Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian

Bài văn mẫu HSG

Trong bài Tựa viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ có nêu nhận xét :

“Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”

Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. Chọn và phân tích một vài đoạn thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám để làm rõ vấn đề.

Đề thi chọn học sinh giỏi Văn quốc gia năm 1974 – 1975

Bài làm:

Hành trình của đời người đi cùng với thời gian phiêu lãng. Với tình cảm yêu mến, trân trọng nhà thơ – chàng trai trẻ hiền hậu và say mê tóc như mây vướng trên đài trán ngây thơ mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng một tấm lòng yêu đời. Chàng đi trên đường thơ hái những bông hoa gặp dưới bước chân những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Chính vì vậy mà trong bài Tựa viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu, nhà thơ Thế Lữ đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”.                

Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn đầy mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì.

Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà Thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với:

                          Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

                          Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.

(Mùa  xuân chín)

Và Nguyễn Bính với:

                           Mùa xuân là cả một mùa xanh

                           Trời ở trên cao lá ở cành.

(Mùa  xuân xanh)

Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi đang căng tràn nhựa sống.

Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai sau. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kì. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.

Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu gầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mâỵ trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lí thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

          Muốn “tắt nắng đi” và muốn “buộc gió lại” ư? Đó là những điều không ai có thể làm được, những khát khao thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đối với trái tim nhà thơ, bởi đó là một trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ sống, muốn giữ mãi cho minh những hương, những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp biết chừng nào, quý giá biết chừng nào! Trong cuộc sống này, tất cả đều kì diệu, bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình. Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Chàng thi sĩ của vườn trần có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi quy luật bình thường của tạo hóa. Nhưng quy luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngàỵ, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: Giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.

          Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng và gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: Nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:                                                    Đương lúc hoàng hôn xuống

                                          Là giờ viễn khách đi

                                          Nước đượm màu li biệt

                                         Trời vương hương biệt li

(Viễn khách)

Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.

Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo cho tương lai:

                           Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

                           Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến                  ;

(Giục giã)

         nên trái tim giục giã nhà thơ bày tỏ nỗi niêm tha thiết với mùa xuân. Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian. Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”’.                               

                                                            Của ong bướm này đây tuần tháng mật

                                                            Này đây hoa của đồng nội xanh rì

                                                            Này đây lá của cành tơ phơ phất

                                                            Của yến anh này đây khúc tình si.

          Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất. Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dụng thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhận vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất” của yến anh là khúc tình “si”… thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngộn đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những món ăn có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng nhũng tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu – cảnh vật trong thơ đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hóa (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: “Tuần tháng mật” “đồng nội xanh rì”… tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quýt giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của 1 mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế. Niềm vui như một vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:

 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

  Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa

         Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

            Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời – vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần Vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hi Lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian tháng giêng so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu.

Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam, chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu. Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp con người như ta vẫn gặp trong thơ cổ mà lại thấy vẻ đẹp con người làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhan sắc của Thúy Vân được Nguyễn Du miêu tả là: “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu thì: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Con người bao giờ cũng là điều tuyệt diệu. Cái hay, cái đẹp, cái mới của hồn thơ Xuân Diệu, có thể nói cái rất Xuân Diệu phần nào là ở đó. Khác với Nguyễn Du tả mùa xuân tươi đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên; khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đáng yêu là thế mà thi nhân chối bỏ gay gắt, quyết liệt:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.

(Xuân)

              Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách nồng nhiệt, thiết tha. Có một cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống, có những sắc màu tuyệt diệu như vậy để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hòa vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!

Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc trái ngược nhau: “sung sướng” – vội vàng”. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc hoa niên. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội vàng. Bởi vì sao? Bởi vì Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy sẽ ngắn ngủi biết bao, cho nên: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

                  Xưa nay, người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi, chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã không còn. Ở đây, với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đến độ đắm say, Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân cả khi mùa xuân đang còn, ngay cả khi mùa xuân mới đến. Nhà thơ biết rằng mùa xuân sẽ trôi qua nhanh, mà hình như với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, nó còn trôi nhanh gấp bội, nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ đi qua, cái đang non trẻ, thắm tươi rồi sẽ già nua, tàn úa. Điều ấy có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với Xuân Diệu: “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”. Câu thơ của Xuân Diệu thật là buồn bã, bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: Mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua, mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời có ý nghĩa gì nữa. Điều quý giá nhất của cuộc đời, của đất trời, là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ. Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có từ ngàn xưa, không phải là một ý niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giới của Đường thi, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:

Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa lạị

Ngẫm trời đất thật vô cùng

Riêng lòng đau mà lệ chảy.

(Đăng U Châu đài ca, bản dịch của Tương Như)

                   Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.

Con người khao khát vô tận nhưng cuộc sống lại có quy luật của nó, chặt chẽ vô cùng, nghiệt ngã vô cùng:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

                   Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy, cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé hơn nữa, nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ở đời, nhà thơ đã từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi, mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế, không những người ta không tự an ủi được mình, mà chỉ càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

              Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý, chỉ đẹp khi con người có thể biết được, hưởng được cái mùa xuân ấy. Không có con người, hay con người không được hưởng, thì mùa xuân có đó mà làm gì? Bởi vậy, những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang một giọng buồn bã.

Trong khi đồng nhất hóa mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của quy luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chốn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa mà Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao?

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

                  Mảnh tình san sẻ tí con con.               .

(Tự tình II)

               Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuâng, tiếc cả đất trời” để Ịàm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân:

               Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi                   

Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

              Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?                   

Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

             Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa – Tần Thủy Hoàng, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận:

Nhủ rồi nhủ lại cầm tay

Bước đi một bước giây giây lại dừng.

(Chinh  phụ ngâm – Đặng Trần Côn)

                 Tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời Thề non nước, Tống biệt, Cảm thu,Tiễn thu cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm rớm vị chia phôi“, không gian “sông núi đều than thầm” đến “con gió xinh thì thào”, “chim đứt tiếng reo”… Cảm quan lãng mạn cùng hòa với suy tư về bản thân đã khắc họa độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Tất cả đều buồn bã, tất cả đều mất hết hương vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi” với “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn nỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam cả phong trào Thơ mới, chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu âm thanh ấy, ở đoạn trên náo nức, rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao, tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thấy rõ ràng mùa xuân đã mất, tuổi trẻ đã qua, nhà thơ đã kêu lên một cách tuyệt vọng, bật thành tiếng than não nuột: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại. Nỗi đau đớn phải thật chân thành để Xuân Diệu có tiếng kêu như thế. Còn làm được gì nữa bây giờ? Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và đời người cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được nữa để biến cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian, với mùa xuân mãi mãi của đất trời? Chỉ còn một cách, ấy là biến cái hữu hạn về lượng thành ra cái vô hạn về chất, nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt, phải sống để thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đẽ, quý giá của đời sống, của mùa xuân, của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua, tuổi trẻ sắp hết.

Từ cảnh “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” (Giục giã) này trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.

               Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quýt kia là sự cuồng nhiệt với đời:

                             Ta muốn ôm

                             Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

                             Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

                             Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

                             Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

                             Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

             Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấy nhau để tạo theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: “muốn ôm” “muốn riết” “muốn say”, “muốn thâu”; lại còn: “một cái hôn nhiều” chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “và” lại có đến ba từ “và” ở giữa câu thơ. Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuồng quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi

Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động: “ôm”, “riết” “say” “thâu” “hôn”, “chếnh choáng” “đã đẩy” “no nê”, ‘cắn”, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình. Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ.

Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và chàng thi sĩ choáng men say đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:

Trong hơi thở chót dâng trời đất

Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.                                                                                                                                        (Không đề)

Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: Phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về tấm lòng trẩn gian của một người thơ yêu đời mê đắm. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si? Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.

Nguyễn Thị Chí Linh

Trường THPT Kim Sơn A – Ninh Bình

Bài đoạt giải Nhất. Bài do cô giáo Đào Thu Hòa cung cấp.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *