư dân của nó cũng là những người trần mắt thịt, cũng luẩn quẩn trong tham, sân, si, cũng vô minh và bối rối trong cuộc sống?

Ví dụ ư? Có ai biết là theo điều tra của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ năm qua thì một phần tư dân số Mỹ cho rằng mặt trời quay xung quanh trái đất. Có ai biết là trong năm 2013, 28% người Mỹ không đọc bất cứ một cuốn sách nào, và số lượng người Mỹ không đọc sách, theo The Atlantic, đã tăng gấp ba kể từ năm 1987. (…)

Vẫn nói chuyện về sách, có ai biết là doanh thu của thị trường sách cho người lớn ở Nhật tới từ truyện tranh. Trong hình dung lãng mạn của người Việt, người Nhật ngồi ở tàu điện ngầm chăm chú đọc “Khởi nghiệp” của Fukuzawa. Thực tế trần trụi là họ nghiền ngẫm manga, chỉ cần nhìn khách Nhật trong các quán sushi ở Hà Nội thì biết. Nhà văn Murakami tin rằng chỉ 5% dân số Nhật thực sự yêu quý sách.

Còn về người Do Thái, thật đáng tiếc là phải làm sứt mẻ huyền thoại “quốc gia khởi nghiệp”, nhưng Irasel đang có vấn đề lớn với cộng đồng quốc tế bởi những gì họ làm với người Palestine. Một cuộc điều tra ở BBC vào tháng Năm 2014 cho thấy Irasel, Bắc Triều Tiên, Pakistan và Iran là bốn nước có hình ảnh tệ nhất trong con mắt thế giới. Sự ác cảm tới từ cả hai phía. Năm 2010, 77 % người Irasel cho rằng bất kể họ làm gì thế giới cũng sẽ phê phán họ.

Nêu ra những chuyện bên trên không phải để chúng ta trở nên kiêu ngạo, cho rằng “họ cũng không hơn gì ta”, hay “người Việt được thế là tốt lắm rồi”, hay “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, thậm chí miệt thị “Tây ngố” như các du học sinh Đông Âu thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ trước vẫn làm trong khi ăn học ở nước họ. Khao khát học hỏi từ những văn hóa khác là một việc tốt và cần thiết. Nhưng thái độ tôn sùng nước ngoài của chúng ta hiện nay đang ẩn chứa nhiều vấn đề. Nó thực sự đang cản trở việc học hành của chúng ta, đóng mắt chúng ta lại, thay vì mở ra.

Sùng bái Mỹ, Nhật và Do Thái trước hết hàm ý ngầm một thái độ phân biệt chủng tộc và kỳ thị. “Anh từ châu Phi tới ư” chúng ta thầm nói với bản thân khi đứng trước một người da màu, nước các anh cũng nghèo, các anh cũng vứt rác ra đường và bấm còi inh ỏi? Vậy các anh không có gì để tôi học cả”. Thái độ này khiến chúng ta bỏ qua những kho báu của nhân loại. Thật đáng tiếc cho những ai vì nhìn thấy 500 triệu người Ấn Độ hiện vẫn thích ra ngoài đồng hơn là ngồi trong toa lét, mà cho rằng nền văn hóa Ấn Độ không có gì để dạy họ. Bao nhiêu người trong chúng ta biết rằng Lebanon, một đất nước mà ta không biết gì về nó, đã đóng góp cho thế giới nhà thơ thiên tài Khail Gibran, tác giả được đọc nhiều nhất trên thế giới chỉ sau Shakespeare, và tác phẩm “Nhà tiên tri” của ông cho chúng ta những suy ngẫm tuyệt vời về tình yêu, hôn nhân, niềm vui, và nỗi buồn, học và dạy học, tình bạn, khoái cảm, đau đớn, cái đẹp, tôn giáo và cái chết. (…)

Mỗi đất nước, dân tộc, văn hóa, thậm chí mỗi cá nhân là một vũ trụ phức tạp, chứ không phải những nhân vật của một vở kịch tuyên truyền thô thiển: người này giỏi, người kia kém, trắng đen rõ ràng và bất biến. Thách thức trong quá trình học hỏi là nhận biết được sự phức tạp, những bế tắc của một quốc gia, của một nền văn hóa, dù nó là Pháp hay Campuchia. Ngược lại, càng mù quáng, tôn sùng vô điều kiện một ai đó, một cái gì đó, thì lại càng dễ thất bại. Và khi vỡ mộng, người ta lại càng vội vã tuyên bố phải “thoát” nó ngay lập tức, để chạy tới tôn thờ một cái mới. Tâm thế đó là tâm thế của những kẻ mất tự do. [2,164]

Để phê phán thói thụ động của giới trẻ Việt Nam hiện nay, tác giả cuốn sách Tony Buổi sáng – Trên đường băng đã sử dụng giọng điệu hài hước dí dỏm như đang đối thoại để phản biện một quan niệm rất quen thuộc của người Việt khi giáo dục thế hệ trẻ:

Có bạn trẻ gửi thư nói chúng tôi cũng muốn khởi nghiệp, nhưng tiền đâu. Cho tôi mười tỷ đi, tôi sẽ làm xưởng, nhà máy. Hãy cho tôi cần câu, tôi sẽ đi câu cá.

Không biết tự bao giờ có cái khái niệm “hãy cho cần chứ không cho cá” rồi mọi người khen hay. Đối với thể loại làm biếng, ví dụ thử lấy cần câu cho mấy người ăn xin (mà còn lành lặn) thử coi. Nó sẽ đòi “cho mồi”, đưa mồi thì kêu “móc vô lưỡi giùm”, rồi “câu giùm luôn đi”. Cuối cùng cũng quay lại cái máng lợn nằm đó “lạy ông đi qua lạy bà đi lại”.

Cái mình cho phải là “tinh thần câu cá”. Khi có tinh thần, tự động nó sẽ bật dậy, chạy chặt tre trúc về làm cần, tự động mài sắt thành lưỡi, tự động hăm hở đi hết chỗ này, chỗ khác để tìm cá. [14,248]

Tuy nhiên, giọng điệu khi phản biện phải phù hợp với vấn đề, đối tượng người đọc. Nếu người viết sử dụng giọng điệu không phù hợp sẽ gây phản cảm, khó thuyết phục.

  1. Sử dụng các phương thức biểu đạt để phản biện trong bài văn nghị luận xã hội

Phương thức biểu đạt chính của bài nghị luận xã hội là nghị luận, nhưng để một bài văn có sức hấp dẫn, lôi cuốn, thuyết phục, người viết phải kết hợp với một số phương thức biểu đạt khác như: miêu tả, biểu cảm, tự sự, thuyết minh,… Khi phản biện, học sinh cũng cần vận dụng linh hoạt, phụ hợp để tăng tính xác tín và thu hút người đọc, người nghe.

Ví dụ: Truyền thống người Việt coi trọng việc đọc sách, nhưng trong xã hội lại có một bộ phận không nhỏ những người coi trọng đến mức sùng bái sách nhưng chưa hẳn đã đọc sách. Biểu hiện là khi thấy có người dùng sách để kê ghế ngồi, họ lên án một cách mạnh mẽ – thậm chí ngay lập tức kết luận những kẻ ngồi lên sách là vô văn hóa, vô học. Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang bộc lộ quan điểm Tôn thờ sách là mê tín dị đoan khá táo bạo, ngoài phương thức biểu đạt chính là nghị luận, ông còn sử dụng kết hợp phương thức biểu đạt biểu cảmthuyết minh để phản biện:

Sách đã trở thành một biểu tượng tín ngưỡng. Nó đã được chuyển hóa từ cái phàm tục (profane) để trở thành cái thiêng liêng (sacred)(…). Sách trở thành những vật thể được ngưỡng mộ, người ta đến với chúng một cách thành kính và tôn nghiêm, vừa gần gũi cá nhân, vừa nâng niu, long trọng. (…)Sách thiêng liêng với người Việt cũng như con bò đối với người Ấn Độ. (…)

Dù rằng bản thân là người thích đọc sách, tôi lấy làm rất tiếc phải cho rằng ở đây chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mê tín dị đoan.

Khi tôn sùng vô điều kiện hình hài của các cuốn sách, thờ phụng cái tập hợp bìa cứng, keo dán và giấy, bạn đã gạt nội dung của chúng sáng một bên, cũng giống như bạn chắp tay khấn vái trước bất cứ ngôi đền nào mà không biết nó được dựng lên để thờ ai. Thái độ này cũng giống như sự kính cẩn với các loại học vị, bằng cấp giáo sư, tiến sĩ, mà không cần biết là từ trường nào, ai cấp, thật giả lẫn lộn ra sao. Con chữ có thể tới từ Thánh hiền, mà cũng có thêt tới từ ma quỷ (…). Trong lịch sử loài người, đã vô số lần quyền lực cho đốt sách, nhưng có lẽ chưa bao giờ các nhà độc tài không thống trị thông qua sách.

Với tôi, mọi việc khá đơn giản. Nếu một cuốn sách có giá trị với tôi, vì nội dung của nó, hay vì nó là một kỷ niệm, tôi sẽ giữ nó. Nếu không, tôi sẽ nghĩ xem liệu nó có giúp ích hay đem lại niềm vui cho ai đó khác không. Nếu không nữa, thì cuốn đó được bán giấy vụn, để lót nồi, hoặc được xé ra nhóm lửa trại(…).

Theo một thống kê ở Anh, trong khoảng 86.000 đầu sách được xuất bản hằng năm, có tới 60.000 đầu sách chỉ bán được trung bình 18 cuốn. Mỗi năm các cửa hàng sách xé trang bìa rồi gửi trả lại các nhà xuất bản 77 triệu cuốn vì chúng không có người mua. Những cuốn sách này được biến thành bột giấy để sản xuất các cuốn sách mới. (…)

“Bất cứ ai đọc quá nhiều và sử dụng bộ óc của mình quá ít sẽ có thói quen lười nhác trong suy nghĩ”. Câu này là của Einstein, và nó đặc biệt đúng khi người ta đọc những thứ linh tinh. Ở Việt Nam, bán chạy nhất từ nhiều năm nay vẫn luôn là sách bói toán, tử vi và truyện ngôn tình rẻ tiền. Chúng là những liều thuốc ru ngủ làm người ta lười động não (…). Chưa kể, sách nhảm, từ điển rách tràn lan thực sự không xứng đáng với giá trị của các tờ giấy dùng để in chúng (…)

Chúng ta có thể âu yếm lướt tay vuốt các trang sách, nhắm mắt hít vào mùi thơm và lắng nghe tiếng sột soạt quen thuộc của chúng, nhưng việc đó không chứng tỏ chúng ta ưu tú, hay đẳng cấp, hay có văn hóa hơn những người không làm vậy. Chúng ta có thể học tập vị thiền sư nọ vào thời nhà Đường, người đã quẳng cái tượng Phật vào lửa để lấy hơi ấm, vì nó chỉ là gỗ, “tinh thần của Phật không nằm ở đó”. Sách cũng thế, để gối đầu giường hay kê ở dưới chân bàn không quan trọng, chúng chỉ là bột gỗ. [2,193,194]

Ví dụ: Để phản biện quan điểm của Diderot: Chỉ có những ước mơ và những ước mơ lớn lao mới nâng tâm hồn bạn lên tầm vĩ đại, Phạm Lữ Ân kết hợp phương thức biểu đạt chính là nghị luận với phương thức tự sự đã cho rằng, không phải ước mơ lớn lao mà chính cách thực hiện ước mơ mới khiến chúng ta trở nên tốt đẹp hơn:

Có một lần, cô cháu gái 12 tuổi thích vẽ vời của tôi thổ lộ rằng lớn lên, cô bé muốn làm thợ may. Khi ấy, tôi đùa: “Phải trở thành nhà thiết kế thời trang nổi tiếng chứ. Làm thợ may chán chết!”. Nhưng cô bé cương quyết: “Con không muốn là nhà thiết kế nổi tiếng. Con muốn là thợ may”. Chị họ tôi ngán ngẩm lắc đầu: “Giờ thì nói gì cũng được, chứ mai mốt lớn mà đòi làm thợ may là không được đâu nghe con”.

Nhưng tôi, nhìn đôi mắt trong veo kiên định của cháu và giật mình. Cơ sở nào để người ta xếp loại nghề nghiệp này tầm thường, còn nghề nghiệp kia là vinh quang? Vì số tiền kiếm được? Vì trình độ học thức mà nó đòi hỏi phải có? Hay vì danh tiếng? (…)

Mơ ước làm thợ may không ngăn cản ta học hỏi để may những bộ áo chuẩn mực như các hãng thời trang hạng nhất. Nếu bạn muốn hai thứ: thợ may và danh tiếng, hãy trở thành một thợ may xuất sắc, rồi danh tiếng sẽ đến sau đó.

Nhưng ước mơ của cháu tôi chỉ là thợ may thôi. Mơ ước làm thợ may, không có nghĩa chỉ mở một tiệm may nhỏ xíu nằm bên khu chợ nhỏ xíu ở một thị trấn nhỏ xíu nào đó. Nhưng nếu đó là tất cả những gì cô bé muốn, cắt và may những bộ áo đẹp cho người khác, thì có gì sai? Nếu đó là những gì bạn muốn, chứ không phải là những gì chán ngắt mà bạn buộc phải làm. (…)

Mỗi người đều phải leo lên những bậc thang đời mình. Có người ước mơ xa: đến đỉnh cao nhất. Có người ước mơ gần: một hai bậc, rồi sau đó, một hai bậc tiếp theo. Có người cứ lặng lẽ tiến bước theo mục tiêu của mình, gạt bỏ mọi thị phi. Có người đi chu du một vòng thiên hạ, nếm đủ đắng cay rồi mới chịu trở về với ước mơ ban đầu. Nhưng cũng có người lỡ bay quá xa và khôgn thể điều khiển đời mình được nữa, chỉ còn buông xuôi và tiếc nuối. Tôi nhận ra rằng, thực ra, ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi mình muốn.

Có lẽ chúng ta cần một cái nhìn khác. Rằng chẳng có ước mơ nào tầm thường. Và chúng ta học không phải để thoát khỏi nghề rẻ rúng này, để được làm nghề danh giá kia. Mà học để có thể làm điều mình yêu thích một cách tốt nhất và từ đó mang về cho bản thân thu nhập cao nhất có thể, một cách xứng đáng và tự hào.

Mỗi một người đều có vai trò trong cuộc đời này và đều đáng được ghi nhận. Đó là lý do để chúng ta không vì thèm khát vị thế cao sang này mà rẻ rúng công việc bình thường khác. [9,160]

Tóm lại, trên đây là một số biện pháp cho hoạt động dạy và học để làm tăng tư duy phản biện trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh chuyên văn. Đó chỉ là những biện pháp chúng tôi đã từng thử nghiệm và có hiệu quả nhất định. Mặc dù chúng tôi có phân chia biện pháp cho hoạt động dạy và học riêng nhưng thực chất chúng có mối quan hệ mật thiết. Hoạt động dạy tuy được chủ động tiến hành bởi giáo viên nhưng đối tượng hướng tới là học sinh. Và hoạt động này chỉ thực sự có hiệu quả khi học sinh tham gia tích cực. Bởi vậy, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, về thực chất, đối tượng trung tâm mà tất cả các biện pháp này hướng tới vẫn người học. Và sản phẩm cuối cùng chúng tôi hướng tới trước hết là những bài văn nghị luận xã hội có tính phản biện, thể hiện một tư duy sắc sảo, chín chắn, hơn thế, chúng tôi còn mong muốn: tư duy phản biện sẽ trở thành một công cụ đặc lực giúp các em chiếm lĩnh tri thức và là hành trang để các em tự tin bước vào đời.

 

III. Một số ví dụ minh họa (đề và gợi ý)

 

Đề 1: Bàn về sự thành đạt của con người, có ý kiến cho rằng: Thành đạt là do tài năng thiên bẩm. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Thành  đạt là do may mắn gặp thời.

Suy nghĩ của anh/chị về những ý kiến trên.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Thành đạt là do tài năng thiên bẩm: ý kiến này khẳng định vai trò của tài năng quyết định đến sự thành công của mỗi con người. Mặt khác, tài năng này không chỉ là tài năng của cá nhân do rèn luyện mà là tài năng do thiên bẩm, tài năng sẵn có.

Thành đạt là do may mắn gặp thời: ý kiến này khẳng định người thành đạt là người biết cách lựa chọn thời cơ phù hợp để thực hiện những công việc của mình, hoặc là người sinh ra vào thời điểm may mắn, thuận lợi trong công việc.

– Các ý kiến này khẳng định: Thành công đối với cuộc đời mỗi con người là do tác động của các nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân được hình thành từ ngoài bản thân chủ thể. Những ý kiến này đề cập đến những khía cạnh khác nhau để con người đi tới thành công. Tuy vậy, nguyên nhân chính phải là ở chính con người chủ thể: là thái độ của con người khi thực hiện các công việc; là sự kiên trì vượt qua những khó khăn, rào cản, những mất mát trong cuộc đời; là việc nắm bắt những cơ hội và phát huy được khả năng của mình…

  1. Bình luận

– Tài năng là điều quan trọng để mỗi người khẳng định mình trong xã hội. Không phải ai cũng có được tài năng hoặc cố gắng hết mình là có được tài năng, nhất là những tài năng thuộc về thiên bẩm, trời phú. Tài năng thường đem đến cho con người những cách giải quyết công việc nhanh chóng dễ dàng hơn. Tuy vậy tài năng do thiên bẩm mà không qua rèn luyện thì sẽ không được phát huy hết giá trị. (dẫn chứng)

– Thời cơ đóng vai trò quan trọng để mỗi người đi đến thành công. Những người gặp thời thường có những cơ hội, những may mắn thì sẽ dễ dàng để thực hiện công việc nào đó. Thời cơ may mắn, thuận lợi sẽ đưa con người đến những con đường hanh thông trong cuộc sống. Tuy nhiên, có cơ hội mà bản thân không biết nắm bắt thì cơ hội sẽ tuột qua và con người trở nên thụ động, không phát triển được bản thân. Bên cạnh việc nắm bắt cơ hội, con người còn cần phải tạo ra cơ hội. Nếu không tự tạo ra cơ hội cho mình thì cơ hội sẽ không bao giờ đến được với chúng ta. Mặt khác, có cơ hội tốt đẹp rồi, con người cần biết phát huy cơ hội đó để nó trở thành điều kiện để con người phát triển chứ không phải chỉ nắm bắt cơ hội mà không biết phát triển nó.

– Nguyên nhân chính để con người thành đạt: không chỉ nhờ học hành, tài năng hay cơ hội đem con người đến thành công mà quan trọng hơn là cách con người vượt qua chính mình, biết nỗ lực phát huy những yếu tố đó theo đúng nghĩa của nó thì con người mới có thể trở thành người thành đạt.

Ngoài ra, để đi tới thành công con người cần có những phẩm chất khác như: kiên trì, nhẫn nại vượt qua khó khăn, dũng cảm đón nhận thất bại, lòng tự tin vào khả năng của bản thân hoặc nhiều thái độ tích cực trong cuộc sống…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 2: Có ý kiến cho rằng: Chỉ khi nào bạn biết yêu thương, tôn trọng chính bản thân mình thì khi đó bạn mới thật sự biết yêu thương, quý trọng người khác một cách sâu sắc.

Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
  2. Giải thích

Chỉ khi nào bạn biết yêu thương, tôn trọng chính bản thân mình thì khi đó bạn mới thật sự biết yêu thương, quý trọng người khác một cách sâu sắc : khi bạn biết đề cao và quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của mình thì bạn mới biết đề cao và quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của người khác, có cái nhìn khách quan, thân thiện với người khác.

  1. Bình luận

– Chỉ khi bạn biết đề cao và quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của mình thì bạn mới biết đề cao và quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của người khác, có cái nhìn khách quan, thân thiện với người khác, không xúc xiểm, miệt thị cũng như không quá đề cao, nịnh bợ người khác.

– Khi bạn biết yêu thương, quý trọng chính mình cũng có nghĩa là bạn biết nhận ra những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân, bao dung với chính mình, tìm cách khắc phục cho mình. Khi ấy, bạn mới không quá khắc nghiệt đối với người khác lúc họ mắc lỗi lầm…

– Xét đến cùng bản chất của tình yêu thương là sự san sẻ, bao dung, độ lượng, hi sinh. Nhưng cái tôi cá nhân của mỗi con người đôi khi lớn tới mức người ta không còn biết đến ai ngoài chính mình. Mặt khác, lợi ích cá nhân của mỗi con người luôn là thiết thực, hấp dẫn vì thế người ta thường hay sống cho mình hơn là biết hi sinh cho người khác, nhất là khi bản thân đang gặp những khó khăn.

Cũng có ý kiến cho rằng: Hãy quên mình đi để yêu thương người khác sâu sắc hơn: Chỉ khi nào biết tôn trọng, yêu thương chính mình, ta mới có thể yêu thương, quý trọng người khác một cách thật sự sâu sắc…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 3: Pythagos từng nói: Im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan. Ai không biết im lặng là không biết nói. Còn Maritn Luther King lại phát biểu: Cuộc sống chúng ta bắt đầu chấm dứt ngay trong cái ngày mà chúng ta giữ im lặng trước những vấn đề hệ trọng.

Từ hai ý kiến trên anh/chị hãy luận bàn về vấn đề cần im lặng hay lên tiếng trong cách xử thế của con người trong cuộc sống

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
  2. Giải thích

– Im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan. Ai không biết im lặng là không biết nói: Câu nói đề cao giá trị của sự im lặng xem im lặng là cách xử thế khôn ngoan nhất của con người trong cuộc sống. Từ nền tảng của sự im lặng khôn ngoan đó, con người sẽ biết nên nói lúc nào và nói những gì.

– Cuộc sống chúng ta bắt đầu chấm dứt ngay trong  cái ngày mà chúng ta giữ im lặng trước những vấn đề hệ trọng. Ý kiến nói về tác hại của sự im lặng trước những vấn đề hệ trọng, từ đó muốn con người cần phải lên tiếng trước những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia, đời sống con người, liên quan đến cuộc sống gia đình, bản thân.

  1. Bình luận

* Từ câu nói của Pythagos, luận bàn về giá trị của sự im lặng:

Im lặng là không nên nói trong những lúc cần thiết vì lời nói đó có thể đem lại tai họa cho bản thân hoặc tổn hại đến người khác

Im lặng là một cách xử thế khôn ngoan vì: Im lặng để giữ bí mật cho quốc gia, cho công việc, cho một ai đó; để lắng nghe người khác, để học hỏi, để thể hiện sự tôn trọng; thể hiện sự điềm tĩnh, suy nghĩ chín chắn, nhận thức bản thân, cuộc sống trước khi nói hay hành động; để giữ hòa khí trong xung đột va chạm; là một cách thể hiện sự đồng tình hay phản đối trước một vấn đề nào đó; để đồng cảm, sẻ chia với những nỗi đau của người khác; để cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh mình, để di dưỡng tâm hồn…

– Cần hiểu và phân biệt im lặng khác với sự nhu nhược, vô tâm, thờ ơ, vì đó không phải là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan

* Từ câu nói của Martin Luther King luận bàn về giá trị của việc lên tiếng trước những vấn đề hệ trọng:

Lên tiếng là bày tỏ chính kiến của bản thân trước những vấn đề quan trọng của cuộc sống, là tiếng nói của chân lý, của lẽ phải, của tình yêu đối với con người và cuộc sống.

Lên tiếng trước những vấn đề hệ trọng là một cách sống đẹp vì: Lên tiếng để khẳng định giá trị, bản lĩnh, thể hiện sự chủ động tự tin của bản thân, bày tỏ nguyện vọng mơ ước của mình; để đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, cái bạo ngược chà đạp lên cuộc sống của con người; để bênh vực cho cái tốt, cái yếu bị chà đạp; để bày tỏ tình yêu thương, động viên, chia sẻ giúp đỡ người khác; để mang lại niềm vui, tiếng cười cho cuộc đời…

– Cần hiểu sự lên tiếng ấy xuất phát từ thiện ý tốt đẹp của bản thân, lên tiếng đúng nơi, đúng lúc, đúng chỗ, đúng thời điểm và lời nói phải đi kèm với hành động.

* Hai ý kiến không hề mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau để cùng mang đến cho ta bài học bổ ích về cách xử thế: khi nào im lặng là khôn ngoan; khi nào im lặng là hèn nhát. Khi nào lên tiếng là dũng cảm, khi nào lên tiếng là thiếu lịch sự

  1. Bài học nhận thức và hành động

Mỗi chúng ta cần nhận thức đúng hoàn cảnh, vị trí của mình, có lý trí sáng suốt, có tấm lòng nhân ái, có trái tim nhiệt huyết và dũng cảm để hiểu biết khi nào cần lên tiếng, khi nào cần im lặng.

 

Đề 4: May mắn, hạnh phúc con người gặp trong cuộc đời là những trái ngọt song rủi ro, bất hạnh chưa hẳn đã là những trái đắng.

Anh/Chị hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về ý kiến trên.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

– Từ ngữ, hình ảnh trái ngọt, trái đắng… ; cách diễn đạt … là những… chưa hẳn đã là những…

– Cả câu

  1. Bình luận

* Khẳng định ý kiến trên là đúng, vì:

+ May mắn, hạnh phúc con người gặp trong cuộc đời là rất nhiều, chẳng hạn như: sinh ra là một cơ thể lành lặn, khoẻ mạnh; hoàn cảnh gia đình rất đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần; trong học tập, công tác luôn gặp những cơ hội, điều kiện thuận lợi đưa tới những thành công, thắng lợi, đỗ đạt, thành đạt, thăng tiến; trong kinh doanh luôn gặp thời cơ buôn may bán đắt… đó là những trái ngọt. Nó mang đến cho con người niềm vui, sự sung túc, công thành danh toại

+ Rủi ro, bất hạnh con người gặp trong cuộc đời cũng là rất nhiều, chẳng hạn như: sinh ra đã là một cơ thể không lành lặn, yếu ớt; bệnh tật hiểm nghèo; hoàn cảnh gia đình rất khó khăn về vật chất, rất bi đát về tinh thần; trong học tập, công tác luôn không gặp cơ hội, điều kiện; trong kinh doanh luôn không gặp thời buôn thua bán lỗ… Nhưng đó chưa hẳn đã là những trái đắng khi con người có ý chí, nghị lực, niềm tin, không đầu hàng số phận, không cam tâm khuất phục hoàn cảnh. Vì trong cái rủi có cái may, trong bất hạnh lại tìm ra hạnh phúc, biến rủi thành may, biến nguy thành an, biến khó khăn thành thuận lợi, cái khó ló cái khôn

Trong thực tế, biết bao người có hoàn cảnh không may mắn, bất hạnh như: Những người khuyết tật; hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc trở, éo le; cha mẹ mất sớm; hoàn cảnh kinh tế cực kì khó khăn; những người mang trọng bệnh; không may gặp những thảm hoạ thiên tai, bão lũ, động đất, sóng thần, hoả hoạn… trong phút chốc trở thành trắng tay… Nhưng bằng ý chí, nghị lực, niềm tin, họ đã vươn lên, vượt lên số phận, hoàn cảnh để từng bước thành công. Con đường đi của họ không được trải thảm đỏ mà đầy gai nhọn, bàn chân có thể tứa máu nhưng đó lại chính là điều kiện thử thách và tôi rèn cho con người một kĩ năng sống, một bản lĩnh sống kiên cường.

+ Ngược lại, có những trường hợp:

– Khi vừa có được những trái ngọt đã sớm bằng lòng, tự ru ngủ, không tiếp tục cố gắng, phấn đấu thì những may mắn, hạnh phúc đó sẽ không bền, tất cả đều mỏng manh, dễ tan biến, chỉ như một giấc mơ.

– Thực tế cuộc sống cũng đã chứng minh, biết bao số phận có được cái gọi là vận may, là số đỏ nhưng không biết trân trọng, không ý thức được điều đó và không có ý thức nhân thêm may mắn, hạnh phúc nên đã dễ dàng sa ngã, chôn vùi cuộc đời, đánh mất tương lai bởi các tệ nạn xã hội hoặc lầm đường lạc lối đến nỗi phải tù tội, thậm chí phải trả giá bằng cả sinh mệnh… Vậy thì những may mắn, hạnh phúc có được đâu phải là những trái ngọt mà nó lại biến trở thành những trái đắng.

– Không may mắn, bất hạnh cộng với không có ý chí vươn lên, vượt khó, chỉ biết ngồi thở than, kêu khóc hoặc đầu hàng, cam chịu, đổ lỗi cho hoàn cảnh, hoặc trông chờ, ỷ lại vào sự cứu giúp của người khác… thì những rủi ro, bất hạnh đó đúng là những trái đắng. Nó sẽ nhấn chìm con người trong đau khổ, sẽ hất con người xuống vực thẳm của sự tuyệt vọng và không bao giờ có thể thoát lên được.

à May mắn, hạnh phúc hay rủi ro, bất hạnh đều chính là những liều thuốc thử đối với ý chí, nghị lực của con người.

* Bàn luận mở rộng:

+ May mắn, hạnh phúc hay bất hạnh, rủi ro thực sự còn tuỳ thuộc vào quan niệm, suy nghĩ của từng người.

+ Con người sinh ra không phải ai cũng may mắn, hạnh phúc, số phận mỗi người là khác nhau, không ai giống ai, may mắn, hạnh phúc hay bất hạnh, rủi ro thực sự là trái ngọt hay trái đắng tuỳ thuộc vào chính mỗi người.

+ Cuộc đời con người, như cha ông ta đã từng nói không ai nắm tay từ tối đến sáng. Không phải suốt đời may mắn, hạnh phúc hoặc suốt đời rủi ro, bất hạnh. Chẳng có gì là vĩnh cửu, trường tồn. Mọi sự đều có thể đổi thay, hoán vị. Bởi thế, trong cuộc sống con người hay gặp, hay nghe những chữ không ngờ. Không ai có thể biết trước được một cách chính xác ngày mai của mình rồi sẽ ra sao? Ngay cả sự sống và cái chết của con người cũng đều rất mong manh, không lường trước được.

+ Muốn những trái ngọt thực sự là trái ngọt không trở thành trái đắng và những trái đắng trở thành trái ngọt lại có độ bền vững, con người cần học tập, trau dồi kiến thức cũng như cần rèn luyện cho mình một kĩ năng sống, sống có bản lĩnh để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể ứng phó được, giải quyết được, thắng không kiêu, bại không nản, không bao giờ bằng lòng với những gì mình đã đạt được, luôn luôn có ý thức phấn đấu, vươn lên, vượt lên mọi thử thách.

+ Con người muốn làm được những điều đó, ngoài sự nỗ lực của bản thân, cần có sự giúp đỡ, sẻ chia của gia đình và xã hội… Trong thực tế, có rất nhiều hoạt động, tổ chức nhằm giúp con người vượt qua thử thách, vượt lên chính mình, vượt qua những giới hạn của chính mình để vươn lên chiếm lĩnh, làm chủ cuộc sống.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 5: Quan niệm về kẻ mạnh, có ý kiến cho rằng: Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Lại có ý kiến khẳng định: Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.

(Theo Đời thừa, Nam Cao)

Suy nghĩ của anh/chị về những ý kiến trên.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Kẻ mạnh…

– Ý kiến 1: Cho rằng con người muốn có sức mạnh, trở thành kẻ mạnh thì phải độc ác, tàn nhẫn.

– Ý kiến 2: Có hai vế:

+ Vế 1 phủ nhận dứt khoát kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ, kẻ vì quyền lợi bản thân mà bất chấp thủ đoạn chà đạp lên người khác, có hành vi sai trái, gây thương tổn, thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể, kẻ đó không phải là kẻ mạnh.

+ Vế 2 khẳng định Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình yêu thương, giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng, khả năng, vì người, cho người, đó mới chính là kẻ mạnh, mới thực sự có sức mạnh.

  1. Bình luận

* Ý kiến 1:

– Khẳng định đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Bởi sự độc ác, tàn nhẫn không bao giờ mang lại cho con người sức mạnh. Ngược lại, những kẻ độc ác, tàn nhẫn (hiểu theo nghĩa rộng, trên mọi phương diện, lĩnh vực, phạm vi) trước sau sẽ bị công luận phát hiện, phanh phui, lên án, căm phẫn; bị mọi người tránh xa, không quan hệ, thậm chí cả người thân; bị pháp luật truy đuổi, trừng trị, do đó dần bị cô lập, cô độc, phải sống chui lủi, trốn chạy, băng đảng, bè phái tan rã… Vì vậy, không thể có sức mạnh và không sớm thì muộn cũng sẽ phải trả giá đắt bởi những hành vi độc ác, tàn nhẫn của mình.

– Thực tế lịch sử và cuộc sống xã hội trên toàn thế giới đã chứng minh.

* Ý kiến 2:

– Khẳng định đó là quan niệm hoàn toàn đúng. Vì: khi giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình sẽ được mọi người biết ơn, yêu quý, tin tưởng, ủng hộ, trung thành, quan hệ mở rộng, có nhiều bạn tốt, nhiều đối tác tin cậy, thu hút, tập hợp được đông đảo cá nhân, tập thể đồng lòng, đồng chí, dần tạo nên sức mạnh to lớn, có khả năng giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn; hoặc hợp tác trong làm ăn, kinh doanh, nhiều cơ hội được mở ra; hay nghiên cứu, sáng tạo, phát minh khoa học, khả năng thành công cao hơn… Và khi bản thân gặp hoạn nạn sẽ được người khác, thậm chí rất nhiều người báo đáp hoặc nhiệt tình chia sẻ, gánh vác.

– Thực tế lịch sử và cuộc sống xã hội trên toàn thế giới cũng đã chứng minh. Nhất là trong thời đại ngày nay, hội nhập và phát triển, đối thoại không đối đầu, thế giới có rất nhiều vấn đề chung, một cá nhân, một quốc gia không thể giải quyết được, cần tới sức mạnh của toàn cầu để ngôi nhà chung thế giới được bảo vệ tốt nhất. Đúng như tổng thống Nga V.Pu-tin từng khẳng định: Mạnh – không phải là bất chấp cộng đồng thế giới, không phải chống lại các nước mạnh khác mà là mạnh lên với họ.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 6: Hãy nhanh nhẹn khi nghe, từ từ khi nói và đừng vội nổi giận. (James)

Anh/chị suy nghĩ như thế nào về lời khuyên trên?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận                        
  2. Giải thích

Nhanh nhẹn khi nghe: khi nghe người khác nói cần phải thông minh, nhanh nhạy, nắm bắt thông tin…; từ từ khi nói: khi nói với người khác cần phải từ tốn, có sự suy nghĩ, cân nhắc… ; đừng vội nổi giận: trước một sự việc, tình huống, cần hết sức bình tĩnh, không nên có thái độ, hành động vội vàng, nóng nảy…

– Cả câu: là lời khuyên, bài học bổ ích về cách ứng xử giao tiếp trong cuộc sống.

  1. Bình luận

* Lời khuyên hoàn toàn đúng. Vì:

– Nếu biết ứng xử giao tiếp:

+ Thông minh, nhanh nhạy khi nghe: Sẽ nắm bắt, xử lí thông tin từ người nói một cách đầy đủ nhất, chính xác nhất, cả nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn, từ đó sẽ có những nhận định, cách đánh giá, cách thức hành động… đúng đắn, sẽ không mắc sai lầm, không phải ân hận, hối tiếc…

+ Từ tốn khi nói: Nghĩ kĩ, cân nhắc, lựa chọn cách nói, từ ngữ trước khi nói, đặc biệt là với những việc quan trọng, lời nói sẽ trôi chảy, khúc chiết, không lỡ lời, có sức thuyết phục người nghe, đạt hiệu quả giao tiếp…

+ Thái độ, hành động bình tĩnh: Giúp nhìn nhận và tìm cách giải quyết vấn đề tốt nhất, hợp lí, hợp tình, tránh được những tổn thất đáng tiếc về người, về của, nhất là về tình cảm…

à Một người nhanh nhẹn khi nghe, từ từ khi nói, không vội nổi giận là con người thông minh, tinh tế, chín chắn, già dặn, điềm đạm… rất đáng được mọi người yêu quí, tôn trọng, kính nể… và sẽ là người thành công trong cuộc sống.

– Nếu không biết ứng xử giao tiếp: thì ngược lại:

+ Chậm chạp khi nghe: Sẽ không thể nắm bắt được thông tin, lỡ mất cơ hội, mà thời bất tái lai, thậm chí,  không hiểu hết, hoặc hiểu sai ý của người nói dẫn đến hậu quả đau lòng, đáng tiếc…

+ Vội vàng khi nói: Sẽ không kiểm soát được lời nói của mình, thể hiện một con người bộp chộp, hấp tấp, nông cạn, hời hợt, khiến người nghe khó chịu, tự ái, hỏng việc…

+ Vội nổi giận: Thái độ, hành động nóng nảy, thiếu suy nghĩ, không làm chủ được bản thân, gây ra những hậu quả vô cùng đáng tiếc. Có những sự việc, tình huống, nếu bình tĩnh được thì sẽ là rất nhỏ, rất đơn giản, nhưng nếu không bình tĩnh suy xét thì sẽ trở thành lớn, chuyện bé xé ra to, chỉ vì một phút nông nổi, bồng bột, hành động, nói năng thiếu thận trọng nên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại tình cảm, tài sản, sức khoẻ, thậm chí tính mạng, cả giận mất khôn.

à Hậu quả của việc chậm chạp khi nghe, vội vàng khi nói và vội nổi giận là vô cùng đau lòng, đáng tiếc. Một người như vậy không thể thành công mà thường thất bại trong cuộc sống, nhiều khi làm cho người khác khó chịu, coi thường, khinh bỉ, căm ghét…

* Bàn luận mở rộng:

– Khẳng định lại lời khuyên trên rất chí lí, sâu sắc, là bài học về cách ứng xử giao tiếp đúng mực, thể hiện nếp sống có giáo dục, có văn hoá, đem lại thành công trong cuộc sống, không chỉ đúng với một người, một thời mà là với mọi người, mọi thời.

– Cuộc sống của con người là vô cùng phức tạp, nhiều mối quan hệ đan xen, chồng chéo, nhiều tình huống bất ngờ, may rủi khó lường,… tất cả đều tiềm ẩn, đều có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào… à đòi hỏi con người phải biết ứng xử, nếu không sẽ chuốc lấy những thất bại, đau khổ, đắng cay… Nhất là trong thời đại ngày nay, lời khuyên đó là cả một nghệ thuật sống, giúp con người đạt đến thành công…

– Thực tế cuộc sống hàng ngày xung quanh chúng ta, thậm chí bản thân chúng ta, cũng mắc rất nhiều những sai lầm trong ứng xử giao tiếp, đó là điều khó tránh. Song quan trọng là, sau mỗi sai lầm, mỗi người cần rút kinh nghiệm, tự sửa, hạn chế va vấp, tránh những mất mát không đáng có…

– Sự chín chắn, già dặn, điềm đạm, đúng mực của mỗi người không hoàn toàn phụ thuộc vào lứa tuổi, giới tính mà phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là khả năng học hỏi, rèn luyện của mỗi cá nhân. Muốn vậy, mỗi người cần không ngừng học tập, rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm sống, tự điều chỉnh bản thân sao cho phù hợp với môi trường, hoàn cảnh sống cụ thể của mình, mỗi khi phát ngôn, hành động, cần có sự cân nhắc, lựa chọn kĩ càng, đừng bao giờ chỉ nghĩ đến quyền lợi trước mắt của bản thân, cần phải có cái nhìn toàn cục, thấu đáo…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 7: Vị kỉvị tha là hai lối sống rất khác biệt của con người trong xã hội.

Bằng một bài nghị luận, anh/chị hãy bàn về hai lối sống đó

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Hai lối sống
  3. Lối sống vị kỉ

* Khái niệm: Lối sống vị kỉ là sống vì mình, chỉ biết đến lợi ích của mình (ích kỉ)

* Biểu hiện :

– Trong cuộc sống, bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào, môi trường nào cũng chỉ chăm chú vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, còn người khác, gia đình khác không quan tâm. Cuộc sống của những người xung quanh vui buồn, sướng khổ,… không biết chia sẻ, giúp đỡ, sống chết mặc bay,… thậm chí đối với cả người thân yêu ruột thịt…

– Khi thấy có lợi thì yêu cầu, đòi hỏi, nhưng khi thấy khó khăn, vất vả thì lảng ra, tảng lờ như không biết, phó mặc, hoặc tìm cớ thoái thác trách nhiệm…

– Không muốn ai hơn mình, luôn ghen ghét, đố kị, dùng đủ mọi thủ đoạn, tranh thủ mọi cơ hội để hại người… Khi người hơn mình tỏ ra hậm hực, tức tối, không chịu thừa nhận, tìm đủ mọi lí do để phủ nhận…

– Luôn cầu mong người thất bại, rủi ro và nếu chẳng may họ gặp hoạ thật thì hả hê, sung sướng…

– Cá nhân thậm chí là kết bè kết đảng, rủ rê, lôi kéo một số thành phần không ủng hộ, hơn thế chống đối, chống phá (ra mặt hoặc ngầm) những chủ trương, đường lối, chính sách dù là đúng của cấp trên.

– Không chịu chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình cho ai vì luôn sợ người ta rồi sẽ hơn mình, ngược lại chỉ muốn lấy của người.

– Không muốn cho, chỉ muốn nhận, nhận bao nhiêu cũng ít, còn cho dù chỉ là một chút cỏn con cũng nghĩ đã là nhiều. Chỉ muốn được không muốn mất, chỉ muốn thu không muốn chi, luôn tính toán thiệt hơn…

à Tất cả đều là biểu hiện của lối sống vị kỉ, ích kỉ, chỉ biết mình, vì mình.

  1. Lối sống vị tha

* Khái niệm: Lối sống vị tha là sống vì người khác

* Biểu hiện: Lối sống vị tha: ngược lại với lối sống vị kỉ.

  1. Bình luận

* Nếu sống theo lối vị kỉ:

– Sẽ dần bị mọi người nhận ra bản chất dẫn tới bị xa lánh, ghét bỏ, không ai muốn gần gũi, thậm chí cả những người thân (bởi tình cảm có hai chiều qua lại),… quan hệ tình cảm dần bị thu hẹp… thậm chí mất đi cả những cơ hội tốt…

– Khi có công có việc, hoặc gặp lúc khó khăn, hoạn nạn sẽ không ai sẵn lòng san sẻ, nâng đỡ…

à Như vậy tức là đã tự cô lập bản thân và gia đình, cuộc sống do đó sẽ trở nên cô đơn, mất đi nhiều ý nghĩa.

* Nếu biết sống vị tha: ngược lại với nếu sống theo lối vị kỉ.

* Cần dung hoà cả hai lối sống:

– Nếu chỉ vị kỉ: chỉ nghĩ đến bản thân, con người sẽ tự giam mình trong ốc đảo cô đơn, tự cô lập chính bản thân và chắc chắn cũng không thể thành công, hạnh phúc trong cuộc sống, cuộc sống sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa…

– Nếu chỉ vị tha: chỉ nghĩ cho người khác, vì người khác, bản thân sẽ phải chấp nhận rất nhiều thiệt thòi mà đáng lẽ ra mình không phải chịu, thậm chí sẽ hạn chế khả năng tiến bộ, chí tiến thủ, vươn lên trong cuộc sống…

– Phải biết phân biệt, lúc nào thì cần sống vị tha, lúc nào thì cần sống vị kỉ. Nghĩ cho mình, vì mình một chút, nếu đúng, đâu phải là xấu, là sai, mà trái lại, hoàn toàn là chính đáng. Con người cần biết cho song cũng cần phải biết nhận, biết cống hiến cũng cần phải biết hưởng thụ, hài hoà giữa trách nhiệm và quyền lợi, cái tôi và cái ta,… có như vậy cuộc sống mới thực sự có ý nghĩa. Hoàn toàn quên mất bản thân mình chưa chắc đã là tốt, chưa chắc đã được ca ngợi, bởi, nói như một ai đó: chỉ khi nào ta biết yêu thương, quí trọng chính bản thân mình thì khi đó ta mới thực sự biết yêu thương, qúi trọng người khác.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 8: Sự sáng tạo đòi hỏi phải có can đảm để buông tay khỏi những điều chắc chắn.

(Erich Fromm)

Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Sáng tạo: là tìm ra cái mới, cách làm mới mà không bị gò bó, phụ thuộc vào cái cũ, cái đã có…; can đảm: thể hiện bản lĩnh, sự quyết đoán trong tinh thần thái độ và hành động; buông tay: từ bỏ một cách dứt khoát, không đi theo những lối mòn, thậm chí là đi ngược lại hoàn toàn với những gì đã quen thuộc; những điều chắc chắn: là những cái đã có, đã biết, đã được thừa nhận, đã trở thành chân lý, thành thói quen, thành nếp nghĩ hằn sâu, khó thay đổi. Những điều đó có thể do bản thân tạo ra hoặc được thừa hưởng thành quả từ người khác.

– Cả câu: Ý kiến yêu cầu mỗi con người cần có dũng khí, bản lĩnh để từ bỏ những cái đã cũ, đã lỗi thời, đã quen thuộc, khám phá ra những điều mới lạ, có giá trị, mang lại thành quả tốt đẹp cho cuộc sống của cá nhân và xã hội.

  1. Bình luận

* Khẳng định ý kiến đúng vì:

– Cuộc sống luôn vận động đòi hỏi con người không ngừng thiết lập các giá trị mới, những quan hệ mới… Vì thế, mỗi chúng ta luôn phải nỗ lực tìm tòi, làm mới mình, thay đổi bản thân từ suy nghĩ cho đến hành động để theo kịp với sự phát triển của thời đại, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

– Sáng tạo bao giờ cũng là con đường nhiều gian nan, thử thách. Đi trên con đường này, con người phải có bản lĩnh vượt qua những tiền đề, những thuận lợi sẵn có để dấn thân vào thử thách, chấp nhận thất bại, có nghị lực để vượt qua khó khăn và cả sự cô đơn…

– Khi dám can đảm buông tay khỏi những điều chắc chắn để sáng tạo, chúng ta sẽ:

+ Có thể khám phá và tạo ra được giá trị mới về cả vật chất lẫn tinh thần.

+ Có cơ hội đến với những thành công, những bước ngoặt lớn lao có thể làm thay đổi nhận thức, hành động của mọi người, đem lại bước tiến nhảy vọt cho xã hội.

+ Khám phá và phát huy được những năng lực ẩn giấu trong bản thân mỗi người mà khi đi theo lối mòn, theo những gì đã cũ khó được thể hiện ra. Đó cũng là cách giúp chúng ta rèn luyện bản lĩnh, ý chí, nghị lực, sẵn sàng chấp nhận thất bại và đứng lên để bước tiếp. Sáng tạo sẽ phá vỡ sức ì của con người, khiến bản thân trở nên năng động, mạnh mẽ và giàu năng lượng sống hơn.

+ Sáng tạo thực sự đem đến cho mọi người một cuộc sống tốt đẹp, giàu ý nghĩa,…

– Khi mải miết đi theo vết chân của những người đi trước, không dám và không đủ dũng khí để sáng tạo:

+ Bản thân sẽ trở nên lười biếng, ỉ lại, tư duy sẽ cũ mòn, máy móc, thụ động, không thể tạo nên được những điều mới mẻ, ý nghĩa, khiến cho mục đích cuộc sống dù có đạt được cũng không rực rỡ, không có tiếng vang lớn.

+ Xã hội không có sáng tạo sẽ trở nên lạc hậu, không thể phát triển được.

* Bàn luận mở rộng:

– Khẳng định được ý nghĩa quan trọng của sáng tạo và bản lĩnh của con người cần có để sáng tạo

– Tuy nhiên, muốn sáng tạo, ngoài sự can đảm, chúng ta cần trang bị đầy đủ kiến thức, kĩ năng và sự trải nghiệm thực tế,… Đặc biệt là những người trẻ, cần dám nghĩ, dám làm, dám buông tay khỏi những điều chắc chắn để đột phá, sáng tạo…

– Sáng tạo không đồng nghĩa với sự liều lĩnh, bất chấp, không giống ai, sáng tạo cần dựa trên hành trang mà mỗi người có.

– Phê phán những người không sáng tạo, không có tư duy sáng tạo, không dám phá cách,…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 9: Suy nghĩ của anh/chị về câu nói: Người đi quá nhanh sẽ đến quá muộn.

(Publilius Syrus)

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Người đi quá nhanh: đi gấp, đi vội vàng và thường trong tâm trạng nôn nóng, mong muốn sớm đến được đích. Nhiều khi để đat được mục tiêu một cách nhanh chóng, người ta thường đốt cháy giai đoạn, không tuân theo quy luật, không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, thậm chí còn chọn sai đường đi, đi tắt, đi những con đường không chân chính; sẽ đến quá muộn: có nghĩa là chạm đến vạch đích của thành công chậm hơn so với dự kiến, hoặc không đạt được kết quả như mong muốn, thậm chí là thất bại hoàn toàn.

– Cả câu: Hai vế của nhận định có quan hệ nguyên nhân – kết quả. Publis Syrus muốn khẳng định: con người sẽ không thể đạt đến thành công trọn vẹn, hoặc có thể là thất bại nếu luôn nóng vội, mất bình tĩnh, nếu làm việc một cách cẩu thả, không dựa trên khả năng, phẩm chất của bản thân,…

  1. Bình luận

* Khẳng định ý kiến của Publilius Syrus là đúng đắn, vì:

– Nếu chúng ta đi quá nhanh:

+ Nóng vội sẽ dẫn đến chủ quan, không chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết về cả vật chất lẫn tinh thần. Và khi những vấn đề khó khăn, những bất trắc bất ngờ của cuộc sống xuất hiện, cản trở bước chân thì con người sẽ mất bình tĩnh, không thể giải quyết được vấn đề, không vượt qua được thử thách, thậm chí phải quay lại điểm xuất phát ban đầu. Nếu có thể đến được đích thì thời gian cũng sẽ muộn hơn nhiều so với dự định.

+ Đi quá nhanh còn được biểu hiện ở tham vọng muốn đạt được nhiều hơn những gì mà khả năng của con người có thể làm được trong khoảng thời gian đó. Thành công không bao giờ giới hạn con người nhưng chúng ta cũng cần xác định được năng lực có mình có thể thực hiện đến đâu, nếu không sẽ dễ dẫn đến thất bại, gây ra cú sốc lớn với con người.

+ Để đến với mục tiêu nhanh hơn, để rút ngắn thời gian, nhiều người lựa chọn những con đường tắt, đốt cháy giai đoạn nhưng những thành công đó không tuân theo quy luật tự nhiên, phá vỡ nền tảng, vì thế thường không vững chắc, mang tính tạm thời và có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào.

+ Cũng có người bất chấp cả lương tâm, lựa chọn những con đường lầm lạc, tội lỗi. Họ có thể đến đích nhưng sẽ không có vinh quang, và sau đó sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Đó không phải là thành công, mà thực chất là sự thất bại, thất bại ngay khi vừa mới bắt đầu. Và nếu muốn làm lại, họ cần một thời gian rất lâu sau. Đó chẳng phải là đi quá nhanh nhưng đến quá muộn hay sao?

– Bình tĩnh, chuẩn bị kĩ càng mọi điều kiện cần thiết, dựa vào khả năng, nghị lực của chính bản thân là cách nhanh nhất để đến với thành công:

+ Bĩnh tĩnh là thái độ cần thiết trong cuộc sống bởi nó giúp chúng ta thấu suốt những gì đã qua, biết được những điều sắp đến, đặc biệt là những khó khăn, thử thách. Bình tĩnh sẽ giúp ta phân tích đúng tình hình, tìm ra được nguyên nhân sai lầm và cách khắc phục, lựa chọn được đường đi đúng đắn để đến đích, tránh được những hậu quả nghiêm trọng

+ Hiểu được khả năng của bản thân, không ảo tưởng sẽ giúp con người xác định rõ điểm mình cần đến, từng bước đặt nền tảng để đến với những thành công cao hơn.

(Dẫn chứng thực tế chứng minh)

* Bàn luận mở rộng vấn đề

– Để thành công, chúng ta cần có nhiều phẩm chất: sự bình tĩnh, kiên nhẫn, niềm tin và ý chí, nghị lực vượt lên mọi khó khăn… bên cạnh việc hiểu rõ năng lực của bản thân. Thành công không tự dưng đến với bất cứ ai, phải có quá trình nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ, thậm chí phải trải qua nhiều thất bại.

– Phê phán những người hay nôn nóng, muốn đến đích nhanh, bỏ qua giai đoạn, bất chấp cả việc đi sai đường

– Không nên đi quá nhanh nhưng cũng không có nghĩa là chậm chạp, ỷ lại, muốn bao giờ đến đích cũng được; không đi quá nhanh cũng không mâu thuẫn với tinh thần làm việc nhanh chóng, tập trung để hoàn thành công việc trước thời hạn. Đó lại là điều đáng trân trọng, đề cao

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 10: Bàn về sự bình tĩnhnôn nóng của con người trong cuộc sống hôm nay.

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần bàn
  2. Giải thích

Bình tĩnh là con người làm chủ được hành động của mình, không tỏ ra bối rối trong mọi tình thế; nôn nóng là muốn cho xong ngay, được ngay mọi việc.

Bình tĩnhnôn nóng là hai trạng thái tâm lí thường gặp ở con người, biểu hiện rõ nét nhất khi phải đối diện với tình huống éo le, bất thường.

  1. Bình luận

* Khẳng định:

Bình tĩnh là nét tâm lí luôn có ảnh hưởng tích cực tới kết quả của công việc. Vì bình tĩnh làm trí óc ta tỉnh táo để đưa ra những quyết định sáng suốt, mới mong thu hái được những thành quả tốt đẹp.Trong nhịp sống ồ ạt hôm nay, có giây phút bình tĩnh xem lại mình, ta sẽ nhận ra những đúng, sai trong cách ứng xử. Bình tĩnh giúp cho con người hoàn thiện hơn nhân cách.

(Dẫn chứng thực tế chứng minh)

Nôn nóng là nét tâm lí thường gây tác hại tới kết quả của công việc. Vì không chịu được sự chờ đợi, có khi đưa ra những quyết định sai lầm, gây hậu quả đáng tiếc. Thậm chí, sai lầm nối tiếp sai lầm để rồi thất bại chồng lên thất bại, con người khó tìm được cơ hội cứu vãn…

(Dẫn chứng thực tế chứng minh)

Bình tĩnh là thái độ sống rất cần thiết cho mỗi con người nên trau rồi, còn nôn nóng nên kiềm chế. Mọi người nên rèn luyện đức tính nhẫn nại, cẩn trọng…

* Bàn luận mở rộng:

– Tuy nhiên, không phải lúc nào bình tĩnh cũng là tốt mà nôn nóng cũng là xấu. Bình tĩnh quá nhiều khi sẽ mất đi cơ hội tốt trong làm ăn và nôn nóng, sốt ruột lại là động lực tinh thần làm cho ta có thể giải quyết nhanh hơn mọi việc.

– Cần phân biệt bình tĩnh với chậm chạp, nôn nóng với quyết đoán.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 11:

Bảy kì quan mới

          Một nhóm học sinh đang học cách viết luận về chủ đề bảy kì quan thế giới. Cuối giờ mỗi em phải liệt kê được bảy kì quan theo suy nghĩ của riêng mình.

          Học sinh ngồi ríu rít bàn bạc rằng những công trình nào nên là kì quan của thế giới. Tháp nghiêng Pisa, Kim tự tháp Ai Cập… đều được lựa chọn.

          Cuối giờ khi thu bài, một em bé vẫn băn khoăn cầm bài viết để trắng. Cô bé giải thích:

          – Em vẫn chưa liệt kê xong vì có nhiều kì quan quá ạ!

          – Em hãy thử kể những kì quan theo ý em để các bạn và cô nghe xem có thể giúp em được không? – Cô giáo nhiệt tình hướng dẫn.

          Cô bé do dự:

          – Em nghĩ bảy kì quan trên thế giới nên là: xúc giác, thị giác, thính giác, khả năng đi lại được, nụ cười và sự yêu thương.

                                                        (Nói bởi trái tim, Nxb Kim Đồng, tr.44)

          Em có đồng ý với cô bé trong câu chuyện trên rằng: nụ cười sự yêu thương là những kì quan mà chúng ta cần yêu quý và trân trọng?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu câu chuyện và vấn đề nghị luận
  2. Giải thích

– Phân tích ngắn gọn nội dung câu chuyện để thấy được những suy nghĩ khác nhau về bảy kì quan thế giới.

– Chú ý đến suy nghĩ của cô bé cho rằng bảy kì quan trên thế giới nên là: xúc giác, thị giác, thính giác, khả năng đi lại được, nụ cười và sự yêu thương.

– Trong đó: nụ cười là niềm vui, là niềm hạnh phúc mà con người luôn hướng tới; sự yêu thương là tình cảm gắn bó, chia sẻ, đồng điệu… giữa con người với con người.

  1. Bình luận

* Khẳng định suy nghĩ của cô bé trong chuyện là hoàn toàn đúng, vì:

– Chúng ta vẫn có thể sống vui nếu không có tháp nghiêng Pisa, không có tháp Eiffel và Kim tự tháp Ai Cập… Nhưng chúng ta sẽ khó khăn biết bao nếu thiếu một trong bảy kì quan mà cô bạn này đã kể, đặc biệt là thiếu nụ cười tình yêu thương.

– Hơn nữa, nhiều tỉ người trên Trái đất mới có một kì quan kiểu như Kim tự tháp, trong khi mỗi người chúng ta lại có cho riêng mình những bảy kì quan. Chúng ta thật giàu có biết bao. Đó mới là những kì quan mà chúng ta cần yêu quý và trân trọng nhất.

(Dẫn chứng minh họa)

* Bàn luận mở rộng:

Nụ cườitình yêu thương sẽ mang lại cho con người nhiều tình cảm tốt đẹp: tinh thần lạc quan, trái tim nhân hậu, vị tha.

– Phê phán những con người vô cảm, lạnh lùng.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 12: Chúng ta không chỉ cần có một đôi cánh ước mơ mà còn cần có một đôi chân chạm đất để bước trên hiện thực.

Anh/Chị suy nghĩ như thế nào về quan niệm trên?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
  2. Giải thích

Đôi cánh ước mơ: mong ước, khao khát, dự định tốt đẹp trong tương lai…; đôi chân chạm đất: những bước đi, hành động cụ thể biến ước mơ thành hiện thực…

– Cả câu: cách nói giàu hình ảnh, hai vế chính phụ quan hệ chặt chẽ khẳng định sự cần thiết của ước mơ và quan trọng hơn là những hành động cụ thể, thiết thực của mỗi người trong cuộc sống.

  1. Bình

* Khẳng định ý kiến là hoàn toàn đúng, vì:

– Trong cuộc sống, ai cũng có ước mơ, dự định, hoài bão. Đó chính là nguồn động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người vượt qua khó khăn để vươn tới những điều lớn lao, cao đẹp. Sống mà không có ước mơ thì thật nhàm chán, vô nghĩa…

– Nhưng để biến ước mơ thành hiện thực, thành những kết quả tốt đẹp, mỗi người phải tự mình lên chương trình hành động, có phương pháp hành động cụ thể, phải bắt tay vào triển khai công việc từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, phải bước qua khó khăn, thậm chí dám chấp nhận cả thất bại để có được những bài học quý giá cho thành công. Nếu không hành động, ước mơ mãi chỉ là ảo tưởng hão huyền, xa rời thực tế…

– Ước mơ và hiện thực đi liền với nhau tạo nên ý nghĩa và giá trị đích thực cho cuộc sống của mỗi con người.

(Dẫn chứng minh họa)

* Bàn luận mở rộng:

– Ý kiến trên là một lời khuyên bổ ích đối với mỗi người. Cuộc sống không thể thiếu ước mơ, càng không thể thiếu hành động cụ thể, thiết thực.

– Phê phán những người không có nổi một ước mơ, hoặc có quá nhiều tham vọng; những người sống ảo, xa rời thực tế; những người lười biếng, ỷ lại, dựa dẫm vào người khác, muốn có thành quả mà ngại hoặc sợ hành động…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 13:

Dân gian Việt Nam có câu:

Không có mợ thì chợ vẫn đông

Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui

Nhà thơ Nga Evtushenkô lại cho rằng:

Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời

Mỗi số phận chứa một phần lịch sử

Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ

Chẳng hành tinh nào sánh nổi được đâu

Anh/Chị suy nghĩ như thế nào về những quan niệm trên?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề nghị luận
  2. Giải thích

– Ý kiến thứ nhất: giải thích các từ ngữ: mợ, chợ, không có, vẫn đông, vẫn vui… à mỗi cá nhân chỉ là một phần tử nhỏ bé của cộng đồng, xã hội, không có cá nhân ấy thì cộng đồng, xã hội vẫn tồn tại, vẫn hoạt động bình thường.

– Ý kiến thứ hai: giải thích các từ ngữ: chẳng có ai, tẻ nhạt, số phận, chứa một phần lịch sử, hành tinh; cách ví von so sánh,… à mỗi cá nhân dù nhỏ bé nhưng là duy nhất, là một giá trị riêng góp phần tạo nên sự đa dạng, thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng xã hội.

– Như vậy, hai quan niệm trên tuy khác nhau nhưng đều đặt ra vấn đề mang ý nghĩa triết học sâu sắc về sự tồn tại của cá nhân con người, về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

  1. Bình luận

* Khẳng định 2 quan niệm:

– Quan niệm của dân gian Việt Nam có điểm hợp lý vì: Xã hội vốn được hợp thành từ rất nhiều cá nhân, sự phát triển của xã hội là do sự đóng góp của nhiều cá nhân. Vì vậy thiếu đi một cá thể thì có người khác có thể thay thế vào vị trí thiếu hụt đó và xã hội vẫn tồn tại, hoạt động bình thường, sự tác động của mỗi cá nhân đối với xã hội là rất nhỏ.

– Quan niệm của nhà thơ Nga cũng rất hợp lý vì: mỗi con người tồn tại trong cuộc đời là một cá thể độc đáo, không lặp lại, mỗi người là một nhân cách độc lập duy nhất không thể thay thế, là một thế giới bí ẩn chứa đựng những giá trị người to lớn với những đặc điểm về trí tuệ, tâm hồn… Cá nhân gia nhập vào xã hội như là một bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua những hoạt động trong tập thể, trong các mối quan hệ với tập thể, hòa nhập mà không hòa tan. Mỗi người có thể có những đóng riêng, lớn hay nhỏ tùy vào năng lực, sở trường, nghề nghiệp, vị thế xã hội… Mỗi cá nhân tuy nhỏ bé nhưng nếu thiếu đi rất nhiều cá nhân thì xã hội cũng khó có thể tồn tại và phát triển. Đặc biệt có những cá nhân có tài năng đặc biệt hoặc xuất chúng thì càng có vai trò quan trọng, có thể tạo nên những bước ngoặt lớn cho sự phát triển của xã hội, thậm chí cho cả nhân loại.

* Bàn luận mở rộng:

– Hai ý kiến trên nhìn bề ngoài tưởng như mâu thuẫn nhưng kì thực chúng bổ sung cho nhau tạo nên quan niệm đầy đủ, đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội:

+ Xã hội là môi trường, là điều kiện để cá nhân thể hiện và khẳng định mình. Cá nhân chỉ phát triển, khẳng định giá trị của mình trong các mối quan hệ cộng đồng, xã hội.

+ Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội. Cá nhân dù nhỏ bé nhưng có đóng góp nhất định vào sự phát triển xã hội, không có cá nhân thì cũng không thể có xã hội và lịch sử phát triển của xã hội loài người.

– Cần có nhìn nhận đúng đắn về vai trò của cá nhân đối với xã hội. Phê phán những hiện tượng tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân hoặc ngược lại, chưa đánh giá đúng, thậm chí phủ nhận vai trò của cá nhân trong sự phát triển của xã hội, phê phán những cá nhân lười biếng, ỷ lại, không chịu cống hiến cho xã hội…

– Cần tôn trọng những cá tính, giá trị, bản sắc cá nhân song cũng cần đề cao tinh thần đoàn kết cộng đồng. Cần quan tâm đến sự phát triển chung của xã hội, của quốc gia song cũng không thể thờ ơ với những số phận mỗi cá nhân. Cần tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát huy bản sắc và cống hiến.

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 14: Bàn về hạnh phúc, Đêmôcrit quan niệm: Hạnh phúc là sự yên tĩnh và thanh thản trong tâm hồn, còn Mác lại cho rằng: Hạnh phúc là đấu tranh. Ý kiến của anh/chị như thế nào?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

– Câu nói của Đêmôcrit: hạnh phúc là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện; yên tĩnh là trạng thái không có tiếng ồn, không bị xáo động; thanh thản là sự nhẹ nhàng, thoải mái vì không còn điều gì bận tâm, lo nghĩ, áy à Với cách nói định nghĩa, Đêmôcrit đã khẳng định hạnh phúc là sự thư thái nhẹ nhàng trong đời sống tâm tư, tình cảm của con người

– Câu nói của Mác: đấu tranh là dùng sức mạnh để chống lại hay diệt trừ, để bảo vệ hay giành lấy một điều gì đó à Với câu nói ngắn gọn, Mác khẳng định hạnh phúc là không ngừng đấu tranh để bảo vệ hay giành lấy một điều gì đó trong cuộc sống

Hai ý kiến của Đêmôcrit và Mác thoạt nhìn thì có điểm mâu thuẫn với nhau nhưng thực tế chúng lại bổ sung cho nhau để hoàn thiện quan niệm về hạnh phúc.

  1. Bình luận

* Khẳng định hai ý kiến đều đúng:

Hạnh phúc là sự yên tĩnh và thanh thản trong tâm hồn đúng, vì:

+ Cuộc sống có nhiều biến động, nhiều bão táp phong ba khiến con người phải trăn trở, suy tư, những phút giây bình yên, thanh thản là liều thuốc kì diệu xoa dịu tất cả những lo âu mang lại cho con người niềm hạnh phúc trong tâm hồn.

+ Nếu cứ theo đuổi những giá trị vật chất bên ngoài, ta luôn thấy người khác hạnh phúc hơn mình, ta càng khát khao sự giàu sang của người khác bao nhiêu thì càng thấy mình kém cỏi, bất tài bấy nhiêu. Nếu nhận thức được cốt lõi của cuộc sống hạnh phúc là sự yên tĩnh và thanh thản thì bản thân luôn được mãn nguyện và hài lòng.

(Dẫn chứng minh họa)

Hạnh phúc là đấu tranh đúng, vì:

+ Đấu tranh bắt nguồn từ những mâu thuẫn gay gắt, khi mâu thuẫn được giải quyết thì mọi việc được vận động và phát triển. Chính sự vận động, phát triển đó khiến cho con người được hạnh phúc.

+ Có nhiều hình thức đấu tranh khác nhau gắn với các giai đoạn khác nhau và đối tượng khác nhau:

/Với đất nước thời kì chiến tranh thì cả dân tộc cần hợp lúc đấu tranh với các thế lực thù địch ngoại bang, đấu tranh với các giai cấp khác nhau để bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Khi đất nước hòa bình thì cần đấu tranh với những biểu hiện của lối sống thiếu văn hóa, thiếu lịch sự,… Điều đó mang lại hạnh phúc cho mọi người trong xã hội

/Với mỗi con người thì đấu tranh là chiến đấu với chính những thói tật của bản thân, bởi  nhân vô thập toàn, để tự hoàn thiện mình hơn. Khi chiến thắng trong cuộc chiến đó, con người sẽ hạnh phúc vì đạt được ý nguyện, trở nên tốt đẹp hơn.

(Dẫn chứng minh họa)

* Hai ý kiến bổ sung cho nhau:

– Nếu yên tĩnh hoàn toàn, không có xáo động gì thì cuộc sống sẽ nhàm chán, con người sẽ mòn đi, rỉ lên.

– Nếu lúc nào cũng đấu tranh thì ai cũng sẽ thấy mệt mỏi, lúc nào cũng nặng nề.

– Mỗi người cần không ngừng đấu tranh để vươn lên, làm cuộc sống của mình và mọi người tốt đẹp hơn, để hướng tới những chân giá trị đồng thời cũng cần tạo khoảng lặng trong tâm hồn, để tâm hồn được thư thái, yên tĩnh và thanh thản. Sự tĩnh lặng và sự tranh đấu cần hài hòa với nhau trong mỗi con người để con người đạt tới hạnh phúc thực sự trong cuộc đời

* Bàn luận mở rộng: Phê phán những quan niệm sai lầm, lệch lạc coi hạnh phúc chỉ đơn thuần là sự hưởng thụ, ăn chơi hưởng lạc, sống xa hoa trên mồ hôi nước mắt của những người khác.

  1. Bài học nhận thức và hành động

– Nhận thức được hạnh phúc đích thực là gì

– Không ngừng học tập, trau dồi, tích lũy tri thức từ sách vở, nhà trường và cuộc sống để có bản lĩnh vững vàng trong cuộc sống.

 

Đề 15:

Mọi người đồng tình với quan điểm: Sống là hưởng thụ, trong khi đó không ít người lại thấy: Đừng tìm mọi cách để hưởng thụ mà hãy tìm mọi cách để cống hiến. Trình bày suy nghĩ của anh chị về hai quan điểm trên?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Hưởng thụ là tận hưởng những gì tốt đẹp; cống hiến là đóng góp những gì quý giá vào sự nghiệp chung.

– Cả câu:

+ Ý kiến sống là hưởng thụ: sống là quá trình tận hưởng những điều tốt đẹp.

+ Ý kiến Đừng tìm mọi cách để hưởng thụ mà hãy tìm mọi cách để cống hiến: sống là đóng góp những điều tốt đẹp

– Hai ý kiến nêu lên hai quan điểm tưởng như trái ngược nhau nhưng chúng lại bổ sung ý nghĩa hoàn thiện cho nhau cùng làm sáng lên quan điểm về sống đẹp, sống có ích.

  1. Bình luận

* Hai ý kiến đều đúng:

– Quan điểm sống là hưởng thụ đúng vì:

+ Có nhiều thành quả chúng ta có được hôm nay, là công sức của bao thế hệ cha anh ta ngày trước đã đổ xuống, nền độc lập tự do ta có là máu xương của bao anh hùng, liệt sĩ. Cơm ta ăn, áo ta mặc, … là bao giọt mồ hôi của người nông dân, người công nhân,…

+ Hưởng thụ là cách để ta thư thái, tĩnh lặng sau thời gian xô bồ, chật vật kiếm sống. Đó cũng là phẩm chất của con người thời hiện đại cần có để sử dụng tốt quỹ thời gian của cuộc đời. Cuộc đời không phải đảo điên kiếm tìm vật chất mà đôi lúc cần thư giãn để tận hưởng những gì tốt đẹp mà tạo hóa ban tặng.

– Quan điểm Đừng tìm mọi cách để hưởng thụ mà hãy tìm mọi cách để cống hiến đúng vì:

+ Dâng tặng trí tuệ, công sức một cách vô tư khiến một cuộc đời trở nên có ích, có ý nghĩa hơn, được xã hội tôn vinh đồng thời làm nên sự tiến bộ của xã hội.

+ Cống hiến, mang lại những điều tốt đẹp cho người khác khiến bản thân mình vui hơn, yêu đời hơn.

* Hai ý kiến bổ sung cho nhau:

– Hưởng thụ và cống hiến là hai mặt quyền lợi và trách nhiệm bổ sung, ràng buộc lẫn nhau mà sống trong một cộng đồng xã hội cần phải có. Hưởng thụ là quyền tất yếu của con người khi đã có những cống hiến nhất định.

– Cống hiến hết mình là cơ sở để con người có thể đòi hỏi được hưởng thụ tối đa

– Đây là vấn đề về đạo đức, đạo lí làm người của dân tộc ta tự bao đời nay: Ăn quả nhớ kẻ trông cây (Tục ngữ). Nhưng không phải chỉ thuần túy là nhớ kẻ trồng cây mà còn cần có hành động thực tiễn.

* Bàn luận mở rộng: Phê phán những người chỉ biết hưởng thụ, lười lao động, lười cống hiến, đóng góp sức mình cho công việc chung (ngoại trừ trường hợp vẫn cần chở che bao bọc như trẻ em, hoặc trường hợp không có khả năng lao động mà sống dựa vào người khác như những người tàn tật,…)

  1. Bài học nhận thức và hành động

– Nhận thức được mối quan hệ giữa lối sống cống hiến và hưởng thụ

– Hành động: học tập và lao động vì mọi người, đó là cơ sở để mình có thể được hưởng thụ, hưởng những điều tốt đẹp mà người khác dành cho mình.

 

Đề 16: Anh/Chị hãy viết một bài nghị luận trả lời cho câu hỏi: Chúng ta có nên bước qua các ranh giới trong cuộc sống?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

– Từ ngữ: ranh giới đường phân giới hạn giữa hai khu vực, hai địa hạt, hai phạm trù… liền nhau; bước qua ranh giới vượt qua, phá vỡ làn đường giới hạn để chuyển từ bên này sang bên kia, đổi từ cái này sang cái khác; có nên…

– Cả câu…

  1. Bình luận

– Có những ranh giới không nên, không thể bước qua. Đó là những ranh giới giúp ta giữ được giá trị làm người; đảm bảo sự an toàn, phát triển tốt đẹp của xã hội. Khi các ranh giới đưa ta bước sang phạm trù của cái ác, cái xấu, sự hèn nhát, nhu nhược, yếu đuối, ích kỉ… bị phá vỡ hậu quả sẽ khôn lường.

(Dẫn chứng minh họa)

– Đôi khi cần bước qua ranh giới để mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn, khẳng định giá trị của bản thân, tạo nên những thay đổi cần thiết, tăng tính hiệu quả, tìm ra cái mới mang tính đột phá, đi được xa hơn, có được nhiều hơn trên một địa hạt khác. Đó là những ranh giới kìm hãm con người, xã hội. Nó giữ chặt ta, kéo ghì ta xuống.

(Dẫn chứng minh họa)

– Ranh giới trong cuộc sống nhiều khi rất mong manh. Để không phá bỏ hay vượt qua được ranh giới luôn cần có sự tỉnh táo, sáng suốt, bản lĩnh…

– Phê phán những hành động liều lĩnh, cực đoan bất chấp ranh giới; sự hèn nhát, thu mình…

  1. Bài học nhận thức và hành động                                                               

 

Đề 17:

Trong thiên Cáo Tử Thượng – sách Mạnh Tử có viết: Cá, ta cũng muốn; tay gấu, ta cũng muốn; nhưng hai thứ ấy không thể cùng có được, bỏ cá mới có được tay gấu. Sống sót là điều ta muốn, nghĩa khí cũng là điều ta muốn, hai thứ không thể cùng có được, từ bỏ sống sót mới có được nghĩa khí…

(Trích Từ hạt cát đến ngọc trai, NXB Thanh niên, tr.198)

          Những lời nói trên đã gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về triết lí nắm – buông trong cuộc đời?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

Những hình ảnh cá, tay gấu, nghĩa khí, sống sót; nắm: có được, giữ lấy, không để tuột khỏi tầm tay; buông: để cho rời ra khỏi tay, không giữ lại.

– Cả câu: Triết lý nắm buông trong cuộc đời: đứng trước những sự lựa chọn khó khăn, có lúc cần phải biết dũng cảm từ bỏ, không phải lúc nào cũng cố đến tận cùng để nắm giữ tất cả.

  1. Bình luận

– Cuộc sống vẫn thường đặt ta vào những tình huống phải lựa chọn. Sự lựa chọn đôi khi dễ dàng nhưng cũng có những khi vô cùng khó khăn.

Khi biết từ bỏ, dám từ bỏ:

+ Dám từ bỏ là sáng suốt, tỉnh táo, bản lĩnh, quyết đoán ứng phó trước quy luật của cuộc sống: không phải lúc nào ta cũng có được tất cả những điều mình muốn.

+ Buông để sinh tồn, để an toàn, vượt qua thử thách, phát huy được niềm yêu thích, sở trường của bản thân, đi ngày càng xa hơn, phát triển hơn.

(Dẫn chứng minh họa)

– Khi không dũng cảm từ bỏ, cố gắng giữ những thứ không thể: Ta dễ mất tất cả, thậm chí còn phải chịu hậu quả. Dẫn chứng

– Từ bỏ không có nghĩa là thoả hiệp, lùi bước, buông xuôi, hèn nhát, kém cỏi. Nắm, buông cũng phải có nguyên tắc. Đừng buông những thứ không nên buông, không thể buông . Hạn chế đến mức tối đa đặt mình vào tình huống buộc phải chọn lựa…

– Phê phán những người tham lam, bảo thủ, hèn nhát…

  1. Bài học nhận thức và hành động

 

Đề 18: Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn.

          Anh/Chị suy nghĩ gì về quan niệm trên?

Gợi ý, đáp án

  1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
  2. Giải thích

– Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình: những người cùng cảnh ngộ, sở trường, trình độ, suy nghĩ, tính cách, quan điểm sống… thường dễ hòa hợp, gần gũi, chia sẻ, kết thân.

– Nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn: trái lại, những người không cùng hoàn cảnh, sở trường, trình độ, suy nghĩ, tính cách, quan điểm sống… thường khó hòa hợp, gần gũi, chia sẻ, kết thân với nhau.

– Ý nghĩa câu nói: dù dễ dàng hay khó khăn thì yêu thương luôn là điều cần thiết trong cuộc sống, mỗi người cần phải biết vượt lên giới hạn chật hẹp của cái tôi cá nhân để mở lòng với những người xung quanh ngoài mình và khác mình. Đó là một kĩ năng sống cần thiết, một lối sống đẹp.

  1. Bình luận

* Khẳng định quan niệm là đúng, vì:

Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, vì đây là một hiện tượng tâm lý phổ biến của con người. Trong cuộc sống, nhiều khi ta gặp những người cùng cảnh ngộ, sở trường, nghề nghiệp, trình độ nhận thức, suy nghĩ, cá tính, một nét tính cách, quan niệm, lý tưởng sống,… Ta thấy dễ nói chuyện, làm quen, gần gũi. Ta thấy ta và họ có tiếng nói chung. Vì thế không cần mất nhiều thời gian công sức, sự cố gắng ta đã có thể đồng cảm, thân thiết với họ, dễ dàng giải quyết công việc hoặc chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống…

Nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, vì:

+ Mỗi con người là một cá nhân duy nhất trong cuộc đời, không có ai giống ta hoàn toàn. Sự khác biệt giữa người này và người kia là điều tất yếu. Sự khác biệt đó cũng có khi là lực hấp dẫn nhưng thường là lực cản con người đến với nhau.

+ Sự khác biệt dù lớn hay nhỏ đều gây ra những khó khăn nhất định cho con người trong mối quan hệ công việc và tình cảm:

/ Trong công việc, sự khác biệt dễ làm nảy sinh những ý kiến trái chiều, mâu thuẫn, ảnh hưởng tới mối quan hệ đối tác và hiệu quả công việc.

/ Trong cuộc sống: sự khác biệt tạo ra khoảng cách khiến con người khó gần gũi, chia sẻ, yêu thương nhau…

+ Yêu thương ai đó khác mình đòi hỏi ta phải học cách chấp nhận sự khác biệt, chấp nhận cả những điểm tốt và điểm xấu của người khác để không đố kị ghen ghét và không coi thường, kì thị. Ta chấp nhận yêu thương họ vì họ là chính họ, họ khác ta chứ không có nghĩa là bắt họ giống ta, sống cuộc đời của ta.

+ Yêu thương ai đó khác mình cũng đòi hỏi mỗi người không chỉ đấu tranh với nghịch cảnh để bảo vệ người mình yêu thương mà quan trọng hơn là phải tự đấu tranh với chính mình để vượt lên trên những tình cảm, suy nghĩ hẹp hòi, thiển cận, những định kiến về người khác, yêu thương họ chân thành, với một tinh thần vị tha, bao dung, hi sinh…

(Dẫn chứng minh họa)

* Bàn luận mở rộng vấn đề:

– Đây là một bài học sâu sắc về lối sống yêu thương, hòa hợp với người khác, với cộng đồng mà mọi người cần hướng đến, nhất là trong thời đại ngày nay.

– Phê phán những người sống ích kỉ, hẹp hòi, qúa đề cao cái tôi, không quan tâm tới người khác, hoặc chỉ yêu thương người khác khi họ giống mình, cho mình là nhất, muốn biến người khác thành mình…

– Ca ngợi những người biết yêu thương chân thành, không vụ lợi…

– Để yêu thương người khác mình cần rèn luyện cả về tri thức và nhân cách…

  1. Bài học nhận thức và hành động

Nhận thức đúng đắn về cá tính, sự khác biệt, từ đó có ý thức khẳng định cái riêng và biết chấp nhận, yêu thương người khác đúng nghĩa.

– Thấu hiểu, đồng cảm, sống chan hòa với những người xung quanh, chống lại định kiến và sự kì thị…

PHẦN KẾT

Tóm lại, với chuyên đề này, chúng tôi hi vọng trước hết giới thiệu được khái niệm, biểu hiện của tư duy phản biện và đưa ra một số biện pháp cụ thể rèn tư duy phản biện cho học sinh chuyên văn trong bài văn nghị luận xã hội. Xa hơn, chúng tôi mong muốn, tư duy phản biện sẽ trở thành một thói quen tư duy của các em trong ở tất cả các bộ môn và các lĩnh vực trong cuộc sống, là hành trang để các em bước vào đời một cách tự tin và bản lĩnh. Tuy nhiên, do những giới hạn về điều kiện nghiên cứu, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế.

Trước kia, tôi từng được nghe kể, ở đất nước Nhật Bản, nghệ thuật vườn đá rất phát triển. Có một khu vườn đá đặc biệt thu hút du khách tới thưởng lãm. Khu vườn đó có mười lăm viên đá được sắp xếp ở những vị trí khác nhau. Dù bạn đứng ở vị trí nào trong khu vườn cũng chỉ thấy được tối đa mười bốn viên đá, có một viên đá đã bị khuất khỏi tầm nhìn của bạn. Nhưng nếu bạn dịch chuyển góc nhìn một chút, viên đá thứ mười lăm đó sẽ hiện ra trước mắt bạn. Tuy nhiên, sẽ có ít nhất một trong số mười bốn viên đá trước đó lại bị che khuất đi. Tôi nghĩ khu vườn đó hấp dẫn du khách không chỉ bởi nghệ thuật sắp đặt tài tình của người kiến trúc sư mà còn bởi triết lí nhân sinh ẩn sau những viên đá vô tri. Hành trình tìm hiểu chân lí, sự thật, tri thức của con người có lẽ cũng giống như vậy, nhiều khi vì góc nhìn định kiến, vì giới hạn hiểu biết… chúng ta chỉ nhìn nhận được một phía của vấn đề. Phản biện chính là cách tốt nhất để ta nhận thức vấn đề từ góc nhìn mới, hoàn chỉnh, đầy đủ và sâu sắc hơn. Có thể khẳng định tư duy phản biện chính là chìa khóa để chúng ta đến gần hơn với các giá trị Chân – Thiện – Mĩ  của nhân loại cũng như hoàn thiện nhân cách của chính mình.

Hà Nam, 01 tháng 8 năm 2017

Người viết

 

 

 

Tập thể tổ Ngữ văn

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

STT Tên tài liệu
1 Bồi dưỡng và phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong quá trình dạy học, Tạp chí Giáo dục, số 311, 6/2013
2 Bức xúc không làm ta vô can, Đặng Hoàng Giang, Nxb Nhã Nam, 2015
3 Dạy trẻ em tư duy, Dự án Việt Bỉ lược dịch, Hà Nội, 1999
4 Dạy và học nghị luận xã hội, Đỗ Ngọc Thống, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007
5 Đề văn nghị luận xã hội, Hoàng Dân, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2010
6 Giáo trình tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1998
7 Giáo trình tâm lí học, A.V. Da-pa-rô-giét, Nxb Giáo dục, 1974
8 Hẹn hò nước Mĩ, Đỗ Nhật Nam, Nxb Lao động, 2017
9 Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2017
10 Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, Bảo Quyến, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007
11 Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) Viện ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức, 2016
12 Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011
13 Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Liên Xô, 1986
14 Trên đường băng, Tony Buổi Sáng, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2017

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *