Rèn kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn-bài 15

Tài liệu Văn

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.. 4

  1. Lí do chọn đề tài 4
  2. Mục đích nghiên cứu. 5
  3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 6
  4. Phương pháp nghiên cứu. 6
  5. Đóng góp của đề tài 7
  6. Cấu trúc của đề tài 7

PHẦN NỘI DUNG.. 8

CHƯƠNG 1: VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN.. 8

1.1. Khái niệm và phân loại 8

1.1.1. Khái niệm.. 8

1.1.2. Phân loại văn bản ngoài chương trình. 9

1.2. Sự cần thiết của việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. 20

1.2.1. Giúp học sinh xác định đúng và trúng vấn đề cần nghị luận. 21

1.2.2. Giúp học sinh mở rộng phông kiến thức. 23

1.2.3. Giúp học sinh hiểu rõ và cảm thụ tốt hơn văn bản trong chương trình. 23

1.2.4. Gián tiếp rèn kĩ năng diễn đạt cho học sinh. 25

CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN.. 26

2.1. Một số nguyên tắc khi đọc hiểu văn bản. 26

2.1.1. Đối với văn bản nói chung. 26

2.1.2. Đối với văn bản văn học. 29

2.2. Cách thức rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình. 32

2.2.1. Khuyến khích học sinh chủ động kiếm tìm văn bản ngoài chương trình. 33

2.2.2. Hướng dẫn học sinh giải mã văn bản bằng những câu hỏi 35

CHƯƠNG 3: HẠN CHẾ CỦA HỌC SINH KHI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH VÀ MỘT SỐ BÀI TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU   62

3.1. Một số hạn chế của học sinh khi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình. 62

3.1.1. Có thái độ chưa đúng đắn đối với việc đọc hiểu văn bản ngoài chương trình  62

3.1.1. Xác định chưa đúng, chưa trúng, chưa toàn diện nội dung của văn bản. … 63

3.1.2. Chưa biết kết nối nội dung và hình thức thể hiện của văn bản. 66

3.1.3. Chưa biết vận dụng kiến thức văn bản ngoài chương trình vào bài làm văn              68

3.2. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình. 69

3.2.1. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình liên quan đến văn nghị luận xã hội 70

3.2.2. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình liên quan đến văn nghị luận văn học. 76

PHẦN KẾT LUẬN.. 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 84

 

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài

Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường đã được dấy lên và thúc đẩy mạnh mẽ trong những năm gần đây. Điều đó kéo theo sự thay đổi trong cách kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh. Bài thi THPT Quốc gia chính là bài đánh giá kĩ năng, năng lực toàn diện của học sinh. Đối với môn Ngữ văn, ngoài kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận xã hội, nghị luận văn học, đề thi còn kiểm tra kĩ năng đọc hiểu văn bản của học sinh. Đây là một kĩ năng quan trọng, cần thiết đối với học sinh khi học ở những cấp học cao hơn và trong đời sống, xã hội.

Trong đề thi THPT Quốc gia những năm gần đây, phần đọc hiểu chiếm 30% tổng số điểm toàn bài. Đây là một phần tương đối lớn, góp phần đánh giá năng lực của học sinh sau 3 năm học THPT và 12 năm cắp sách đến trường. Ngữ liệu được sử dụng trong đề bài thi đọc hiểu văn bản hầu hết là văn bản ngoài chương trình, xa lạ với học sinh. Nếu học sinh có đủ kiến thức cơ bản về đọc hiểu văn bản, nắm chắc kĩ năng đọc hiểu văn bản thì đây cũng chính là một phần lợi thế để nâng cao điểm số bài thi của mình. Vì lẽ đó, phần rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản luôn được chú trọng trong các nhà trường phổ thông, xem đây là một phần không thể thiếu trong chiến lược rèn luyện, ôn tập cho học sinh. Không cần chờ đến lớp 12, mà ngay từ lớp 10, các thầy cô dạy môn Ngữ văn THPT đã tích cực rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản cho những học trò của mình.

Đối với học sinh chuyên văn, các em còn phải tham gia thi chọn học sinh giỏi khu vực và chọn học sinh giỏi quốc gia. Cấu trúc đề thi học học sinh giỏi gồm 2 câu: Câi 1 (8 điểm) về nghị luận xã hội và câu 2 (12 điểm) về nghị luận văn học. Câu nghị luận xã hội thường sử dụng ngữ liệu là một văn bản ngoài chương trình. Đó có thể là một câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn. Đó cũng có thể là một trích đoạn trong một bài báo, một bài nghiên cứu khoa học, một câu chuyện nhỏ hoặc một bài thơ, một đoạn thơ hàm chứa bài học triết lý. Câu nghị luận văn học cũng thường sử dụng ngữ liệu ra đề là một câu hoặc một đoạn ngắn trong bài nghiên cứu văn học của một tác giả nổi tiếng. Không chỉ vậy, để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra trong đề bài, học sinh không chỉ biết vận dụng tốt những tác phẩm văn học trong chương trình mà còn phải linh hoạt và sáng tạo trong việc vận dụng những tác phẩm văn học ngoài chương trình. Một thực tế cho thấy, những bài làm đạt giải cao là những bài viết thể hiện phông kiến thức rộng, biết mở rộng so sánh liên hệ với những tác phẩm ngoài chương trình đúng lúc đúng chỗ. Việc đưa những ngữ liệu văn bản ngoài chương trình vào bài nghị luận văn học sẽ giúp vấn đề được soi chiếu và sáng tỏ hơn, có sức thuyết phục hơn.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều học sinh tỏ ra lúng túng khi đọc hiểu những văn bản ngoài chương trình. Vì lần đầu được tiếp cận nên việc nắm bắt nội dung, tư tưởng của văn bản là một vấn đề tương đối khó với học sinh, ngay cả học sinh chuyên văn. Điều này dẫn đến việc lúng túng khi xác định chính xác vấn đề cần bàn luận trong bài văn nghị luận xã hội, vốn kiến thức về tác phẩm ngoài chương trình mỏng nên không biết liên hệ, so sánh khi làm bài nghị luận văn học, hoặc mở rộng liên hệ không đúng lúc đúng chỗ khiến bài văn trở nên rối ý, xa đề, lủng củng, thiếu sức thuyết phục.

Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết được đặt ra trong thực tế như trên, chúng tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn là thật sự cần thiết. Đó cũng là lí do cho việc chọn đề tài “Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn” làm vấn đề nghiên cứu cho chuyên đề này.

  1. Mục đích nghiên cứu

Chuyên đề “Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn” hướng tới mục đích giúp giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, học sinh học tập hiệu quả và nâng cao chất lượng đổi mới giáo dục trong nhà trường.

Chuyên đề này cũng giúp giáo viên có nguồn tài liệu phục vụ trực tiếp trong quá trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu chuyên môn, nhất là những thầy cô đang trực tiếp giảng dạy tại các lớp chuyên văn.

Chuyên đề giúp học sinh có được kĩ năng, phương pháp làm bài đọc – hiểu, rèn luyện kỹ năng tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập; kỹ năng tích cực chủ động, sáng tạo, hợp tác của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập; kỹ năng trình bày, trao đổi, thảo luận về kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập.

  1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Chuyên đề tập trung vào vấn đề đọc – hiểu văn bảnáp dụng cụ thể đối với các văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. Những loại văn bản ngoài chương trình mà chuyên đề hướng tới là:

  • Câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn hàm chứa nội dung triết lý sâu sắc.
  • Câu chuyện nhỏ mang ý nghĩa bài học cuộc sống.
  • Bài nghiên cứu văn học hoặc các môn khoa học khác.
  • Bài báo chứa đựng vấn đề triết lý nhân sinh hoặc nêu ra hiện tượng đời sống.
  • Đoạn trích / tác phẩm văn học ngoài chương trình có liên quan đến đoạn trích / tác phẩm trong sách giáo khoa.
  1. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài “Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn”, chúng tôi vận dụng linh hoạt các phương pháp sau: Phương pháp khảo sát, sưu tầm, phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh, đàm thoại, hoạt động nhóm, thực hành.

5.     Đóng góp của đề tài

Đề tài định hướng một số cách thức rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. Những biện pháp đề tài đưa ra phù hợp với đối tượng, mục đích, dễ áp dụng và có tính hiệu quả.

Đề tài cũng bổ sung nguồn tư liệu phong phú, giúp ích cho quá trình dạy và học văn trong nhà trường phổ thông, nhất là đối với việc dạy và học môn Ngữ văn ở lớp chuyên văn.

6.     Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính của đề tài được triển khai theo 3 chương:

Chương 1: Văn bản ngoài chương trình và sự cần thiết của việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn.

Chương 2: Cách thức rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn.

Chương 3: Hạn chế của học sinh khi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình và một số bài tập rèn kĩ năng cho học sinh.

 

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

1.1. Khái niệm và phân loại

1.1.1. Khái niệm

Văn bản là một phương tiện để ghi nhận, lưu giữ và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này sang chủ thể khác bằng một ký hiệu hay ngôn ngữ nhất định nào đó. Hay nói khác đi, văn bản là một dạng sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ được thể hiện ở dạng nói hoặc viết trên một chất liệu nào đó (giấy, bia đá…); gồm một câu hoặc tập hợp các câu có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, có tính liên kết chặt chẽ và hướng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định.

Khái niệm văn bản mà chúng tôi sử dụng ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, gồm văn bản văn học và văn bản phi văn bản văn học. Văn bản được phân loại theo những tiêu chí khác nhau:

Theo tiêu chí phương thức biểu đạt, văn bản được chia thành 6 loại: văn bản miêu tả, văn bản tự sự, văn bản biểu cảm, văn bản thuyết minh, văn bản hành chính – công vụ, văn bản nghị luận.

Theo tiêu chí phong cách chức năng ngôn ngữ, văn bản được chia thành 6 loại: văn bản sinh hoạt, văn bản báo chí, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản hành chính, văn bản nghệ thuật.

Trong giới hạn chuyên đề này, chúng tôi phân biệt hai khái niệm: văn bản trong chương trình và văn bản ngoài chương trình.

Văn bản trong chương trình là những văn bản được trích giảng trong sách giáo khoa Ngữ văn, được phân phối giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT.

Văn bản ngoài chương trình là những văn bản không được trích giảng trong sách giáo khoa, không nằm trong phân phối chương trình Ngữ văn THPT.

1.1.2. Phân loại văn bản ngoài chương trình

Đối với một học sinh chuyên văn, số lượng văn bản ngoài chương trình mà các em tiếp cận trong suốt 3 năm THPT không hề nhỏ nên cần được phân loại để có phương pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh một cách đúng hướng và hiệu quả nhất. Có nhiều cách để phân loại văn bản ngoài chương trình thành những nhóm khác nhau. Ở đây, chúng tôi áp dụng cách phân chia theo loại thể. Theo đó, những loại văn bản ngoài chương trình cần thiết đối với học sinh chuyên văn gồm có:

  1. Câu nói triết lý: tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn

Đây là những câu nói ngắn gọn, hàm súc, sử dụng cách nói giàu hình ảnh để truyền tải một thông điệp ý nghĩ về cuộc sống. Những câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn thường được sử dụng làm đề bài trong câu nghị luận xã hội của đề thi chọn học sinh giỏi.

Ví dụ:

  • Biết mình không biết là một bước tiến dài dẫn đến sự hiểu biết” (Benjamin Disraeli).
  • “Lương tâm mà rách nát thì cuộc đời cũng chỉ chắp vá mà thôi”. (V.Huy-gô)
  • ”Ta mong với trời cao và biển rộng mà quên rằng hoa từ đất mà ra.”

(Với tuổi – Báo Hoa Học Trò số 145 (năm 1996)

  • “Đừng đi theo lối mòn, hãy băng qua những nơi không có dấu chân người để tạo ra những con đường” (R. W. Emerson)
  • Khi có điều gì đó không như bạn mong muốn, hãy thay đổi nó. Nếu không thay đổi được nó, hãy thay đổi thái độ của bạn.
  1. Văn bản báo chí

Đây là những văn bản hoặc trích đoạn văn bản báo chí được đăng tải trên các trang báo (báo viết hoặc báo điện tử). Loại văn bản này cũng thường được sử dụng làm ngữ liệu cho câu nghị luận xã hội trong đề thi chọn học sinh giỏi.

Ví dụ:

Văn bản 1

        (1) Tôi đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc bóng đá, trên rất nhiều cương vị khác nhau, đến mức ngỡ như khó có một trận cầu nào có thể khiến mình bay bổng được nữa. Nhưng đến khi chứng kiến U23 Việt Nam loại Qatar để ghi tên mình vào trận chung kết, tôi biết mình đã gặp một điều thần kỳ chỉ có trong giấc mơ.

        (2) (…) Tôi ngẫm nghĩ lại: vì sao các em hôm nay được yêu mến đến thế? Và tôi chỉ tìm thấy một câu trả lời: tuổi trẻ. Nếu như các thế hệ đàn anh dự giải khi người đã cao tuổi, người đã lập gia đình thì tất cả thành viên của U23 hôm nay căng đầy sức sống. Khát vọng của những thanh niên hiện đại, được giáo dục đầy đủ, tiếp thu những văn minh hiện đại đang chiến đấu vì niềm tự hào quốc gia khiến họ thành những thần tượng mới.

        (3) Nhưng đi kèm với những lợi thế của một lớp trẻ văn minh là những hiểm họa của một thời đại công nghệ. Rồi các em sẽ thấy mình bị bao vây bởi truyền thông, rồi các em sẽ thấy tên mình tràn ngập báo đài, truyền hình và trên mạng xã hội. Các em sẽ thấy lượng người theo dõi trên mạng xã hội của mình tăng gấp bội, với số thông báo nhiều đến mức không đọc hết nổi. Rồi những lời đề nghị sẽ đến, từ lịch sự cho đến khiếm nhã, từ thương mại cho đến tình ái. Tôi không là ai để có thể khuyên các em. Nhưng tôi chỉ muốn nói với các em một điều: trước khi quyết định điều gì, hãy nhớ về cái giây phút mà các em chơi bóng lần đầu.

        (4) Hãy nhớ cái cảm giác đứng trên mảnh ruộng quê hương, đá vào quả bóng nhựa và mơ một ngày nào đó được chạy trên thảm cỏ xanh. Hãy nhớ lần đầu tiên các em vào học viện, được mang đôi giày da đầu tiên thay cho tấm chân trần. Hãy nhớ cảm giác khi thầy nói “tốt lắm” khi các em lần đầu đá quả bóng đúng kỹ thuật. Hãy nhớ những giọt mồ rơi ròng rã, hãy nhớ những cơn đau chuột rút, hãy nhớ những ngày miệt mài xa gia đình và nhớ lấy tiếng cười của người thân khi ta gọi về sau một chiến công nào đó.

(Trần Minh Chiến – Đôi chân trên mặt đất, nguồn: https://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/doi-chan-tren-mat-dat-3705208.html)

Văn bản 2

“Cái quý giá nhất trên đời mà mỗi người có thể góp phần mang lại cho chính mình và cho người khác đó là “năng lực tạo ra hạnh phúc”, bao gồm năng lực làm người, năng lực làm việc và năng lực làm dân.

Năng lực làm người là có cái đầu phân biệt được thiện – ác, chân – giả, chính – tà, đúng – sai…, biết được mình là ai, biết sống vì cái gì, có trái tim chan chứa tình yêu thương và giàu lòng trắc ẩn. Năng lực làm việc là khả năng giải quyết được những vấn đề của cuộc sống, của công việc, của chuyên môn, và thậm chí là của xã hội. Năng lực làm dân là biết được làm chủ đất nước là làm cái gì và có khả năng để làm được những điều đó. Khi con người có được những năng lực đặc biệt này thì sẽ thực hiện được những điều mình muốn. Khi đó, mỗi người sẽ trở thành một “tế bào hạnh phúc”, một “nhà máy hạnh phúc” và sẽ ngày ngày “sản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.

Xã hội mở ngày nay làm cho không có ai là “nhỏ bé” trên cuộc đời này, trừ khi tự mình muốn “nhỏ bé”. Ai cũng có thể trở thành những “con người lớn” bằng hai cách, làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khi biết chọn cho mình một lẽ sống phù hợp rồi sống hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!.”

 (Để chạm vào hạnh phúc- Giản Tư Trung, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, 3/2/2012)

  1. Văn bản nghiên cứu

Văn bản nghiên cứu mà học sinh thường gặp gồm 2 loại: văn bản nghiên cứu văn học và văn bản nghiên cứu các môn khoa học khác.

Văn bản nghiên cứu văn học là những bài văn học sử hoặc lí luận văn học, phê bình văn học. Ví dụ: Bên cạnh những bài khái quát, tóm tắt về lí luận văn học trong sách giáo khoa như Nội dung và hình thức của văn bản văn học; Một số thể loại văn học: thơ, truyện, kịch, nghị luận; Quá trình văn học và phong cách văn học; Giá trị văn học và tiếp nhận văn học, học sinh cần tìm đọc cuốn Lí luận văn học (GS Phương Lựu chủ biên), Giáo trình lí luận văn học (3 tập, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội). Một số chương lí luận văn học học sinh cần đọc hiểu cẩn trọng như: Văn học, nghệ thuật ngôn từ; Chức năng của văn học; Nhà văn, chủ thể sáng tác văn học; Quá trình sáng tác; Bạn đọc, chủ thể tiếp nhận văn học; Quá trình tiếp nhận… Bên cạnh những bài tổng quan về các giai đoạn văn học trong sách giáo khoa, học sinh cần đọc hiểu một số bài nghiên cứu văn học sử trong những cuốn sách như Văn học dân gian Việt Nam (GS Đinh Gia Khánh chủ biên), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX (GS Đinh Gia Khánh chủ biên).

Học sinh cũng cần phải đọc hiểu những lời nhận định của những nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng. Ví dụ:

Thơ không phải là một vòng quay chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc, không phải là sự biểu hiện của tính cách mà là một lối thoát cho cá tính. (T.S. Eliot)

Ngoài việc phản ánh đầy đủ sự thật đời sống, văn học còn có nhiệm vụ buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình.” (Hoàng Ngọc Hiến)

“… Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn…”. (Tiếng nói của văn nghệ – Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, Hà Nội, 1997).

Patrick Modiano, nhà văn đoạt giải Nobel năm 2014, từng chia sẻ: “Việc viết là một hoạt động cô đơn lạ kì”

“Chủ nghĩa kinh viện phương Bắc không làm mất đi được cá tính sáng tạo của những cây bút lỗi lạc” (Đặng Thai Mai)

Những lời nhận định trên chính là những ngữ liệu thường sử dụng trong việc ra đề câu nghị luận văn học trong bài thi chọn học sinh giỏi THPT các cấp.

Ngoài đọc hiểu văn bản nghiên cứu văn học, học sinh còn phải đọc hiểu những văn bản nghiên cứu các môn khoa học khác, nhất là lĩnh vực khoa học thường thức, phù hợp với lứa tuổi, trình độ tiếp nhận của học sinh THPT. Những văn bản thuộc loại này có thể gặp trong bài thi THPT Quốc gia. Ví dụ:

“Thuốc lá gây ra những tác hại rất lớn đối với đời sống con người. Trước hết, nó huỷ hoại sức khoẻ của những người trực tiếp hút thuốc. Trong thuốc lá có chứa nhiều chất độc, đặc biệt là chất ni-cô-tin. Chất ni-cô-tin có khả năng gây nghiên và nó cùng với những chất độc khác gặm nhấm sức khỏe con người gây bênh viêm phế quản, ho lao, ung thư phổi…. Điều này lí giải tại sao phần lớn những người hút thuốc nhiều đều mắc ít nhất một bệnh nào đó về phổi. Hơn thế nữa, thuốc lá còn gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Khói thuốc lá, đầu thuốc lá, tàn thuốc lá, chúng đã cùng với rác rười góp phần tạo nên thảm hoạ ô nhiễm môi trường. Nguy hiểm hơn, khói thuốc lá còn gây bệnh cho những người không hút thuốc. Những người xung quanh hít phải khói thuốc và khói thuốc khiến họ chịu độc gấp 4 lần người trực tiếp hút thuốc. Việc hút thuốc lá thụ động này cũng khiến những người này mắc những bệnh nghiêm trọng về tim phổi”

(Trích: loigiaihay.com)

“Thực phẩm bẩn chính là kẻ sát nhân thầm lặng, ảnh hưởng và di hại đến nhiều thế hệ làm kiệt quệ nòi giống. Người tiêu dùng có còn đủ tỉnh táo để phân biệt trong ma trận thực phẩm đang giăng như mạng nhện ấy, đâu là sạch, đâu là bẩn hay là lực bất tòng tâm để rồi “nhắm mắt đưa chân”.

Nếu không có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời, rồi đây 10,20 năm sau tỷ lệ mắc ung thư và tâm thần của người Việt sẽ còn cao hơn rất nhiều. Mọi nỗ lực để nâng cao chất lượng cuộc sống, cải tạo nòi giống chẳng nhẽ bó tay trước những người đang đầu độc dân tộc mình?

Phát triển sẽ là gì nếu không phải là giúp người dân nâng cao đời sống, tạo môi trường lành mạnh, an toàn để mỗi chúng ta sống và đóng góp cho xã hội. Nhưng thực phẩm bẩn tràn lan như hiện nay như là cái u ác tính cho cả dân tộc, nếu không cắt bỏ sẽ di căn thành ung thư. Hãy hành động ngay hôm nay đừng để lúc vô phương cứu chữa.

(Trích Vấn nạn thực phẩm bẩn, chẳng lẽ bó tay? – Ths Trương Khắc Hà)

  1. Văn bản tự sự

Văn bản ngoài chương trình thuộc thể loại văn bản tự sự gồm có: câu chuyện ngắn hàm chứa bài học triết lý liên quan đến bài văn nghị luận xã hội, đoạn trích / tác phẩm tự sự có liên quan đến tác phẩm văn học trong chương trình, phục vụ cho bài nghị luận văn học.

Trong những năm gần đây, câu nghị luận xã hội trong đề thi chọn học sinh giỏi thường lấy ngữ liệu là những câu chuyện bài học cuộc sống. Đó là những câu chuyện ngắn gọn, hàm súc, mang đến thông điệp, bài học triết lý về con người và cuộc sống.

Ví dụ:

Văn bản 1:

ƯỚC VỌNG VÀ HẠT GIỐNG

Ngày xưa có hai đứa trẻ đều có nhiều ước vọng rất đẹp đẽ. “Làm sao có thể thực hiện được ước vọng?”

Tranh luận hoài 2 đứa trẻ mang theo câu hỏi đến cụ già, mong tìm những lời chỉ bảo. Cụ già cho mỗi đứa trẻ một hạt giống, và bảo:

– Đấy chỉ là hạt giống bình thường, nhưng ai có thể bảo quản nó tốt thì người đó có thể tìm ra con đường thực hiện ước vọng!

Nói xong cụ già quay lại rồi đi khuất ngay.

Sau đó mấy năm, cụ già hỏi hai đứa trẻ về tình trạng bảo quản hạt giống. Đứa trẻ thứ nhất mang ra một chiếc hộp được quấn bằng dây lụa nói:

– Cháu đặt hạt giống trong chiếc hộp, suốt ngày giữ nó.

Nói rồi nó lấy hạt giống ra cho cụ già xem, thấy rõ hạt giống nguyên vẹn như trước. Đứa trẻ thứ hai mặt mũi xám nắng, hai bàn tay nổi chai. Nó chỉ ra cánh đồng mênh mông lúa vàng phấn khởi nói:

– Cháu đem hạt giống xuống đất mỗi ngày lo tưới nước chăm sóc bón phân diệt cỏ ….tới nay nó đã kết hạt mới đầy đồng.

Cụ già nghe xong mừng rỡ nói :

– Các cháu, ước vọng cũng như hạt giống đó. Chỉ biết khư khư giữ lấy nó thì chẳng có thể lớn lên được. Chỉ khi dùng mồ hôi, sức lực, tưới tắm vun trồng cho nó thì mới có thể biến thành hoa trái, mùa màng bội thu thôi!

(Theo Quà tặng cuộc sống / truyện 186.com)

Văn bản 2:

CHUYỆN TRONG VƯỜN

    Có một cây hoa giấy và một cây táo cùng sống trong một khu vườn. Mùa xuân đến, cây hoa giấy đâm chồi nảy lộc. Mưa phùn làm cho cây lá xanh mướt, tốt tươi. Hàng trăm bông hoa giấy thắm đỏ nở đồng loạt, trông như môt tấm thảm đỏ rực. Còn cây táo vẫn đứng lặng lẽ một góc vườn, thân cành trơ trọi nứt nẻ. Cây hoa giấy nói:

–  Táo ơi! Cậu đã làm xấu khu vườn này. Cậu nên đi khỏi khu vườn để lấy chỗ cho tớ trổ hoa.

   Cây táo nép mình im lặng. Ít lâu sau cây táo mới mọc lá. Những chiếc lá tròn tròn, bóng láng. Rồi cây táo trổ hoa, mùi thơm thoảng nhẹ trong gió. Chẳng bao lâu cây kết những quả táo nhỏ màu xanh. Đến mùa thu, những quả táo đã to và chín vàng. Một hôm hai ông cháu chủ vườn ra thăm cây. Ông với tay hái cho cháu mấy quả táo. Cô bé ăn và luôn miệng khen táo thơm ngon. Thấy hai ông cháu không để ý đến mình cây hoa giấy buồn lắm. Cây táo nghiêng tán lá xanh thầm thì an ủi bạn:

–  Bạn đừng buồn! Hai chúng ta mỗi người một việc. Tôi dâng trái ngon cho mọi người còn bạn thì cho sắc hoa và bóng mát.

   Giờ thì cây hoa giấy đã hiểu ra nhiều điều. Nó không còn nghĩ chỉ có mình mới đáng yêu như trước nữa. Nó yêu mảnh vườn này, yêu cả cái dáng trơ trụi của cây táo sau mùa cho quả.

(Theo Internet – Những giá trị tinh thần)

Văn bản ngoài chương trình thuộc nhóm văn bản tự sự còn gồm có những đoạn trích / tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết có liên quan đến đoạn trích / tác phẩm trong chương trình.

Ví dụ: Tìm hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, học sinh cần biết thêm về tác phẩm Lang Rận, Một bữa no, Đám cưới của Nam Cao, tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, tìm hiểu truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao, học sinh cần biết thêm về truyện ngắn Giăng Sáng, Sống mòn của  Nam Cao, tìm hiểu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, học sinh chuyên văn cần đọc tiểu thuyết Số đỏ để có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn, lí giải được những chi tiết trào phúng trong tác phẩm. Học Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, học sinh chuyên văn cần đọc hiểu thêm Tờ hoa, học các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, học sinh cần đọc hiểu thêm một số truyện ngắn, tiểu thuyết khác của ông như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Phiên chợ Giát

  1. Văn bản trữ tình

Văn bản ngoài chương trình thuộc thể loại trữ tình trước hết là những bài thơ ngắn hàm chứa bài học triết lý nhân sinh. Những văn bản này thường được sử dụng làm ngữ liệu trong câu nghị luận xã hội của đề thi chọn học sinh giỏi.

Ví dụ:

Đề 1:

Nhớ Tết

Tủi thân khói bếp ngày xưa
Mẹ nhen cho tối giao thừa bớt suông
Tiếng reo củi ướt đỡ buồn
Bánh chưng mỏng quá ngồi thương bánh dầy

Đầu làng nghê đất ngây ngây
Tuổi thơ pháo tẹt pháo dây tẹt đùng
Rạ rơm vây ấm một vùng
Bọc con vào giữa tận cùng hồn quê

Nén hương cắm gốc bồ đề
Mẹ xin bóng mát toả về cái no
Con xin chiếc lá làm trò
Lêu têu chân đất quạt mo thằng bờm

Tết nghèo bánh lá thay cơm
Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn
Con nằm thương khó run run
Muốn đem khoe cả mưa phùn mẹ ơi!

Con lem lấm của một thời
Để khi khôn lớn nên người lại xa
Mỗi lần nhìn khói bay qua
Mắt rưng rưng nhớ quê nhà… lại cay!

(Trương Nam Hương)

Từ cảm nhận về bài thơ trên, anh / chị hãy viết một bài văn nghị luận về chủ đề: Tết xưa và Tết nay.

Đề 2:

Làm người

“Ngồi thì co

đứng thì thẳng

làm người thật khó”

     (Lời người Dáy)

để trở thành một người biết sinh con đẻ cái

như thế chưa khó

để trở thành người biết ăn ngon mặc đẹp

như thế cũng chưa khó

để trở thành một người giàu có

như thế vẫn chưa khó

để trở thành một người sống lâu trăm tuổi

như thế cũng vẫn chưa khó

vậy làm người khó nhất là gì?

 

nghĩ đi nghĩ lại

nghĩ gần nghĩ xa

nghĩ cao nghĩ thấp

nghĩ hẹp nghĩ rộng

có người đẹp ngoài mà xấu trong

có người xấu ngoài mà đẹp trong

có người già mà vẫn trẻ

có người trẻ mà đã già

có người sống mà đã chết

có người chết mà vẫn sống

làm người khó nhất là: sống!

(Lò Ngân Sủn – Người trên đá, NXB Văn hóa- dân tộc, 2000, tr.6)

Suy nghĩ của anh (chị)?

Văn bản ngoài chương trình thuộc thể loại trữ tình mà học sinh chuyên văn cần đọc hiểu còn là những đoạn trích / tác phẩm thơ ca có liên quan đến những đoạn trích / tác phẩm thơ ca trong chương trình, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc văn bản được học, đồng thời có tư liệu để mở rộng, liên hệ, so sánh trong bài văn nghị luận văn học.

Ví dụ:

Để hiểu sâu về đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều, học sinh cần đọc hiểu thêm đoạn trích Thề nguyền, đoạn thơ thể hiện suy nghĩ, tâm trạng của Thúy Kiều trước khi trao duyên, để hiểu được bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi học sinh cần đọc thêm một số bài trong Quốc âm thi tập như Ngôn chí bài 10, Thuật hứng bài 19, Thuật hứng bài 24, Thuật hứng bài 5… Để hiểu bài thơ Vội vàng nói riêng và thơ Xuân Diệu nói chung, học sinh cần tìm đọc những bài thơ khác như: “Giục giã”, “Phải nói”, “Xa cách”…, để hiểu về thơ siêu thực, hiểu rõ hơn bài Đàn ghita của Lorca, học sinh cần đọc hiểu thêm một số bài thơ của Lorca như Ghi nhớ; Ghita khóc; Mộng du; Trăng, trăng…

  1. Văn bản kịch

Trong chương trình Ngữ văn THPT, số lượng văn bản kịch mà học sinh được học không nhiều. Tuy nhiên, với học sinh chuyên văn, việc mở rộng đọc hiểu văn bản kịch vẫn là cần thiết giúp các em mở rộng phông kiến thức và có thể áp dụng vào bài làm văn nghị luận văn học khi cần thiết. Một số văn bản kịch học sinh nên tìm đọc như: đọc toàn văn văn bản kịch Vũ Như Tô, Romeo và Juliet, Hồn Trương Ba da hàng thịt. Ngoài ra, học sinh có thể đọc thêm một số văn bản kịch khác như: Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Nàng Sita (Lưu Quang Vũ), Cột đồng Mã Viện (Nguyễn Huy Tưởng)…

Số lượng văn bản ngoài chương trình là vô hạn, vô biên. Việc phân loại sẽ giúp học sinh đọc có định hướng, thuận lợi cho việc tìm kiếm và đọc hiểu văn bản. Tuy nhiên, phân loại văn bản ngoài chương trình là chưa đủ, việc tìm kiếm văn bản để đọc mở rộng kiến thức vẫn cần thêm những định hướng cụ thể khác từ giáo viên. Điều này sẽ được làm rõ ở mục 2.2.2.

1.2. Sự cần thiết của việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn

Đối với học sinh THCS, vì yếu tố độ tuổi nên việc tiếp cận và đọc hiểu văn bản ngoài chương trình chưa được chú ý nhiều. Bởi vậy, bước vào lớp 10, ngay cả học sinh chuyên Văn cũng khá bỡ ngỡ với những văn bản không có trong sách giáo khoa, không có gợi ý, hướng dẫn ở phần Hướng dẫn đọc bài cũng không có hoặc ít có trong những cuốn văn mẫu.

Trong khi đó, năng lực đọc hiểu văn bản là năng lực cần thiết để học sinh có thể vượt qua các kì thi quan trọng trong chương trình THPT. Từ năm học 2013 – 2014, các đề thi cấp quốc gia (tốt nghiệp, đại học) đều có một phần bài tập kiểm tra đánh giá năng lực này. Xu hướng kiểm tra đánh giá mới là thay vì kiểm tra đánh giá sự ghi nhớ những kiến thức của học sinh (kiến thức do giáo viên đọc hộ, hiểu hộ, cảm hộ), thì các đề thi kể từ năm học 2013 – 2014 chuyển sang kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh, năng lực tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản. Phần kiểm tra đánh giá này chiếm 30% tổng số điểm trong đề thi THPT quốc gia với 1 văn bản và 4 câu hỏi nên học sinh phải có sự chuẩn bị tốt về kiến thức và kĩ năng để có thể đạt điểm cao.

Không chỉ đề thi THPT quốc gia mà đề thi học sinh giỏi các cấp cũng đòi hỏi cao về kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình, gồm cả câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Bởi vậy, việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn là cần thiết. Cụ thể, việc rèn luyện này sẽ giúp học sinh thực hiện tốt những vấn đề sau:

1.2.1 Giúp học sinh xác định đúng và trúng vấn đề cần nghị luận

Trong cấu trúc của đề thi học sinh giỏi khu vực và quốc gia, câu nghị luận xã hội thường đưa ra vấn đề trong một câu nói ngắn gọn súc tích hoặc một câu chuyện. Một số đề thi trong những năm gần đây:

Đề thi học sinh hỏi quốc gia năm học 2016

Câu 1 (8,0 điểm)

Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến của Oliver Wendell Holmes: “Điều quan trọng không phải là chúng ta có được vị trí nào trong cuộc đời, mà là đích đến cuối cùng của chúng ta ở đâu”.

Câu 2 (12,0 điểm)

Marcel Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.

Bằng trải nghiệm văn học của bản thân, anh/chị hãy bình luận những nhận định trên.

Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2017

Câu 1. Nghị luận xã hội (8 điểm)

Ngày xưa, ở một xứ nọ, có một vị vua rất yêu đàn gia súc của mình. Khi phải chuyển chúng từ vườn thượng uyển ra nuôi ở ngoài đồi núi, ngài cần một người hoàn toàn tin cậy để trông nom. Cất công đi khắp nơi, cuối cùng, quan quân tìm được bác nông dân Masaro người được coi là thật như đếm. Vua truyền cứ cuối tuần, bác phải vào cung bẩm báo trung thực về đàn gia súc. Mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Sự trung thực của Masaro làm nhà vua rất hài lòng và cũng khiến ngài nhận ra tư cách thấp kém của nhiều cận thần. Do đố kị, quan tể tướng đã dèm pha rằng, trên đời làm gì có người thật thà như thế, và xúc xiểm: lần tới Masaro sẽ nói dối vua. Do tin tưởng Masaro, nhà vua đặt cược: nếu Masaro nói dối, sẽ bị chém đầu. Còn tể tướng cũng cược cả mạng sống của mình, nếu Masaro vẫn nói thật.

Để giúp chồng thắng cược, vợ tể tướng đã cải trang thành một phụ nữ sang trọng, quyến rũ, tìm gặp Masaro ngỏ ý sẵn sàng đổi tất cả trang sức, vàng ngọc cùng nụ hôn để lấy một con cừu, đồng thời bày cho Masaro cách nói dối vua sao cho trót lọt. Nhưng Masaro đã kiên quyết từ chối. Thất bại, bà ta bèn sắm vai một người mẹ đau khổ đang cần sữa bò để cứu đứa con trai duy nhất khỏi trọng bệnh. Lần này Masaro đã mủi lòng, mà tự ý cho đi con bò yêu quý của vua. Đem được con bò về cung, vợ chồng tể tướng yên chí mình thắng cược.

Biết đã phạm trọng tội, Masaro tìm cách nói dối. Nghĩ được cách nào, bác đều tập theo cho nhập vai. Cuối cùng bác đã chọn được cách ưng ý nhất. Khi vào chầu, trước mặt đức vua và quần thần, Masaro đã kể ra hết sự thật. Bác nói rõ ràng con bò ấy cần cho người đàn bà khổ hạnh hơn là cần cho nhà vua, và sẵn sàng chịu tội. Nghe xong, nhà vua khen ngợi Masaro là người không sợ quyền uy và muốn trọng thưởng cho bác. Thật bất ngờ, phần thưởng mà Masaro xin nhà vua lại chính là tha chết cho kẻ thua cược. Hơn thế, bác còn cám ơn ông ta vì nhờ có tình thế này, bác mới biết chắc chắn mình là Masaro Thật – Như – Đếm.

(Phỏng theo Masaro Thật – Như – Đếm, truyện cổ tích Italia,
bản dịch của Nguyễn Chí Được, Báo văn nghệ, số 50/10-12-2016)

Bài học cuộc sống mà anh chị tâm đắc nhất từ câu chuyện trên?

Câu 2: Nghị luận văn học (12,0 điểm)

Mỗi nhà văn chân chính bước lên văn đàn, về thực chất, là sự cất tiếng bằng nghệ thuật của một giá trị nhân văn nào đó được chưng cất từ những trải nghiệm sâu sắc trong trường đời.

Bằng những hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

Với những đề văn như trên, học sinh cần nhuần nhuyễn kĩ năng đọc hiểu văn bản, có sự nhanh nhạy nhất định với những văn bản ngoài chương trình mới có thể hiểu đúng và trúng vấn đề nghị luận được đặt ra trong một câu nói hay một câu chuyện.

1.2.2 Giúp học sinh mở rộng phông kiến thức

Điều này thật sự cần thiết đối với bài văn nghị luận văn học của học sinh giỏi Văn. Để làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra, một học sinh giỏi văn không chỉ biết vận dụng chính xác, hợp lý những kiến thức về văn bản văn học trong chương trình mà còn phải liên hệ, mở rộng tới những văn bản ngoài chương trình tại những vị trí phù hợp. Có như vậy, bài văn mới được mở cả độ rộng lẫn chiều sâu, giúp vấn đề bàn luận được sáng rõ. Đây cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện người viết có phông kiến thức rộng, ham đọc, ham tìm tòi, ghi điểm sáng tạo đối với giám khảo. Để làm được điều này thì kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là vô cùng cần thiết. Các em cần hiểu đúng và nắm chắc nội dung, ý nghĩa của văn bản ngoài chương trình dự định sẽ đưa vào bài văn thì mới biết nên đặt ở vị trí nào cho phù hợp và thực sự phát huy hiệu quả. Những văn bản ngoài chương trình đó, hầu như học sinh phải tự tìm tòi, mở rộng. Vì vậy, việc trang bị và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn chính là yêu cầu tối quan trọng.

1.2.3 Giúp học sinh hiểu rõ và cảm thụ tốt hơn văn bản trong chương trình

Mỗi nhà văn không dừng lại ở một tác phẩm, mỗi chủ đề lại có nhiều tác phẩm khác nhau cùng thể hiện, bổ sung và soi chiếu sang nhau. Nhưng tác phẩm văn học được chọn đưa vào chương trình THPT là những tác phẩm tiêu biểu, được sàng lọc bởi thời gian, phù hợp với tầm tiếp nhận của học sinh. Tuy nhiên, rất nhiều văn bản trong chương trình chính khóa chỉ là một đoạn trích của tác phẩm. Nên, để hiểu sâu sắc nhất về văn bản trong chương trình thì việc đọc hiểu những phần văn bản còn lại của tác phẩm chính là một chiếc chìa khóa hữu dụng. Kiệt tác Truyện Kiều hay hai khúc ngâm giá trị trong nền văn học trung đại Việt Nam là những tác phẩm có dung lượng câu chữ lớn. Trích đoạn trong sách giáo khoa là tiêu biểu, nhưng để hiểu rõ nội dung ý nghĩa của đoạn trích đó cũng như của tác phẩm, học sinh cần phải hiểu được nội dung của những phần văn bản không được trích giảng. Để hiểu được tại sao Thúy Kiều lại phải trao duyên cho em gái là Thúy Vân hay tâm trạng giằng xé của Kiều khi trao duyên, học sinh cần đoc hiểu các đoạn văn bản trước đó như: Kim Trọng dạo chơi vườn Thúy; cảnh thề nguyền đính ước; cảnh sai nha đánh đập cha con Vương ông, Vương quan và vơ vét nhà Kiều đến “sạch sành sanh”

Ngay cả với những tác phẩm ngắn được trích giảng trọn vẹn trong chương trình như Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi) hay Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm), để hiểu rõ tác phẩm, học sinh cần đọc thêm những tác phẩm khác cùng chủ đề hoặc có liên quan. Để hiểu sâu về Thuật hoài, một học sinh chuyên văn cần biết đến những tác phẩm cũng nói chí, tỏ lòng như Ngôn hoài (Không Lộ Thiền Sư), cũng nói về chí làm trai như Chí làm trai (Nguyễn Công Trứ), cũng thể hiện hào khí Đông A như Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), cũng thể hiện một nỗi thẹn lớn như Thu vịnh (Nguyễn Khuyến)…

Do thời gian trên lớp có hạn, giáo viên không thể cung cấp, giảng dạy tất cả những tác phẩm ngoài chương trình kia. Bởi vậy, thầy cô cần trang bị cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình để học sinh tự tìm hiểu, có cái nhìn soi chiếu, mở rộng để hiểu sâu sắc nội dung của tác phẩm trong chương trình.

1.2.4. Gián tiếp rèn kĩ năng diễn đạt cho học sinh

Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy lối hành văn, diễn đạt của học sinh chuyên văn còn khá vụng về, vốn từ nghèo nàn khiến các em thường xuyên bị bí từ, viết lủng củng, viết mà người đọc khó hiểu. Có rất nhiều cách để rèn kĩ năng dùng từ, diễn đạt cho học sinh nhưng một trong những cách thức rất tốt là khuyến khích đọc và rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh. Những văn bản ngoài chương trình sẽ giúp học sinh được mở rộng vốn từ, học hỏi cách dùng từ, đặt câu, diễn đạt mới mẻ, hấp dẫn mà vẫn mạch lạc, rõ ràng. Đây là những yếu tố quan trọng để làm nên môt bài văn hay, giàu sức thuyết phục.

Có thể khẳng định, đối với học sinh chuyên văn, việc tiếp cận, đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là thực sự cần thiết. Sự mở rộng kiến thức ra những văn bản ngoài chương trình sẽ giúp các em không bỡ ngỡ, lúng túng khi gặp đề thi, có tầm nhìn khái quát khi nhìn nhận một vấn đề xã hội hay vấn đề văn học, có thể vận dụng so sánh liên tưởng để bài nghị luận của mình trở nên sâu sắc và thuyết phục hơn. Đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cũng giúp các em tư duy vấn đề tốt hơn, diễn đạt rõ ràng và hấp dẫn điều mình nghĩ khiến bài văn thu hút người đọc.

 

CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN

2.1. Một số nguyên tắc khi đọc hiểu văn bản

2.1.1. Đối với văn bản nói chung

Văn bản ngoài chương trình trước hết là một văn bản. Bởi vậy, đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cần chú ý một số nguyên tắc như sau:

  1. Xác định loại văn bản

Đều là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, sử dụng ngôn từ làm chất liệu nhưng mỗi loại văn bản khác nhau sẽ có cách thể hiện nội dung khác nhau. Bởi vậy, bước đầu tiên của đọc hiểu văn bản là phải xác định đúng loại văn bản. Ở bước này, học sinh cần nắm chắc các đặc điểm của văn bản phân chia theo phương thức biểu đạt (văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, hành chính, nghị luận), theo phong cách chức năng ngôn ngữ (văn bản sinh họat, báo chí, khoa học, hành chính, chính luận, nghệ thuật) để xác định.

Ví dụ 1:

                                                  “Mẹ ta không có yếm đào

                                         nón mê thay nón quai thao đội đầu

                                                 rối ren tay bí tay bầu

                                        váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa

 

                                                 Cái cò… sung chát đào chua…

                                        câu ca mẹ hát gió đưa về trời

                                                 ta đi trọn kiếp con người

                                         cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)

Đoạn văn bản trên thuộc loại văn bản nghệ thuật

Ví dụ 2:

“Một màn leo trèo rào sắt “như trong phim” vừa diễn ra ở Công viên nước Hồ Tây sáng nay 19-4-2015. Nguyên do cũng là bởi, để giành cho được một suất miễn phí vào cổng Công viên nước.

Cả nghìn người đã đổ về Công viên nước Hồ Tây để nhận vé vào cửa miễn phí nhân kỷ niệm 15 năm công viên này ra đời. Thời gian khuyến mại có hạn, chỉ từ 8-10h sáng. Khách đến đông đột xuất, quá tải, công viên bèn đóng cửa. Thế là bất chấp những nguy hiểm từ hàng rào sắt nhọn hoắt, những đứa trẻ mới chỉ lên 5 lên 3 được bố mẹ bế bồng, nâng đẩy cố sức trèo vào. Những cô gái mới chỉ đôi mươi xúng xính váy áo cũng trèo, mặc cho ở dưới trăm nghìn con mắt của nam phụ lão ấu nhìn hất lên. Nhiều cô khi trèo qua được hàng cọc sắt nhọn, đã bị rách tan cả váy lẫn quần. Ấy thế mà vẫn cứ kiên quyết trèo. Màn trèo leo còn được tham dự bởi các cô gái trong trang phục bikini. Mỗi bước nhấn lên của các cô gái, đám đông ở dưới hò hét cổ vũ, tiếng hò hét hệt như liều doping về tinh thần, tạo động lực cho các “vận động viên” gắng sức nhiệt tình đua tranh cho bằng được. 

Thật không thể tin nổi, màn vượt rào bất chấp nguy hiểm, đánh cược cả sự kín đáo, duyên dáng nữ tính kia chỉ là để giành cho được một suất tắm miễn phí ở Công viên nước. Thế mới thấy cái sự miễn phí kia (dù chẳng đáng là bao) nó hấp dẫn con người ta đến độ lú lẫn, mù quáng. Một vài người tham gia cuộc vượt rào đầy tai tiếng này bảo, đã đến đây (Công viên nước) thì kiểu gì cũng phải vào, cho bõ cái công đi lại. Ngẫm ra, có khi cái tâm lý đám đông quyết được-thua chính là nguyên nhân, chứ cũng chẳng phải lỗi do giáo dục hay xuống cấp về văn hóa, mà những thí dụ nhãn tiền về sự “ăn thua đủ” này vốn xưa nay có đầy. Liệt kê ra khéo cả ngày cũng không hết”

(Trích Ở đâu có miễn phí, ở đó có tranh cướp? https://anninhthudo.vn ngày 19-044-2015)

Đoạn văn bản trên thuộc loại văn bản báo chí.

  1. Đọc hiểu nội dung, hình thức của văn bản
  • Đọc hiểu nội dung

Văn bản có tính thống nhất về nội dung, mỗi văn bản lại hướng đến thể hiện một nội dung nhất định. Bởi vậy, bước tiếp theo của đọc hiểu văn bản là học sinh cần xác định đúng, trúng và toàn diện nội dung của văn bản. Để làm được điều này, học sinh cần căn cứ vào các yếu tố trên bề mặt ngôn từ như: nhan đề văn bản, nguồn trích dẫn văn bản (nếu là một đoạn trích), những từ ngữ quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong văn bản, mối quan hệ giữa các vế câu, giữa các câu, các đoạn văn trong văn bản.

Lưu ý: khi đọc hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, người đọc cần phải đặt văn bản đó trong mối quan hệ tương tác với chính nó và với các yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh ra đời, thời đại, bối cảnh văn hóa, những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề để hiểu được các tầng ý nghĩa của văn bản.

Ví dụ: Lời Kim Trọng nói với Thúy Kiều trong cảnh đoàn viên

“Như nàng lấy hiếu làm trinh

Bụi nào cho đục được mình ấy vay”

Hai câu thơ thể hiện cái nhìn đầy trân trọng, yêu thương của Kim Trọng đối với Thúy Kiều, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm nàng Kiều, cho dù nàng đã trải qua “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Đặt trong bối cảnh xã hội, văn hóa của thế kỉ XVIII, khi mà quan niệm Nho giáo về chữ “trinh” của người phụ nữ vô cùng khắt khe, nặng nề, ta thấy được cái nhìn nhân văn, tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du: bước qua hàng rào lễ giáo phong kiến để nhận ra và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm con người ngay cả khi họ bị đày ải vào chốn bùn nhơ.

  • Đọc hiểu hình thức của văn bản

Một văn bản luôn có sự thống nhất về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Bởi vậy, song song với đọc hiểu nội dung, học sinh cần phải đọc hiểu hình thức thể hiện của văn bản đó. Học sinh cần phân tích được các đặc điểm về bố cục văn bản, các phương tiện liên kết câu, đoạn trong văn bản, cách dùng từ trong văn bản, các biện pháp tu từ (nếu có). Những đặc điểm về hình thức cũng là căn cứ để học sinh xác định trúng và toàn diện nội dung ý nghĩa của văn bản.

2.1.2. Đối với văn bản văn học

Với văn bản văn học, phương pháp đọc hiểu ngoài những nguyên tắc chung như trên lại có những lưu ý riêng. Để đọc hiểu một văn bản văn học, học sinh cần trải qua các bước sau:

  • Đọc hiểu ngôn từ

Ngôn từ là chất liệu tạo nên tác phẩm văn học. Vì vậy, học sinh cần đọc thông suốt toàn văn bản, hiểu được các từ khó, lạ, các điển cố, phép tu từ… Đối với thơ, học sinh cần đọc thuộc để ấn tượng về âm hưởng, hình ảnh thơ sẽ ăn sâu vào tâm trí. Với văn xuôi, người học cần nắm được cốt truyện và các chi tiết từ mở đầu đến kết thúc.

Đọc – hiểu văn bản ngôn từ là tiền đề cho đọc kĩ và đọc sâu. Đọc kĩ là tìm ra mạch ý và đọc sâu là phát hiện vấn đề. Mạch ý là sự liên kết từ câu này sang câu khác, từ đoạn này sang đoạn khác. Hiểu được mạch văn mới hiểu được đúng ý tứ của văn bản. Phải đọc kĩ mới phát hiện điểm đặc sắc, khác thường, thú vị.

Ví dụ:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Trong 2 câu thơ mà có 4 từ xuân đươc lặp lại trong cấu trúc điệp: xuân…nghĩa là….xuân… Đặt trong văn cảnh thì “xuân” không chỉ là mùa xuân mà còn là tuổi xuân, là thời gian. Thời gian đương tới và cũng là đương đi qua, xuân còn non đấy mà nhìn thấy sẽ già. Các từ ngữ kết nối gợi cho người đọc cảm nhận về bước đi vô hình mà khắc nghiệt của thời gian. Thời gian tựa như một đoàn tàu tốc hành từ tương lai đến nhưng cũng đang vội vã đi vào quá khứ. Câu thơ thoáng chút băn khoăn, lo sợ trước sự chảy trôi của thời gian, sợ mùa xuân, tuổi xuân trôi đi mất. Phải đọc kĩ từng từ ngữ trong mối liên quan kết nối, người đọc mới có thể phát hiện ra mạch ý của lời thơ, thấy được sự khác thường, thú vị trong câu thơ của tác giả.

  • Đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật

Hình tượng trong văn bản văn học ẩn chứa nhiều tầng lớp ý nghĩa. Vì vậy, khi đọc hiểu hình tượng nghệ thuật, người đọc phải tưởng tượng, “cụ thể hóa” các tình cảnh để hiểu được những điều mà ngôn từ chỉ có thể biểu đạt khái quát.

Ví dụ, trong đoạn trích Trao duyên, Thúy Kiều mở lời bằng một câu nói như đã được cân nhắc bằng cả một đêm suy tư, trăn trở:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

“Cậy” “nhờ” là những từ đồng nghĩa. Nh­ưng “nhờ” mang sắc thái bình thường, có thể tuỳ ý nhận lời, không ép buộc. Còn “cậy” bao hàm ý nhấn mạnh, tỏ ý tha thiết với sự việc quan trọng, hơi hạ mình và gửi trọn niềm tin vào ng­ười nghe, d­ường như­ nếu ng­ời nghe không nhận lời thì người kia sẽ rơi vào đau khổ, bi kịch. “Chịu lời” “nhận lời” cũng có hàm nghĩa tư­ơng tự nhau, như­ng “nhận” có ý nghĩa đư­ợc hỏí ý kiến, đư­ợc suy tính lựa chọn còn “chịu” hàm nghĩa bị gán ép, bắt buộc, nhận làm một việc mà mình không tự nguyện hoặc rất khó từ chối. Chữ “cậy” ứng với chữ “chịu lời” đã đư­ợc Nguyễn Du cân nhắc rất kĩ, khiến câu mở lời của Kiều vừa là một lời ­ướm hỏi nh­ưng thực chất là cầu xin, nài ép em phải nghe mình, phải nhận điều mà mình sắp nhờ cậy.

Kiều mở lời nhờ em mà kèm theo hành động “lạy, thư­a”, khiến vị thế chị em bị đảo lộn. Kiều đặt Vân trang trọng lên trên mình, trở thành ng­ời ban ơn còn mình là kẻ chịu ơn. Kiều đã tạo cho cuộc nói chuyện một không khí trang trọng, thiêng liêng khiến câu chuyện sắp nói trở thành vấn đề hệ trọng. Thái độ của Kiều là sự gửi gắm, nhờ cậy, tin t­ưởng tuyệt đối, nhún mình đề cao Vân.

Như vậy, người đọc phải tưởng tượng, hình dung một tình cảnh cụ thể, phải có năng lực “cụ thể hóa” để có thể cảm nhận hết nội dung, ý nghĩa của lời thơ.

Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật còn đòi hỏi người đọc phải biết phát hiện các mâu thuẫn tiềm ẩn và các chi tiết độc đáo để tìm ra cái lý của văn bản. Phải khám phá logic bên trong hình tượng nghệ thuật thì người đọc mới thực sự hiểu ý nghĩa bề sâu của các hiện tượng văn học bề ngoài có vẻ như mâu thuẫn. Đọc đoạn trích Uy-lit-xơ trở về, học sinh cần lí giải được tại sao Penelop – một người vợ đã thủy chung chờ chồng suốt hơn hai mươi năm mà khi chồng trở về lại lạnh nhạt và chưa muốn đón nhận ngay. Đó là bởi nàng là một người phụ nữ thận trọng và sự thận trọng đó càng là minh chứng rõ rệt cho sự thủy chung của một người vợ.

  • Đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học

Tư tưởng, tình cảm của tác giả cũng là của văn bản, thường được hiểu là toát ra từ hình tượng. Đó là vì tư tưởng, tình cảm đã thấm sâu vào trong văn bản, thể hiện ở trong lời, ngoài lời, giữa câu chữ. Điều này đòi hỏi học sinh phải phán đoán từ mối quan hệ của các nhân vật, ở thái độ và cách miêu tả. Nắm bắt được tư tưởng, tình cảm của tác giả là một biểu hiện của đọc sáng tạo, bởi vì các tư tưởng ấy nói chung không hề được cung cấp sẵn trong văn bản.

  • Đọc – hiểu và thưởng thức văn học

Đó là khi người đọc đã đọc – hiểu, đã phát hiện một điều gì mới, góp phần khẳng định tư tưởng, tình cảm của bản thân mình. Đó là khi người đọc nhận thấy tính chỉnh thể, toàn vẹn của tác phẩm, cảm nhận được sự thống nhất nội dung và hình thức, làm chủ được nội dung và hình thức của văn bản, biến văn bản của tác giả thành văn bản của chính mình. Đạt đến độ đọc thưởng thức là người đọc đạt đến niềm khoái cảm thẩm mĩ của việc đọc.

Thưởng thức văn học là trạng thái tinh thần vừa bừng sáng với sự phát hiện chân lý đời sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của tác giả, vừa hưởng thụ ấn tượng sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Đó là đỉnh cao của đọc hiểu văn bản văn học, mang lại cho người đọc cảm giác sung sướng, hạnh phúc. Mượn lời nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, nhà văn Nam Cao đã khẳng định: “Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!… Mình có hiểu không? … Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này…”

2.2. Cách thức rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình

Để học sinh có thể dễ dàng, chủ động kiếm tìm kiến thức, nắm được nội dung, nghệ thuật của một văn bản lạ, ngay từ những buổi học đầu tiên của lớp 10, giáo viên cần hướng dẫn và rèn giũa kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh. Học sinh thành thạo kĩ năng này là giáo viên đã bớt được 1/3 gánh nặng trong việc chèo lái con đò cập bến tri thức.

Lượng văn bản ngoài chương trình có liên quan đến văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học là rất lớn. Một người giáo viên dù có nhiều năm kinh nghiệm cũng khó lòng bao quát hết. Hơn nữa, nếu giáo viên chỉ là người ra đề và học sinh thực hiện các bước đọc hiểu thì e rằng chưa phát huy hết năng lực của học sinh chuyên văn. Bởi vậy, chúng tôi thiết nghĩ cần phải rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh trong mối tương quan đồng thời với các năng lực khác như năng lực tự học, làm việc hợp tác, phản biện, giải quyết vấn đề,… Chúng tôi lập kế hoạch và thực hiện rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh theo những phương pháp như sau:

2.2.1. Khuyến khích học sinh chủ động kiếm tìm văn bản ngoài chương trình

Bể kiến thức là vô biên, một người kiếm tìm không thể bằng công sức của 30 người. Bởi vậy, thay vì việc ngay lập tức đưa văn bản, giao bài tập và hướng dẫn học sinh, chúng tôi khuyến khích các em tự tìm văn bản. Đó là những câu danh ngôn, châm ngôn, tục ngữ, những câu chuyện nhỏ hoặc bài thơ hàm chứa nội dung triết lý sâu xa, những tác phẩm văn học liên quan đến tác phẩm trong chương trình, những đoạn trích khác của những tác phẩm được trích giảng…

Vừa bước ra từ cổng trường cấp 2, các em rất hào hứng nhưng không khỏi bỡ ngỡ trước việc này, nên giáo viên cần gợi dẫn những cách thức để kiếm tìm văn bản chất lượng, những địa chỉ mà các em có thể đến để nghiên cứu. Phương tiện thông dụng nhất mà các em có thể tìm kiếm nhanh chóng là internet. Đồng thời, học sính có thể tìm đến các nhà sách địa phương để tìm mua những cuốn sách hay theo gợi của của giáo viên như: Bộ sách quà tặng cuộc sống của Dr. Bernie S. Siegel, bộ sách Tôi tin tôi có thể làm được của tác giả Tôn Vân Hiểu, Chu Nam Chiếu, cuốn Những giá trị sống cho tuổi trẻ của tác giả Diane Tillman…; Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Du, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Học sinh cũng có thể tìm kiếm văn bản trong những cuốn sách văn mẫu, hướng dẫn làm bài văn nghị luận xã hội.

Để việc tìm kiếm văn bản của học sinh hiệu quả, giáo viên cần đưa ra các tiêu chí tìm kiếm và giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh. Giáo viên có thể xây dựng bộ tiêu chí tìm kiếm văn bản ngoài chương trình như sau:

-Tiêu chí 1: Tìm kiếm văn bản theo chủ đề

+ Nghị luận xã hội: Học sinh tìm kiếm văn bản (danh ngôn, châm ngôn, tục ngữ, câu chuyện, bài thơ / đoạn thơ) theo các chủ đề như: hạnh phúc, đam mê, nghị lực sống, mối quan hệ thành công và thất bại, lòng tự trọng, đức hy sinh, lòng dũng cảm, tình yêu thương…

+ Nghị luận văn học: Học sinh tìm kiếm văn bản theo chủ đề như: lòng yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người phụ nữ từ văn học dân gian đến văn học trung đại Việt Nam, hào khí Đông A trong văn học Lí – Trần, hình tượng người nông dân trong văn học hiện thực phê phán 1930-1945, cái Tôi trong Thơ mới 1930-1945…

-Tiêu chí 2: Tìm kiếm theo thể loại

Giáo viên cũng có thể định hướng học sinh tìm văn bản theo thể loại. Ví dụ, học bài Một số thể loại văn học: thơ, truyện trong chương trình Ngữ văn 11, tập 1, giáo viên yêu cầu học sinh tìm kiếm những văn bản ngoài chương trình thuộc thể loại thơ, truyện để làm dẫn chứng minh họa cho kiến thức lí luận. Đối với nghị luận xã hội, giáo viên có thể giao nhiệm vụ tìm kiếm văn bản theo thể loại (có kết hợp với tiêu chí chủ đề) như: Hãy tìm những câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn nói về hạnh phúc.

-Tiêu chí 3: Tìm kiếm theo tác giả

Giáo viên lấy những tác giả văn học trong chương trình làm trung tâm để hướng dẫn học sinh mở rộng tìm kiếm văn bản. Ví dụ, học truyện ngắn Chí Phèo, Đời thừa của nhà văn Nam Cao, giáo viên yêu cầu học sinh tìm đọc những truyện ngắn, tiểu thuyết khác về đề tài người nông dân, người trí thức của Nam Cao để mở rộng kiến thức.

-Tiêu chí 4: Tìm kiếm theo giai đoạn văn học

Vẫn bám sát chương trình sách giáo khoa, giáo viên có thể giao nhiệm vụ tìm kiếm văn bản ngoài chương trình theo giai đoạn văn học. Ví dụ, học bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng 8 năm 1945, giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: Hãy tìm kiếm những văn bản ngoài chương trình thuộc giai đoạn văn học đầu thế kỉ XX-1945 (gồm các thể loại khác nhau)

-Tiêu chí 5: Tìm kiếm theo khuynh hướng, trào lưu

Khuynh hướng, trào lưu cũng có thể là một tiêu chí giáo viên đưa ra để định hướng học sinh tìm kiếm văn học. Ví dụ, giáo viên yêu cầu học sinh tìm những văn bản ngoài chương trình thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945

Tùy thực tế giảng dạy, giáo viên có thể tư duy những tiêu chí khác nữa để định hướng và thúc đẩy học sinh tìm kiếm văn bản ngoài chương trình một cách hiệu quả nhất. Một điều đáng lưu ý là song song với việc giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra, đánh giá kết quả tìm kiếm. Có như vậy, hoạt động tìm kiếm này mới thật sự tích cực và hiệu quả.

Với những định hướng được gợi dẫn trên này cùng sự khích lệ, tổ chức thi đua, kiểm tra đánh giá từ giáo viên, chắc chắn học sinh sẽ mang về kết quả là những câu nói, bài báo, câu chuyện, bài thơ các em tâm đắc nhất trong quá trình tìm kiếm. Đó là đã bước đầu thành công của việc rèn kĩ năng tiếp cận, đọc hiểu một văn bản ngoài chương trình đối với học sinh chuyên Văn.

2.2.2. Hướng dẫn học sinh giải mã văn bản bằng những câu hỏi

Đây chính là khâu quan trọng nhất trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh. Để học sinh phát huy tối đa năng lực của bản thân, giáo viên cần tổ chức hoạt động học để học sinh tự tìm ra nội dung ý nghĩa văn bản chứ không phải là cảm nhận nội dung qua lời thuyết trình giảng giải của giáo viên. Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy một phương pháp hiệu quả là tổ chức seminar để học sinh được thảo luận, tranh biện về một số văn bản ngoài chương trình đã được giáo viên hướng dẫn chọn lọc.

  1. Trang bị và củng cố kiến thức nền tảng

Trước khi tiến hành seminar, trong những buổi học trước, giáo viên cần trang bị và củng cố lại những kiến thức nền tảng cần thiết cho đọc hiểu văn bản. Kiến thức nền tảng bao gồm:

-Kiến thức về Tiếng Việt: Phương thức biểu đạt, các biện pháp tu từ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn, các cách trình bày ý trong một đoạn văn, câu chủ đề, trường từ vựng, các phương tiện liên kết… Khi nắm chắc những kiến thức trên, học sinh sẽ khám phá nội dung, ý nghĩa của văn bản mới một cách dễ dàng hơn.

– Kiến thức văn học sử: Để có thể tự đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là những tác phẩm văn học, học sinh cần nắm chắc kiến thức cơ bản về giai đoạn văn học, khuynh hướng, trào lưu văn học, tác gia văn học…

– Kiến thức về lí luận văn học: Học sinh cần được trang bị kiến thức lí luận văn học như đặc trưng thể loại văn học, nhân vật văn học, ngôn từ nghệ thuật, phong cách văn học, phương pháp sáng tác…

Những kiến thức nền tảng đó không phải được cung cấp, củng cố trong ngày một ngày hai mà đó là một quá trình dài hơi suốt 3 năm THPT để học sinh có thể dần dần tiếp nhận, hiểu thấu.

  1. Định hướng học sinh tìm ra bộ câu hỏi chìa khòa để giải mã văn bản

Để giúp học sinh tìm ra bộ câu hỏi chìa khóa giải mã văn bản mới, giáo viên có thể áp dụng phương pháp hoạt động nhóm, để học sinh được mày mò, trăn trở với văn bản, tìm ra nội dung, ý nghĩa của văn bản và rút ra bộ câu hỏi chìa khóa giải mã văn bản.

Với mỗi nhóm loại văn bản, giáo viên chọn 1 văn bản tiêu biểu trong số những văn bản học sinh đã tìm kiếm, chia lớp thành 4 nhóm và tiến hành thảo luận về nội dung, ý nghĩa của văn bản. Sau đó, giáo viên chốt kiến thức (nội dung, ý nghĩa của văn bản; cách thể hiện nội dung ý nghĩa đó trong văn bản) và giúp học sinh tự rút ra phương pháp đọc hiểu một văn bản hoàn toàn mới lạ. Giáo viên định hướng cho học sinh tìm ra bộ câu hỏi chía khóa để giải mã văn bản cùng loại. Dựa trên cơ sở thực tế áp dụng, chúng tôi đã định hướng cho học sinh bộ câu hỏi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình theo thể loại văn bản như sau:

b1. Câu nói triết lý: tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn

Đặc điểm của dạng văn bản này là ngắn gọn, hàm súc, sử dụng cách nói giàu hình ảnh để truyền tải nội dung. Bởi vậy, hệ thống các câu hỏi để giải mã văn bản cần bám sát, xoáy sâu vào từ ngữ, hình ảnh, mối quan hệ giữa các vế câu (nếu có).

– Đâu là từ khóa (từ ngữ, hình ảnh mang sức nặng nội dung) của câu nói?

– Nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của những từ ngữ đó là gì?

– Câu nói gồm có mấy vế? Chỉ ra mối quan hệ giữa các vế câu?

– Từ những căn cứ trên, hãy chỉ ra nội dung ý nghĩa của câu nói?

Ví dụ:

Văn bản 1: “Ta mong với trời cao và biển rộng mà quên rằng hoa từ đất mà ra” (Thụy Thảo, Với tuổi – Báo Hoa Học Trò số 145 (năm 1996).

– Từ khóa: trời cao, biển rộng, hoa từ đất

– Nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của từ khóa

+ trời cao, biển rộng: Không gian rộng lớn bao la, ẩn dụ chỉ những điều vĩ đại, lớn lao.

+ hoa: hiện thân cho cái đẹp, giá trị, ý nghĩa

+ từ đất mà ra: Ý nghĩa, giá trị cuộc sống nằm trong những điều nhỏ bé, giản dị, đời thường.

– Câu nói có 2 vế:

Vế 1: Ta mong với trời cao và biển rộng

Vế 2: quên rằng hoa từ đất mà ra

Quan hệ từ nối 2 vế:

Mối quan hệ giữa 2 vế câu: đối lập, đồng thời vế 2 là hệ quả của vế 1

– Nội dung ý nghĩa của câu nói: Trong cuộc sống, con nguồi đôi khi vì mải chạy theo những điều vĩ đại, lớn lao mà quên mất những điều nhỏ bé, đời thường, giản dị nhưng lại là nền tảng tạo nên cuộc sống.

Văn bản 2: “Đừng đi theo lối mòn, hãy băng qua những nơi không có dấu chân người để tạo ra những con đường” (R. W. Emerson).

– Từ khóa: lối mòn, nơi không có dấu chân người, con đường.

– Nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của những từ chía khóa:

+ lối mòn: những con đường có sẵn, đã nhiều người đi, ẩn dụ chỉ những cách nghĩ, cách làm quen thuộc.

+ nơi không có dấu chân người: nơi chưa từng có con đường, chưa từng có người qua lại, ẩn dụ chỉ những cách nghĩ, cách làm chưa hề có, hoàn toàn mới mẻ.

+ băng qua: dũng cảm, mạnh mẽ vượt qua khó khăn.

+ con đường: đường đi, ẩn dụ chỉ nếp nghĩ, cách thức làm việc được tạo ra sau một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm.

– Nội dung ý nghĩa của văn bản: E.W. Emerson  đề xuất một lối sống tích cực, chủ động, dấn thân trước mọi hoàn cảnh: con người phải luôn luôn vượt qua những lối tư duy, cách nghĩ quen thuộc, có sẵn để xác lập những giá trị mới.

b2. Văn bản báo chí

Với những văn bản thuộc loại văn bản báo chí, học sinh cần nắm được bộ câu hỏi chía khóa để giải mã văn bản như sau:

What: Vấn đề được đề cập đến trong văn bản là gì?

How: Vấn đề đó được thể hiện như thế nào, qua những chi tiết, từ ngữ nào trong văn bản?

Câu hỏi này có thể được giải đáp thông qua những căn cứ:

+ Nhan đề là gì?: Nhan đề là một từ hoặc một cụm từ ngắn gọn, thâu tóm nội dung ý nghĩa của văn bản nên đây là một căn cứ quan trọng để xác định chủ đề văn bản, nhất là với những văn bản thơ.

+ Nguồn trích dẫn văn bản?: Một số văn bản trích dẫn không có nhan đề. Đó có thể là một đoạn trong một bài báo được đăng tải. Khi đó, nguồn trích dẫn văn bản là một căn cứ quan trọng để xác định nội dung của đoạn văn bản đó. Nguồn trích dẫn chính là phần nằm trong dấu ngoặc đơn ở cuối văn bản.

+ Đâu là câu chủ đề của văn bản? Nếu là một đoạn văn bản trích trong một bài báo, thường có câu chủ đề nêu khái quát nội dung văn bản. Học sinh cần nắm chắc kiến thức về các cách trình bày ý trong một đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành, tổng phân hợp…), nhanh nhạy phát hiện câu chủ đề để từ đó gợi mở ra nội dung văn bản.

+ Từ chìa khóa, những từ cùng trường từ vựng, từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần: Đây là những từ ngữ có khả năng nói được nhiều nhất về nội dung của văn bản nên khi đọc, học sinh cần có ý thức gạch chân dưới những từ ngữ này, xâu chuỗi chúng lại để tìm ra mạch ý nghĩa của văn bản.

Why: Vấn đề đó đúng hay không đúng, tại sao?

Đây là một câu hỏi then chốt giúp học sinh tìm hiểu văn bản ở một tầng sâu hơn, lí giải về nội dung, ý nghĩa của văn bản. Câu hỏi này cũng giúp học sinh tìm ý để có thể làm tốt bài văn nghị luận xã hội.

Với bộ câu hỏi chìa khóa này, học sinh sẽ dễ dàng khám phá bất cứ một văn bản ngoài chương trình nào, dù là chưa được thầy cô gợi dẫn.

Ví dụ: Văn bản 1: (đã trích dẫn ở mục 1.2.)

– Vấn đề được đề cập trong văn bản: yếu tố cơ bản tạo nên thành công của đội tuyển U23 Việt Nam và những thách thức mà các cầu thủ có thể gặp phải sau chiến thắng.

– Vấn đề đó được thể hiện thông qua các yếu tố:

+ Nhan đề, nguồn trích dẫn: đoạn trích nằm trong bài báo “Đôi chân trên mặt đất”. Nhan đề sử dụng cách nói hình ảnh để đề cập tới đối tượng là những cầu thủ bóng đá, những con người vừa làm nên kì tích bằng đôi chân sút của mình.

+ Câu chủ đề:

. Tôi ngẫm nghĩ lại: vì sao các em hôm nay được yêu mến đến thế? Và tôi chỉ tìm thấy một câu trả lời: tuổi trẻ: Câu văn khái quát và khẳng định tuổi trẻ căng đầy sức sống với khát vọng của những thanh niên hiện đại, được giáo dục đầy đủ, tiếp thu những văn minh hiện đại đang chiến đấu vì niềm tự hào quốc gia khiến các cầu thủ U23 Việt Nam trở thành những thần tượng mới.

. Nhưng đi kèm với những lợi thế của một lớp trẻ văn minh là những hiểm họa của một thời đại công nghệ: Câu văn nêu một ý lớn thứ 2 của đoạn văn bản: Những hiểm họa của một thời đại công nghệ có thể là thách thức lớn của các cầu thủ sau chiến thắng.

+ Những từ khóa được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: U23 Việt Nam; rồi các em sẽ thấy – các em sẽ thấy – rồi những; hãy nhớ. Những từ ngữ này được lặp lại nhiều lần theo phép nghệ thuật điệp ngữ, tạo giọng điệu nhấn mạnh, khẳng định: nhấn mạnh những thử thách các cầu thủ sẽ gặp phải là những lời khuyên để vượt qua thách thức đó.

– Vấn đề được để cập đến trong văn bản là hoàn toàn đúng, thể hiện tầm nhìn sâu sắc của một con người từng trải và am hiểu những vấn đề của thời đại công nghệ, nhìn thấy mặt tích cực và cả những hạn chế của nó.

+ Đội tuyển U23 Việt Nam làm nên kỳ tích bởi có sức mạnh của tuổi trẻ căng đầy khát vọng. Nhờ đó mà các cầu thủ có thể vượt qua được mọi khó khăn, thử thách, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết, sự chênh lệch về thể trạng, sự khác biệt về thứ hạng…

+ Sau chiến thắng, U23 Việt Nam sẽ còn vô vàn những thử thách, trong đó có những thách thức đến từ những hiểm họa của thời đại công nghệ. Các cầu thủ sẽ được bủa vây trong truyền thông, được tung hô trên các trang mạng, được nhiều người theo dõi trên các trang mạng xã hội… Tất cả những điều đó dễ khiến con người ngủ quên trên chiến thắng mà không vượt qua được chiến thắng để vươn tới mốc cao hơn. Thậm chí, những lời đề nghị sẽ đến, từ lịch sự cho đến khiếm nhã, từ thương mại cho đến tì nh áicó thể khiến các cầu thủ sa ngã nếu không đủ bản lĩnh.

+ Để vượt qua thách thức đó, trước khi quyết định điều gì, hãy nhớ về cái giây phút mà các em chơi bóng lần đầu (trở lại với đam mê, tình yêu nguyên sơ với bóng đá…). Chính tình yêu với bóng đã sẽ giúp các cầu thủ đi xa hơn trong sự nghiệp và không vướng vào những cạm bẫy của xã hội hiện đại.

b3. Văn bản nghiên cứu

* Văn bản nghiên cứu khoa học

Như ở mục 1.1 đã phân loại, văn bản nghiên cứu thuộc đối tượng tìm hiểu của chuyên đề này được chia thành 2 loại: văn bản nghiên cứu văn học và văn bản nghiên cứu các môn khoa học khác. Đối với văn bản nghiên cứu các môn khoa học khác, học sinh THPT thường được làm quen và cần đọc hiểu thêm những văn bản khoa học giáo khoa, khoa học thường thức. Chúng tôi nhận thấy, phương pháp đọc hiểu loại văn bản này có nhiều điểm tương đồng giống với loại văn bản báo chí. Bởi vậy, chúng tôi định hướng học sinh sử dụng bộ câu hỏi như đối với văn bản báo chí đã nêu trên. Điểm khác biệt là học sinh cần phải chú ý đến các số liệu được đưa ra trong văn bản. Các số liệu đó cũng là căn cứ để xác định chính xác nội dung của văn bản. Dưới đây là một ví dụ về một văn bản khoa học thường thức, về vấn đề bảo vệ môi trường:

Ví dụ:

Sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường

“Con người có thể nhịn ăn trong một tháng, nhịn khát trong ba ngày và chỉ nhịn thở được trong vòng ba phút. Không khí là để thở. Nước là để uống. Đất thì cung cấp thức ăn và nhiều thứ khác nữa. Bảo vệ môi trường sống cũng chính là bảo vệ sự sống của mỗi chúng ta.

Không khí mà không thở được nữa thì không thể coi là không khí. Nước mà các sinh vật không còn sinh sống trong đó được nữa thì cũng không thể gọi là nước. Đất mà cỏ không mọc nổi thì càng không thể gọi là đất.

Mùa đông năm 1952, ở London, khói từ việc đốt bếp lò bằng than để sưởi ấm đã bao trùm toàn thành phố. Người ta không thể nhìn được. Cảnh sát phải huy động toàn bộ lực lượng để điều khiển giao thông. Họ phải đốt đuốc lên và cầm trên tay. Thế nhưng, điều quan trọng hơn cả là mọi người không thể thở được trong bầu không khí ô nhiễm đó. 4000 người đã chết, chỉ trong vòng 5 ngày đầu tiên. Và 8000 người nữa trong vài tuần sau đó. Nguyên nhân chính không phải là do thiên nhiên sinh ra. Đây là kết quả của sự lựa chọn về kinh tế.

Trong suốt thập niên 40, nước Anh luôn đi đầu về phát triển kinh tế. Nước Anh là nước xuất khấu than lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Họ giữ lại than kém chất lượng để sử dụng vì chúng không thể xuất khẩu được. Và chẳng ai thèm quan tâm tới việc đó. Mãi cho tới tận khi toàn bộ thành phố ngập tràn khói than. Và họ không thể thở được nữa. Đến lúc này, người dân London mới phát hiện ra rằng, ô nhiễm có ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng tới sức khỏe của không chỉ một mà là của toàn bộ cộng đồng. Và kể từ kho đó, người ta mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới việc là phải bảo vệ môi trường”

(Nguồn: internet)

– Vấn đề được đề cập trong văn bản: Việc bảo vệ môi trường là vô cùng cần thiết, bởi môi trường bị ô nhiễm sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng tới sức khỏe của cả cộng đồng.

– Vấn đề trên được thể hiện thông qua các yếu tố:

+ Nhan đề: Sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường. Nhan đề ngắn gọn và nêu trực tiếp vấn đề được trình bày trong đoạn văn: Việc bảo vệ môi trường là cần thiết.

+ Câu chủ đề: Đến lúc này, người dân London mới phát hiện ra rằng, ô nhiễm có ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng tới sức khỏe của không chỉ một mà là của toàn bộ cộng đồng. Và kể từ kho đó, người ta mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới việc là phải bảo vệ môi trường. Đoạn văn được trình bày theo hình thức quy nạp. Hai câu văn cuối mang ý nghĩa chốt lại vấn đề: ô nhiễm môi trường có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người và việc bảo vệ môi trường là cần thiết.

+ Từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần: đất, nước, không khí, thở, môi trường, khói, than, ô nhiễm, bảo vệ. Những từ ngữ này lặp lại nhiều lần và cùng thuộc trường từ vựng về môi trường, định hướng cho người đọc hiểu được nội dung chính của văn bản: sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường.

+ Những số liệu: Mùa đông năm 1952, ở London, 4000 người đã chết, chỉ trong vòng 5 ngày đầu tiên. Và 8000 người nữa trong vài tuần sau đó. Những số liệu có thật, chính xác, nói rõ hậu quả của việc ô nhiễm không khí tại London.

– Vấn đề sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường được đưa ra trong vănbản trên là hoàn toàn đúng. Thực tế những vấn đề nan giải về môi trường trong những năm gần đây trên toàn cầu đã chứng minh rằng việc bảo vệ môi trường là cần thiết, quan trọng. Khi con người bóc lột thiên nhiên một cách thiếu văn hóa thì thiên nhiên sẽ trả lại là sự ô nhiễm, thiên tai, khí hậu khắc nghiệt, ảnh hưởng trực tiếp và rất nghiêm trọng đến sức khỏe con người trên toàn cầu.

* Văn bản nghiên cứu văn học

Văn bản nghiên cứu văn học mà học sinh chuyên văn cần mở rộng đọc hiểu là những bài nghiên cứu lí luận văn học, phê bình văn học. Đây là những văn bản nghiên cứu chuyên sâu, tương đối khó tiếp nhận đối với học sinh phổ thông. Bởi vậy, việc đọc hiểu văn bản cần có sự gợi dẫn, định hướng từ giáo viên. Học sinh có thể giải mã được văn bản nghiên cứu văn học qua hệ thống câu hỏi như sau:

– Vấn đề được bàn luận trong văn bản là gì?

– Cách triển khai vấn đề trong văn bản như thế nào?

Để trả lời được câu hỏi này, học sinh cần trả lời 2 câu hỏi nhỏ:

+ Xác định hệ thống luận điểm, luận cứ trong văn bản. Đâu là trọng tâm của văn bản?

+ Hình thức ngôn từ, cách diễn đạt của văn bản như thế nào?

– Vấn đề này có thể vận dụng vào đâu, ở những trường hợp nào?

Ví dụ: Học sinh chuyên văn ngay từ lớp 10 đã cần phải đọc hiểu văn bản chương 7- Nhà văn, chủ thể sáng tác văn học (sách Lí luận văn học, tập 1 (Phương Lựu chủ biên, NXB Đại học Sư phạm). Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh đọc và trả lời được các câu hỏi mang tính bước đầu khai phá nội dung:

– Vấn đề được trình bày trong văn bản: Văn bản viết về đặc điểm của nhà văn với tư cách là chủ thể sáng tác văn học.

– Cách triển khai vấn đề trong văn bản:

+ Hệ thống luận điểm, luận cứ:

1.Tư chất nghệ sĩ của nhà văn

  1. Một số tiền đề của tài năng văn học
  2. Phương hướng củng cố và phát triển tài năng
  3. Những chặng đường chung nhất của một đời văn
  4. Đặc điểm của nữ văn sĩ

Trong những luận điểm trên, giáo viên định hướng cho học sinh đọc kĩ, đọc sâu luận điểm 1. Tư chất nghệ sĩ của nhà văn. Đây là nội dung kiến thức các em sẽ sử dụng nhiều nhất để hiểu và giải quyết vấn đề đặt ra trong một số đề lí luận văn học.

+ Hình thức ngôn từ, cách diễn đạt của văn bản: Văn bản sử dụng văn phong khoa học, sử dụng nhiều thuật ngữ văn học, đưa ra nhiều nhận định, khái niệm, có liên tưởng, so sánh. Với học sinh lớp 10, việc tiếp cận lối diễn đạt này không hề dễ dàng, bởi vậy, để giúp học sinh đọc hiểu văn bản hiệu quả, giáo viên cần cắt nghĩa, lí giải, đời thường hóa những khái niệm trừu tượng. Văn bản sử dụng nhiều dẫn chứng. Tuy nhiên, hầu hết dẫn chứng được sử dụng trong văn bản học sinh chưa từng đọc qua nên giáo viên cần bổ sung dẫn chứng từ những tác phẩm quen thuộc để học sinh dễ hiểu. Ví dụ, khi tìm hiểu về cá tính sáng tạo – một tư chất của người nghệ sĩ, giáo viên có thể lấy ví dụ những tác giả đã được học để học sinh lớp 10 dễ hình dung vấn đề như: So sánh cá tính sáng tác của bà Huyện Thanh Quan với Hồ Xuân Hương – một người trữ tình hoài cổ, ngôn từ trang trọng, ước lệ, một người sắc sảo, đanh đá, ngôn từ nôm na mách qué. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh chọn ví dụ câu thơ của bà Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương để phân tích và chứng minh.

– Vấn đề nhà văn – chủ thể sáng tác văn học học sinh có thể vận dụng để hiểu đặc điểm của mỗi nhà văn được học trong chương trình, nhất là những tác gia văn học như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, Nguyên Tuân… Kiến thức về văn bản này học sinh cũng có thể vận dụng để hiểu và giải quyết những đề bài lí luận văn học có liên quan. Ví dụ:

Đề 1:

“Chủ nghĩa kinh viện phương Bắc không làm mất đi được cá tính sáng tạo của những cây bút lỗi lạc”

(Đặng Thai Mai)

Anh/ chị có suy nghĩ gì về nhận định trên? Phân tích bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi – một cây bút được xem là lỗi lạc của văn học trung đại Việt Nam để làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 2:

Nhà thơ vĩ đại của Ấn Độ Rabinddranat Tagor từng bày tỏ: “Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói riêng của mình” (Những con chim bay lạc)

Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy đi tìm tiếng nói riêng của Nguyễn Du trong bài “Độc Tiểu Thanh kí”

Đề 3:

Về một nhận định của nhà thơ Xuân Diệu:

“Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà đạo đức làm thơ; Nguyễn Trãi chính cống là một tâm hồn thi sĩ”

(Trích – Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam – Xuân Diệu, NXB Trẻ, TP.HCM, trang12).

Nên hiểu thế nào nhận định của Xuân Diệu? Phân tích một bài thơ của Nguyễn Trãi để chứng tỏ ông chính cống là một tâm hồn thi sĩ.

b4. Văn bản tự sự

* Văn bản tự sự có liên quan đến văn nghị luận xã hội

Với những văn bản tự sự có liên quan đến văn nghị luận xã hội, chúng tôi định hướng cho học sinh tự đọc hiểu văn bản với những câu hỏi gợi mở:

  • Nhan đề của tác phẩm là gì?

– Nhân vật trong câu chuyện là ai? Mối quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm?

  • Hãy tìm hiểu diễn biến sự việc, câu chuyện trong tác phẩm?

– Những từ ngữ nào được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, hàm chứa sức nặng nội dung trong tác phẩm?

  • Hãy tìm ra lời bình mang thông điệp nội dung trong câu chuyện.
  • Từ những căn cứ trên, hãy chỉ ra nội dung ý nghĩa của văn bản?

Ví dụ 1: Văn bản Ước vọng và hạt giống đã trích dẫn ở mục 1.2.

– Nhan đề câu chuyện: ước vọng và hạt giống. Nhan đề đặt từ “ước vọng” và từ “hạt giống” trong mối tương quan đồng thời, thể hiện qua liên từ “và”, gọi cho người đọc suy ngẫm: giữa “ước vọng” và “hạt giống” có những điểm tương đồng

– Nhân vật trong câu chuyện: 2 cậu bé (người trẻ tuổi, chưa có nhiều kinh nghiệm sống), một cụ già (người lớn tuổi, đã từng trải, có nhiều kinh nghiệm sống).

– Diễn biến sự việc, câu chuyện: hai cậu bé tranh luận về cách để thực hiện ước vọng, không tìm được câu trả lời nên đến hỏi cụ già. Cụ già đưa cho mỗi cậu bé một hạt giống kèm theo lời dặn: ai có thể bảo quản nó tốt thì người đó có thể tìm ra con đường thực hiện ước vọng.

Mỗi cậu bé có một cách bảo quản hạt giống khác nhau: một người giữ khư khư trong hộp kín, một người đem gieo xuống đất và hằng ngày tưới nước, chăm sóc, bón phân, diệt cỏ. Kết quả: hạt giống của cậu bé thứ nhất vẫn chỉ là 1 hạt giống để trong hộp; hạt giống của cậu bé thứ hai trở thành một cánh đồng mênh mông lúa vàng.

– Những từ ngữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, hàm chứa sức nặng nội dung: ước vọng (ước mơ, khát vọng, mong muốn của con người), hạt giống (hạt giống cây trồng)

– Lời bình cuối truyện chính là lời của cụ già: Các cháu, ước vọng cũng như hạt giống đó. Chỉ biết khư khư giữ lấy nó thì chẳng có thể lớn lên được. Chỉ khi dùng mồ hôi, sức lực, tưới tắm vun trồng cho nó thì mới có thể biến thành hoa trái, mùa màng bội thu thôi!. Lời của cụ già đã khẳng định, muốn thực hiện ước vọng thì chỉ có cách là phải hành động, làm việc chăm chỉ, nỗ lực vượt qua khó khăn.

– Nội dung ý nghĩa câu chuyện:

Từ những phân tích trên, học sinh có thể dễ dàng rút ra nội dung của câu chuyện, bài học triết lý mà câu chuyện muốn mang đến cho người đọc: Phải nỗ lực hành động để biến ước mơ thành hiện thực, đó là con đường để thực hiện ước vọng.

* Văn bản sự sự liên quan đến nghị luận văn học

Đối với văn bản tự sự là những truyện ngắn, tiểu thuyết mà học sinh có thể sử dụng để hiểu hơn các tác phẩm trong chương trình, để mở rộng so sánh liên hệ trong bài làm văn nghị luận văn học, giáo viên cần định hướng cho học sinh bộ câu hỏi giải mã văn bản bám sát đặc trưng thể loại. Cụ thể, để đọc hiểu một truyện ngắn, tiểu thuyết, học sinh cần trả lời được những câu hỏi sau:

– Tác giả của tác phẩm đó là ai? Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào?

– Hãy xác định cốt truyện của tác phẩm. Đối với truyện ngắn, ngoài cốt truyện, học sinh cần xác định rõ tình huống truyện của tác phẩm.

– Xác định hệ thống nhân vật của tác phẩm? Đâu là nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm? Mối quan hệ giữa các nhân vật như thế nào? Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn có gì đặc biệt?

– Diễn biến sự việc, tình tiết trong tác phẩm như thế nào?

– Hãy nhận xét về ngôn ngữ của tác phẩm.

– Mối tương quan với tác phẩm trong chương trình? Có thể vận dụng tác phẩm khi nào?

Ví dụ: Truyện ngắn Bức tranh của nhà văn Nguyễn Minh Châu

Trước đây, truyện ngắn Bức tranh được trích giảng trong chương trình Ngữ văn THCS. Sách giáo khoa mới đã đưa truyện ngắn Bến quê thay thế cho Bức tranh nhưng với một học sinh chuyên văn thì việc tìm đọc thêm tác phẩm này là một sự cần thiết, giúp học sinh hiểu rõ hơn về đặc điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu và một số vấn đề lí luận văn học.

– Truyện ngắn Bức tranh được rút ra từ tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983).

– Cốt truyện: Người họa sĩ thành công vô tình gặp lại người lính năm xưa trong một lần đi cắt tóc. Toàn bộ câu chuyện về anh lính đưa đường, thồ tranh giúp mình trong quá khứ ùa về trong dòng hồi tưởng của người họa sĩ. Lời hứa năm xưa và cảm giác tội lỗi bây giờ khiến người họa sĩ day dứt, trăn trở, tự vấn lương tâm, đấu tranh nhận lỗi hay lảng tránh? Chính sự lặng lẽ, cố tình “không quen” của người lính để ông họa sĩ không phải xấu hổ lại là yếu tố “khai tâm” cho người họa sĩ hướng về lẽ phải, về cái cao đẹp, vượt qua rào cản của sự ích kỷ, xấu xa, giả dối để dũng cảm nhận lỗi.

– Nhân vật chính: Người họa sĩ, người lính – thợ cắt tóc. Hai người gặp nhau trong chiến trường, trong khoảng thời gian ngắn, khi người lính được giao nhiệm vụ hỗ trợ đưa người họa sĩ ra điểm tập kết. Nhân vật phụ: gia đình của người lính, bà cụ bán nước.

Nhà văn miêu tả nhân vật không chú trọng đến ngoại hình, ngôn ngữ đối thoại mà tập trung khơi sâu thể hiện những suy nghĩ bên trong tâm hồn nhân vật, dựng lên những cuộc đối thoại giả định bên trong nhân vật mà thực chất là những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt.

– Diễn biến sự việc, tình tiết: Câu chuyện không có nhiều tình tiết, sự việc gây cấn, kì thú mà xuyên suốt toàn câu chuyện là những suy tư, trăn trở, dằn vặt, cảm giác phạm tội và đấu tranh tự thú hay lảng tránh của người họa sĩ khi vô tình gặp lại người lính năm xưa.

– Ngôn ngữ: Như lời mở đầu của truyện, ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ của một “lời tự thú” của một con người tự nguyện nạp mình cho lương tâm. Những lời đối thoại giả định thực chất là độc thoại nội tâm, đấu tranh nội tâm của người họa sĩ.

Ngôn ngữ và cách xây dựng nhân vật, tình huống truyện của tác giả khiến tác phẩm mang tính luận đề nhưng không hề khô cứng. Truyện như một lời tự kể chuyện mình, tự thú lỗi lầm, tự vấn lương tâm, ngôn ngữ gần gũi dễ đi vào lòng người.

– Mối liên hệ với tác phẩm trong chương trình: Truyện ngắn Bức tranh chính là điểm đánh dấu rất đáng kể cho sự tìm tòi của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tìm một hướng sáng tác mới: không đi vào khai thác sự kiện đao to búa lớn, giật gân, nổi cộm, không viết về cái kì vĩ, hùng tráng với âm hưởng tự hào mà khai thác cái bí ẩn bên trong tâm hồn con người, viết về những cái nhỏ nhặt đến mức tưởng như tầm thường nhưng lại mang sức khái quát triết lý sâu sắc. Với Bức tranh, Nguyễn Minh Châu đã chuyển hướng sáng tác thì hướng ngoại sang hướng nội, và cũng để thấy được đằng sau những cái hào hùng, oanh liệt của chiến thắng còn là những “nỗi buồn” hậu chiến. Vì thế, Nguyễn Minh Châu được nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” cho công cuộc đổi mới văn học. Truyện ngắn Bức tranh sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn phương pháp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Người đàn bà hàng chài, hiểu hơn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Học sinh cũng có thể vận dụng kiến thức về truyện ngắn Bức tranh để làm những đề văn về công cuộc đổi mới văn học sau 1975 hoặc đề văn về lí luận văn học.

Ví dụ:

Đề 1:

“Mỗi sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này hoặc tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay” (M.B. Khrápchenko – Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học – Nxb TPM, HN, 1978, tr.26)

Anh / chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

Đề 2:

Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi” (dẫn từ cuốn Nhà văn nói về tác phẩm – Nxb Văn học, 1998, tr.260)

Anh / chị hãy bình luận về câu nói trên và phân tích sức hấp dẫn của một vài tác phẩm mà anh chị cho là tác phẩm lớn.

Đề 3:

“Ngoài việc phản ánh đầy đủ sự thật của đời sống, văn học còn có nhiệmvụ buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vảo bản thân mình, từ đó hiểu được sâu sắc hơn sự thật của bản thân mình”

(Hoàng Ngọc Hiến – Văn học và học vanw – Nxb Văn học, 1997, tr.23)

Anh / chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

b5. Văn bản trữ tình

Nếu như văn bản tự sự thể hiện nội dung thông điệp qua cốt truyện, những nhân vật, diễn biến sự việc thì văn bản trữ tình lại thể hiện điều tác giả muốn nói qua mạch cảm xúc, thế giới hình ảnh, các biện pháp tu từ. Bởi vậy, để đọc hiểu văn bản trữ tình, học sinh cần được định hướng bằng những câu hỏi gợi mở như sau:

  • Nhan đề tác phẩm là gì?

– Xác định những từ ngữ, hình ảnh đậm nét trong văn bản và chỉ ra nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của những từ ngữ, hình ảnh đó?

– Hãy tìm và chỉ ra ý nghĩa của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản?

  • Hãy tìm hiểu mạch cảm xúc trữ tình của tác phẩm?

– Những căn cứ trên cho thấy tác phẩm viết về vấn đề gì? Thái độ, tư tưởng, cảm xúc của tác giả về vấn đề đó như thế nào? (hoặc: tác phẩm mang đến thông điệp, bài học triết lý gì?)

– Tác phẩm có thể áp dụng cho đề văn nghị luận xã hội về chủ đề gì? (đối với những bài thơ có liên quan đến văn nghị luận xã hội)

– Mối liên quan với những tác phẩm trong chương trình như thế nào? (đối với những tác phẩm có liên quan về nội dung hoặc nghệ thuật với tác phẩm trong chương trình)

Ví dụ 1: Văn bản trữ tình liên quan đến văn nghị luận xã hội

Bài thơ Làm người của Lò Ngân Sủn (đã trích dẫn văn bản ở mục 1.2.)

– Nhan đề tác phẩm: Làm người. Nhan đề đề cập đến một vấn đề đáng trăn trở: làm người như thế nào?

– Từ ngữ, hình ảnh mang sức nặng nội dung: làm người thật khó, xấu ngoài mà đẹp trong, đẹp ngoài mà xấu trong, già mà vẫn trẻ, trẻ mà đã già, sống mà đã chết, chết mà vẫn sống, làm người khó nhất là: sống!

– Biện pháp nghệ thuật: Điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp

+ Điệp ngữ: làm người

+ Điệp cấu trúc: Để trở thành….như thế chưa khó; nghĩ…nghĩ, có người…mà….

à Tác dụng của biện pháp điệp: nhấn mạnh quan điểm, thái độ của tác giả về vấn đề làm người.

– Mạch tư tưởng, cảm xúc:

Bài thơ bắt đầu bằng một lời đề từ tác giả mượn lời người Dáy: “Ngồi thì co/ đứng thì thẳng/ làm người thật khó”. Đó là hai trạng thái vận động trái ngược nhau của con người: ngồi/ đứng nhưng để làm người, để đứng vững trên đôi chân của chính mình thì thật là khó khăn, lựa chọn cách sống như thế nào để sống đúng nghĩa chứ không phải là tồn tại.

Sau đó, tác giả chỉ ra những điều “không khó” trong cuộc sống con người và những nghịch lý, trái ngược ở con người:

+ Những điều không khó: biết sinh con đẻ cái, biết ăn ngon mặc đẹp, trở thành người giàu có, sống lâu trăm tuổi. Đây là những mục đích mà con người thường đặt ra và hướng tới trong cuộc sống. Nhưng theo tác giả, những điều đó không khó.

+ Những nghịch lý, trái ngược:

có người đẹp ngoài mà xấu trong

có người xấu ngoài mà đẹp trong

có người già mà vẫn trẻ

có người trẻ mà đã già

có người sống mà đã chết

có người chết mà vẫn sống

Những nghịch lý, trái ngược này cho thấy việc phấn đấu cho những mục đích trên không có nhiều ý nghĩa. Để cuối cùng, tác giả khẳng định: làm người khó nhất là: sống!

– Tất cả những căn cứ trên đã giúp người đọc tìm ra nội dung ý nghĩa của văn bản: Con ngược đặt ra những mục tiêu phấn đấu về vật chất, danh vọng, sắc đẹp nhưng kì thực những điều đó không khó, mà khó nhất là sống – sống có lý tưởng, sống được là chính mình, sống có ý nghĩa cho cộng đồng, sống để gười khác yêu mến và cảm phục.

Ví dụ 2: Văn bản trữ tình liên quan đến văn nghị luận văn học

Giục giã

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! thời gian không đứng đợi.
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;
Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.
Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

Vì chút mây đi, theo làn vút gió.
Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi?
Sớm nay sương xê xích cả chân trời,
Giục hồng nhạn thiên đi về cõi Bắc.
Ai nói trước lòng anh không phản trắc;
Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?
– Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ,
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lói;
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự.
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…

(Xuân Diệu)

– Nhan đề: Giục giã. Nhan đề gợi đến sự hối thúc, gấp gáp như đang sợ điều gì tươi đẹp sẽ trôi đi mất. Nhan đề là một động từ nhưng gợi đến suy ngẫm về một thái độ sống, một lối sống.

– Những từ ngữ, hình ảnh đậm nét: Bài thơ sử dụng những hình ảnh gợi sự sống và tình yêu tươi đẹp, ngọt ngào như: tình non, màu yêu, tình mới, mộng vàng, sắc đẹp, vàng son, lòng anh, lòng em… Tuy nhiên, ngay kế tiếp những hình ảnh đó là những từ ngữ chỉ sự héo úa, tàn phai bởi sự chảy trôi của thời gian: tình non đã già rồi, tình non sắp già rồi, Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới / Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa; mộng vàng tan biến; Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành; Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh / Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ… Bài thơ còn sử dụng những từ ngữ gợi sự giục giã như: mau, vội vàng, gấp, sắp, đã,… Những từ ngữ gợi cảm giác chủ thể trữ tình đang rất lo sợ sự tàn phai của cái đẹp, cái non tơ trước sự chảy trôi nhanh chóng, khắc nghiệt của thời gian.

– Biện pháp tu từ:

+ Điệp ngữ, điệp cấu trúc kết hợp với lối kết cấu đầu cuối tương ứng: Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! / Em, em ơi! tình non đã già rồi – Em, em ơi! tình non sắp già rồi…, tình yêu đến, tình yêu đi.

+ Nghệ thuật đối:

“Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa

“Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài”

“Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”…

Phép đối cho thấy sự thay đổi nhanh chóng của cuộc sống trước sự trôi chảy không ngừng của thời gian. Dường như không có gì là chắc chắn, bền vững, ngay cả lòng anh và lòng em: “Ai nói trước lòng anh không phản trắc / Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ?”. Trong gặp gỡ đã có chia ly, rực rỡ vàn son đấy nhưng chốc lát vỡ tan tành. Đó cũng lí do vì sao mà tác giả hối thúc: Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

+ Câu hỏi tu từ: Ai dám chắc lòng anh không phản trắc / Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ? thể hiện sự hoài nghi trước cuộc đời.

+ Tác giả sử dụng nhiêu câu cảm thán, câu cầu khiến cùng với giọng thơ nhanh, gấp, đầy hối thúc, vội vàng.

– Mạch cảm xúc: giục giã hãy sống gấp, sống vội vàng bởi lo lắng trước sự héo úa, tàn phai, sự đổi thay nhanh chóng của cuộc sống trước sự trôi chảy của thời gian – khao khát được cháy hết mình, một phút huy hoàng rồi chợt tắt chứ không muốn kiếp sống le lói, leo lét.

– Khái quát nội dung chính của bài thơ: Bài thơ thể hiện quan niệm sống, thái độ sống của Xuân Diệu: hãy sống gấp, sống vội vàng, hãy cháy hết mình để tỏa sáng và tận hưởng những đẹp tươi, ngọt ngào của cuộc sống trước khi nó héo tàn, tan biến trước sự trôi chảy của thời gian.

– Bài thơ Giục giã giúp học sinh hiểu rõ hơn bài thơ Vội vàng được học trong chương trình, hình dung khái quát hơn về phong sách nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Học sinh có thể vận dụng bài thơ Giục giã để giải quyết một số đề văn như:

Đề 1:

Đề tựa cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu, xuất bản trước Cách mạng tháng Tám, Thế Lữ giải thích:

“Sở dĩ Xuân Diệu tham lam tình yêu, chất chứa vào lòng không chán, không đủ, không nguôi, là bởi thi sĩ rất sợ cô độc”. Đó cũng chính là cội nguồn “niềm khát khao giao cảm với đời” (Nguyễn Đăng Mạnh) của toàn bộ hồn thơ Xuân Diệu.

Hãy bình luận và làm sáng tỏ vấn đề trên.

Đề 2:

Bình luận ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu:

“Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”

b6. Văn bản kịch

Do đặc trưng thể loại mà câu hỏi định hướng để đọc hiểu văn bản kịch cũng có nhiều điểm khác so với các loại văn bản trên. Học sinh có thể giải mã văn bản với hệ thống câu hỏi định hướng như sau:

– Hãy xác định tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

– Hãy xác định xung đột kịch của tác phẩm / đoạn trích?

– Hệ thống nhân vật trong văn bản được xây dựng như thế nào? (Đặc điểm và các mối quan hệ giữa các nhân vật?)

–  Nhân xét gì về ngôn ngữ của văn bản kịch?

– Văn bản mang đến chô người đọc thông điệp ý nghĩa nào? Có thể vận dụng văn bản như thế nào?

Ví dụ:

Lớp VII 
Đan Thiềm
Vũ Như Tô

[…]

ĐAN THIỀM – Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.

VŨ NHƯ TÔ – Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chẳng chọn nghề này. Đời lẩn lút…

ĐAN THIỀM – Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?

VŨ NHƯ TÔ – Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.

ĐAN THIỀM – Dịp đấy chứ đâu? Cửu trùng đài…

VŨ NHƯ TÔ – Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thề là đành chết chứ không chịu làm gì.

ĐAN THIỀM – Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.

VŨ NHƯ TÔ – Sao vậy?

ĐAN THIỀM – Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem chu di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?

VŨ NHƯ TÔ – Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc…

ĐAN THIỀM – Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.
VŨ NHƯ TÔ – Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin…
ĐAN THIỀM – Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ chu di cửu tộc vẫn còn chờ chờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.

VŨ NHƯ TÔ – Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?
ĐAN THIỀM – Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.

VŨ NHƯ TÔ – Xây Cửu trùng đài?

ĐAN THIỀM – Phải.

VŨ NHƯ TÔ – Xây Cửu trùng đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được.

ĐAN THIỀM – Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một tòa đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông… Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian.

VŨ NHƯ TÔ – Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.

ĐAN THIỀM – Tôi cũng may được gặp ông. Xin ông cố đi. Đức vua ngự tới.
LÊ TƯƠNG DỰC vào”

Đọc hiểu đoạn trích:

– Xung đột kịch: Xây Cửu trùng đài – nên hay không nên?

– Nhân vật: Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba, bị bắt vào cung để xây Cửu trùng đài cho vua Lê Tương Dực. Đan Thiềm là một cung nữ có nhan sắc, biết trọng người tài nhưng đã luống tuổi, bị vua thất sủng. Họ gặp nhau trong cung điện, trong hoàn cảnh Vũ Như Tô bị gông xiềng giải vào cung.

– Ngôn ngữ: Lời đối thoại giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm xoay quanh vấn đề có nên xây Cửu trùng đài hay không.

+ Vũ Như Tô: Kiên quyết không xây Cửu trùng đài vì Hồng Thuận là một tên bạo chúa và Cửu trùng đài được xây nhằm mục đích ăn chơi hưởng lạc của vua với cung nữ. Vũ Như Tô khẳng định: Xây Cửu trùng đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được. Hơn nữa, vua Lê Tương Dực đối xử bạc ác với thợ, sai nha lộng quyền khiến dân rơi vào cảnh khổ sở.

+ Đan Thiềm: Khuyên Vũ Như Tô nên xây Cửu trùng đài vì hai lí do. Thứ nhất, nếu không xây, không riêng Vũ Như Tô phải chết mà còn bị họa tru di chín họ. Thứ hai, tài của Vũ Như Tô không nên để uổng mà cần phải tận dụng cơ hội này tô điểm cho non sông: “ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây”, “Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi”

Nội dung chính: Lời trao đổi giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm về việc xây hay không xây Cửu trùng đài gián tiếp đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Nghệ thuật điểm tô cho đời nhưng nhằm mục đích ăn chơi hưởng lạc của kẻ có quyền có tiền có phải là nghệ thuật chân chính? Nội dung đoạn trích này giúp học sinh hiểu rõ hơn về phẩm chất của Vũ Như Tô, động lực khiến Vũ Như Tô xây Cửu trùng đài. Ta hiểu vì sao Vũ Như Tô lại sống chết với Cửu trùng đài như vậy.

Để đọc hiểu một văn bản xa lạ không phải điều dễ dàng với học sinh. Nhưng, bằng cách hướng dẫn thiết lập bộ câu hỏi chìa khóa, thực hiện nhuần nhuyễn và thường xuyên, giáo viên sẽ giúp học sinh tạo lập được thói quen đọc hiểu, không cảm thấy xa lạ, bỡ ngỡ, lúng túng khi đứng trước những văn bản ngoài chương trình trong đề thi hay ở bất cứ đâu. Chúng tôi nghĩ, đây là một phương pháp giúp học sinh làm chủ kiến thức và tự tin trong thi cử lẫn trong cuộc sống.

 

 

CHƯƠNG 3: HẠN CHẾ CỦA HỌC SINH KHI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH VÀ MỘT SỐ BÀI TẬP RÈN LUYỆN

KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU

3.1. Một số hạn chế của học sinh khi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình

3.1.1. Có thái độ chưa đúng đắn đối với việc đọc hiểu văn bản ngoài chương trình

Từ thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy nhiều học sinh vẫn chưa có thái độ đúng đắn đối với việc đọc hiểu văn bản ngoài chương trình. Cụ thể, học sinh chưa coi trọng việc tìm đọc mở rộng các văn bản ngoài chương trình để làm giàu vốn kiến thức của mình. Học sinh thường có hiện tượng ngại đọc, lười đọc các văn bản ngoài chương trình. Khi được thầy cô giao nhiệm vụ và kiểm tra, học sinh có đọc nhưng mới chỉ dừng lại ở đọc lướt, đọc chứ chưa hiểu, chưa dành thời gian để nghiên cứu tìm hiểu một cách bài bản, nghiêm túc. Điều này sẽ dẫn đến những hệ quả tiếp theo là học sinh nghèo vốn kiến thức, xác định không đúng yêu cầu của đề bài, không biết liên hệ, so sánh, mở rộng trong bài làm, tư duy so sánh, phản biện bị hạn chế, diễn đạt chưa tốt, không có những đổi mới, sáng tạo trong cách dùng từ, đặt câu…

Để khắc phục được điểm hạn chế này thì giáo viên trước hết phải là người truyền lửa, giúp học sinh thêm yêu thích việc đọc, tìm tòi mở rộng. Trong mỗi bài học, bên cạnh việc khai thác sâu văn bản trong chương trình, giáo viên cần liên hệ mở rộng tới những văn bản ngoài chương trình. Đây là bước đầu khơi dậy sự tò mò, ham đọc ở mỗi học sinh. Kế tiếp, giáo viên cần coi việc đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là một phần quan trọng, vô cùng cần thiết trong chương trình học của học sinh chuyên văn, giao nhiệm vụ đọc hiểu trong những tình huống học tập cụ thể, thường xuyên kiểm tra tiến độ và đặt ra công thức đo  lường kết quả đọc hiểu văn bản ngoài chương trình của học sinh. Giáo viên cũng có thể tổ chức các hình thức thi đua có khen thưởng để kích thích sự tìm hỏi, ham đọc hiểu của học sinh.

3.1.1. Xác định chưa đúng, chưa trúng, chưa toàn diện nội dung của văn bản

Một hạn chế thường gặp ở học sinh khi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là xác định chưa đúng, chưa trúng, chưa toàn diện nội dung của văn bản. Điều này có thể xảy ra những trường hợp như sau:

a.Xác định chưa đúng nội dung của văn bản

Đây là trường hợp học sinh xác định hoàn toàn sai nội dung của văn bản.

Ví dụ:

Văn bản 1: “Ta mong với trời cao và biển rộng mà quên rằng hoa từ đất mà ra” (Thụy Thảo)

Câu nói của những hình ảnh ẩn dụ như “trời cao”, “biển rộng”, “hoa từ đất mà ra” nên một số học sinh không hiểu được nghĩa hàm ẩn của những hình ảnh này sẽ phát hiện sai nội dung. Thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy có học sinh cho rằng nội dung ý nghĩa của câu nói là: khao khát đi đến những chân trời mới, vươn tới những điều lớn lao, cao cả.

Văn bản 2: “Biết mình không biết là một bước tiến dài dẫn đến sự hiểu biết” (Benjamin Disraeli)

Có học sinh đã cho rằng nội dung chính của câu nói trên là: phê phán những người không biết những luôn thể hiện rằng mình đã biết.

Nội dung đúng của văn bản trên phải là: đề cao vai trò của sự tự ý thức cái không biết và nỗ lực hoàn thiện mình của mỗi cá nhân, trước hết trên lĩnh vực tri thức.

b. Xác định chưa trúng, chưa toàn diện nội dung của văn bản

Đây là một điểm hạn chế thường gặp nhất khi học sinh đọc hiểu văn bản ngoài chương trình. Là một học sinh chuyên văn, các em có những cảm nhận tương đối tốt về nội dung văn bản nhưng rất nhiều em chỉ chạm đến nội dung mà chưa chính xác nội dung chính của văn bản. Hoặc, các em nêu được mạch chính mà chưa thấy được mạch phụ của văn bản. Điều này thường xảy ra khi văn bản là một câu chuyện hoặc một bài thơ.

Ví dụ 1: Với văn bản “Ước vọng và hạt giống” nêu trên, học sinh xác định nội dung chính của văn bản là: trong cuộc sống, mỗi người cần phải có ước vọng, có gieo ước vọng thì mới gặt hái được thành công. Ý kiến đó chưa hoàn toàn chính xác. Nội dung chính của văn bản phải là: Phải nỗ lực hành động để biến ước mơ thành hiện thực, đó là con đường để thực hiện ước vọng.

Ví dụ 2:

Văn bản:               Người đi săn và con vượn

Có một người rất tài săn bắn. Nếu con thú rừng nào không may gặp bác ta thì hôm ấy coi như ngày tận số.

Một hôm, người đi săn xách nỏ vào rừng. Bác thấy một con vượn lông xám đang ngồi ôm con trên tảng đá. Bác nhẹ nhàng rút mũi tên bắn trúng tim con vượn mẹ.

Vượn mẹ giật mình, hết nhìn mũi tên lại nhìn về phía người đi săn bằng đôi mắt căm giận, tay không rời con. Máu ở vết thương từ từ rỉ ra loang khắp mũi tên.

Người đi săn đứng im chờ kết quả…

Bỗng vượn mẹ nhẹ nhàng đặt con nằm xuống, vơ vội nắm bùi nhùi gối lên đầu con, rồi nó hái cái lá to, vắt sữa vào và đặt lên miệng con. Sau đó, vượn mẹ nghiến răng giật phắt mũi tên ra, rú lên một tiếng ghê rợn rồi từ từ gục xuống.

Người đi săn đứng lặng. Hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má. Bác mắm môi bẻ gãy cung nỏ và lẳng lặng quay gót ra về.

Từ đấy, bác không bao giờ đi săn nữa.

(Lep tôn- xtôi)

Về nội dung ý nghĩa của văn bản, học sinh có những ý kiến khác nhau:

Ý kiến 1: Câu chuyện thức tỉnh con người về vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ những loài động vật quý hiếm cần được bảo tồn.

Ý kiến 2: Câu chuyện ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng.

Ý kiến 3: Con người phạm vào sai lầm, tội ác, nếu được thức tỉnh bằng những tình cảm đẹp thì sẽ có thể hướng thiện, phục thiện.

Những ý kiến trên không hoàn toàn sai nhưng chưa nêu chính xác nội dung văn bản, chưa phân biệt được mạch chính và mạch phụ của câu chuyện. Nội dung chính của câu chuyện “Người đi săn và con vượn” là ca ngợi vẻ đẹp thiêng liêng và sức mạnh diệu kỳ của tình mẫu tử. Từ vấn đề mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm, câu chuyện gợi mở nhiều suy nghĩ về các vấn đề trong cuộc sống như:

– Con người có thể gây ra lỗi lầm, thậm chí là những hành động tội ác nhưng con người cũng sẽ biết thức tỉnh nếu tâm hồn được thanh lọc, soi sáng bởi những tình cảm cao đẹp đầy nhân tính.

– Mối quan hệ và cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên. Phải chăng sự vô tình của con người đã gây ra những hậu quả đau lòng? Con người cần có nhận thức và hành động như thế nào để bảo vệ môi trường tự nhiên và cũng là môi trường sống của chính mình?

Tuy nhiên, đây là những mạch phụ, những ý nghĩa được gợi ra từ nội dung chính của văn bản. Trong bài văn nghị luận xã hội, học sinh có thể đưa vào phần bàn bạc và mở rộng vấn đề chứ không nên đưa vào phần bình luận chính.

Để khắc phục những hạn chế này, với những học sinh nhầm lẫn hoặc xác định chưa trúng, chưa toàn diện nội dung ý nghĩa của văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh khắc phục bằng cách:

– Để học sinh đọc lại kỹ lưỡng văn bản, xác định nguyên nhân dẫn đến xác định nội dung văn bản chưa chính xác.

– Hướng dẫn học sinh trả lời từng câu hỏi gợi dẫn trong bộ câu hỏi chìa khóa. Phát hiện học sinh có nhầm lẫn hoặc sai hướng khi trả lời câu hỏi nào, giáo viên điều chỉnh, định hướng cho chính xác. Trong một số trường hợp học sinh chưa hiểu rõ, giáo viên cần có những câu hỏi phụ để gợi dẫn học sinh.

Ví dụ:

+ Em nhận thấy nhân vật chính của câu chuyện trên là ai?

+ Khi bị trúng tên, vượn mẹ có những biểu hiện như thế nào? (ánh mắt nhìn, cử chỉ, hành động)

+Những biểu hiện của vượn mẹ cho thấy vẻ đẹp của tình cảm gì?

+ Trước những biểu hiện của vượn mẹ, người đi săn có biểu hiện thế nào? Tại sao?

Khi trả lời chính xác từng câu hỏi nhỏ, các em sẽ dần nhận ra điểm chưa đúng trong việc xác định nội dung chính của văn bản của mình. Với những học sinh thường xuyên xác định chưa trúng vấn đề, giáo viên cần quan tâm, theo sát từng bài để hướng dẫn cụ thể. Khi thành thói quen, kĩ năng kĩ xảo, các em sẽ tránh được những nhầm lẫn, sai sót.

3.1.2. Chưa biết kết nối nội dung và hình thức thể hiện của văn bản

Có một thực tế khi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình, nhất là những tác phẩm truyện, thơ có liên quan đến tác phẩm trong sách giáo khoa, học sinh thường chỉ chủ ý đến nội dung văn bản mà quên mất hình thức nghệ thuật của văn bản. Điều này dẫn đến hệ quả là ý kiến nhận xét nội dung mang tính chung chung, chưa bám sát văn bản. Như một con diều chưa bám dây chắc chắn ở mặt đất, những ý kiến nhận xét chung chung đó sẽ không đủ sức nặng, không đủ sức thuyết phục đối với người đọc. Khi điều này thành thói quen sẽ ảnh hưởng đến kĩ năng viết bài, lấy dẫn chứng và phân tích dẫn chứng của học sinh trong bài văn nghị luận văn học.

Để khắc phục những này cho học sinh, chúng tôi đã thực hiện một số cách thức:

Định hướng đọc hiểu văn bản đi từ nghệ thuật đến nội dung trong từng bài học

Trong mỗi giờ học, giáo viên luôn định hướng cho học sinh phương pháp tiếp cận văn bản đi từ nghệ thuật đến nội dung. Những câu hỏi gợi mở để tìm hiểu văn bản của giáo viên cũng theo hướng từ nghệ thuật để gợi ra nội dung.

Ví dụ:

Bài thơ “Cây chuối” của Nguyễn Trãi

“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm

Đầy buồng lạ, màu thâu đêm

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem”

Để hướng dẫn học sinh đọc hiểu bài thơ, giáo viên có thể đặt những câu hỏi gợi mở:

+ Trong bài thơ trên, tác giả đã miêu tả cây chuối bằng biện pháp tu từ gì? Qua những hình ảnh nào?

+ Hình ảnh “tình thư một bức phong còn kín” khiến em liên tưởng đến bộ phận nào của cây chuối? Em có nhận xét gì về cách liên tưởng của Nguyễn Trãi?

+ Hình ảnh “tình thư một bức” có mối tương quan như thế nào với hình ảnh “gió” ở câu sau? Cho thấy điều gì về tâm hồn Nguyễn Trãi?

Việc giáo viên thực hiện thường xuyên những câu hỏi gợi mở văn bản theo hướng từ hình thức khám phá ra nội dung sẽ tạo thành một thói quen tư duy phân tích văn bản cho học sinh.

– Để học sinh thực hành viết và sửa lỗi trực tiếp trên bài làm

Mọi sự tư duy của học sinh đều thể hiện trên bài làm. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải để học sinh thường xuyên thực hành viết bài. Thời gian làm bài cần khuôn khổ trong một giới hạn nhất định, thường là đúng khung thời gian của đề thi chính thức. Những phương pháp đọc hiểu văn bản đã được luyện tập của học sinh sẽ thể hiện trong việc nhận diện nội dung văn bản, phân tích và làm sáng tỏ vấn đề. Từ những bước đầu, giáo viên có thể cho học sinh làm những bài tập thực hành nhỏ như: bài học hiểu văn bản, viết đoạn văn nghị luận xã hội, viết bài văn nghị luận xã hội, viết bài văn nghị luận văn học. Với từng bài tập nhỏ, giáo viên cần chữa bài chi tiết để phát hiện lỗi sai về đọc hiểu văn bản và có sự điều chỉnh, hướng dẫn sửa phù hợp. Hình thức sửa bài tốt nhất là chữa bài tay đôi để học sinh dễ nhận ra thiếu sót của mình. Giáo viên cũng định hướng cho học sinh cách sửa trong từng trường hợp cụ thể. Từ đó, năng lực đọc hiểu văn bản ngoài chương trình của học sinh sẽ ngày càng tiến bộ.

3.1.3. Chưa biết vận dụng kiến thức văn bản ngoài chương trình vào bài làm văn

Mục đích của việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn là để các em mở rộng kiến thức và vận dụng sáng tạo trong bài làm văn, mở rộng liên hệ, so sánh để bài văn vừa có tầm khái quát lại vừa sâu sắc, toàn diện hơn. Tuy nhiên, có một thực tế là học sinh không vận dụng vào bài làm hoặc chưa biết vận dụng, đưa kiến thức ngoài chương trình vào bài làm chưa đúng lúc, đúng chỗ khiến cho bài văn rối ý, lủng củng, vấn đề cần nghị luận chưa được làm sáng tỏ. Một hạn chế đáng nói nữa là học sinh đưa kiến thức ngoài chương trình vào bài văn nhưng lại chưa biết khai thác, khai thác nửa vời, chưa trọn vẹn khiến cho bài nghị luận nhạt ý, hời hợt, chưa có độ sắc.

Để khắc phục điểm hạn chế này, giáo viên cần giúp học sinh củng cố vững chắc kiến thức về những văn bản ngoài chương trình đã được đọc hiểu, chỉ ra mối liên quan giữa tác phẩm ngoài chương trình với tác phẩm trong chương trình, với yêu cầu cụ thể của đề bài. Điều này giúp học sinh xác định nên chọn đưa kiến thức ngoài chương trình nào vào bài viết, đặt ở đâu và hướng phân tích, liên hệ, so sánh như thế nào cho phù hợp.

Đây là một kĩ năng không phải dễ dàng hình thành trong ngày 1 ngày 2 mà học sinh cần được luyện tập thường xuyên, liên tục. Bởi vậy, để khắc phục hạn chế này, giáo viên cần động viên và giao nhiệm vụ học sinh viết bài thực hành một cách đều tay. Với mỗi bài viết, giáo viên đều cần phải chữa bài chi tiết theo hình thức chữa tay đôi để phát hiện lỗi và sửa lỗi tốt nhất. Thực tế làm việc chúng tôi nhận thấy đây là một phương pháp mất khá nhiều thời gian của cả thầy và trò nhưng rất hiệu quả. Không chỉ lỗi đọc hiểu văn bản ngoài chương trình mà giáo viên cũng đồng thời giúp học sinh phát hiện và sửa lỗi kiến thức, diễn đạt, từ ngữ…

Với một học sinh chuyên văn, việc đọc hiểu thật sự thấu đáo, toàn vẹn văn bản trong chương trình dưới sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên cũng đã là một việc không dễ dàng. Huống chi, với những văn bản ngoài chương trình, các em phải tự bơi với kiến thức trong khi tầm đón đợi còn hạn chế. Nhất là, các em còn cần phải học song hành nhiều môn học. Bởi vậy, những hạn chế về đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là khó tránh khỏi. Với từng điểm hạn chế và tùy thuộc vào đặc điểm tính cách, tâm lý, năng lực của mỗi học sinh mà thầy cô cần có những giải pháp cụ thể khác nhau dựa trên nền phương pháp chung để định hướng, hỗ trợ học sinh khắc phục tốt nhất.

3.2. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình

Để học sinh thành thạo kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình, giáo viên cần thường xuyên giao nhiệm vụ học tập và kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ của học sinh. Những bài tập, nhiệm vụ giao cho học sinh nên phù hợp với từng tình huống học tập cụ thể. Giáo viên cũng nên thiết lập tiêu chí đánh giá kết quả phù hợp với đối tượng học sinh mình giảng dạy để khích lệ tốt nhất sự ham đọc, ham tìm hiểu ở học sinh. Dưới đây là một số bài tập mở rộng kiến thức có thể áp dụng để rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn.

3.2.1. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình liên quan đến văn nghị luận xã hội

Bài tập 1:

Em hãy tìm và đọc hiểu những câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn về chủ đề hạnh phúc.

Yêu cầu

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 5 câu tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn.

– Hãy chỉ ra nội dung chính và điểm nổi bật về cách dùng từ, diễn đạt của mỗi câu. Hãy tìm hiểu vấn đề được đề cập trong câu nói đó là đúng hay chưa đúng, vì sao?

Bài tập 2:

Em hãy tìm và đọc hiểu những câu chuyện ngắn gọn hàm chứa bài học cuộc sống hoặc những mẩu nhỏ trên sách, báo về chủ đề nghị lực sống.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 5 ví dụ.

– Đọc hiểu văn bản theo bộ câu hỏi chìa khóa để tìm ra nội dung, ý nghĩa của câu chuyện.

– Hãy phát biểu suy nghĩ, đánh giá của mình về nội dung của câu chuyện.

– Em có thể vận dụng nội dung câu chuyện trong những trường hợp nào?

Bài tập 3:

Em hãy tìm và đọc hiểu những bài thơ / đoạn thơ hàm chứa bài học triết lý về con người và cuộc sống.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 3 bài thơ hoặc đoạn thơ.

– Đọc hiểu bài thơ / đoạn thơ để chỉ ra vấn đề, bài học triết lý được đề cập đến.

– Em suy nghĩ, đánh giá như thế nào về bài học triết lý đó? (Đúng hay chưa đúng? Tại sao?)

GỢI Ý

Bài tập 3:

Một số bài thơ / đoạn thơ hàm chứa bài học triết lý về con người và cuộc sống

Bài 1:

                            ĐƯỜNG TẮT

(Đặng Chân Nhân)

          Luôn có một con đường ở trước bạn

Con đường dài mà bạn đang đi, hướng tới đích

Có một con đường ngắn hơn, cũng ở đó

Con đường nhỏ, ngắn và dễ đi hơn

Nó không dài, không tốn thời gian và không có một chướng ngại vật nào.

Nhưng

Con đường nhỏ ấy

Nó bỏ qua rất nhiều thứ

Nó không cho bạn một tí kinh nghiệm nào

Nó không làm cho bạn mạnh mẽ hơn

Nó không làm cho bạn tốt hơn

Và nó luôn là con đường sai.

Nhưng

Con người vẫn đi con đường nhỏ ấy

Những kẻ trộm đi con đường ấy để trở thành kẻ giàu

Những kẻ lừa dối đi con đường ấy để trở nên thành công

Chúng dễ dàng đạt được những thứ người khác đạt được một cách khó nhọc

Chúng trở nên thành công với những ý nghĩ vô học

Liệu chúng có thể tồn tại?

– Nội dung ý nghĩa của bài thơ :

Bài thơ nêu lên suy nghĩ về con đường tắt, hình ảnh ẩn dụ về cách thức mà người đời sử dụng để đi đến thành công.

Theo tác giả, có hai con đường: một dài, một ngắn (còn gọi là đường tắt). Người chân chính chấp nhận con đường dài, dù biết rằng đi con đường đó sẽ mất nhiều thời gian, mất nhiều công sức. Những kẻ bất chính chọn con đường tắt để mau tới đích hơn.

Tác giả bài thơ cho rằng, con đường tắt tuy mau chóng đem lại thành công nhưng thành công đó sẽ không tồn tại dài lâu; bởi vậy con người hãy chọn con đường dài, vì đó là con đường chân chính.

– Đánh giá: Ý kiến đưa ra trong bài thơ trên là đúng, vì:

+ Con đường dài là con đường gian khổ, tốn nhiều công sức, bắt buộc người đi phải vận dụng tài năng, ý chí của bản thân mới đến được mục tiêu. Chỉ khi chọn con đường này thì mục tiêu đạt được mới thực sự có giá trị và bền vững theo thời gian. Đây là lựa chọn khó, vì nó chỉ dành cho người có tài đức, biết kiên trì quyết tâm theo đuổi mục tiêu của mình. Con đường tắt là con đường giúp đạt được mục tiêu mà không phải tốn nhiều trí tuệ, công sức, thời gian, nhờ vào việc sử dụng những cách thức bất chính, những mánh khóe, những mưu mô bất chấp đạo đức làm người.

+ Một số người xuất phát từ những động cơ chưa đúng đắn vẫn nghĩ rằng nên chọn những con đường tắt (bất chấp quy luật khách quan và các chuẩn mực đạo đức) để đạt đến thành công.

+ Cả hai con đường đều có thể đạt đến mục tiêu như nhau, nhưng người đi đường tắt do không có năng lực thực sự để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong nghề nghiệp, trong cuộc sống – do vậy, nguy cơ thất bại rất cao. Và do vậy, cá nhân họ sẽ bị xã hội xem thường. Trái lại người đi theo con đường chân chính do có thực tài, có khả năng sáng tạo trong công việc, do đó thường thành công trong cuộc sống và sẽ được xã hội đánh giá cao.

Bài 2 :

« Nhà bác học lắc đầu. Nhà thơ đau khổ

Nhà báo, nhà văn hết sức cảm thương.

Rằng mực nước biển Caxpie cứ rút

Biển cứ cạn dần. Biển sắp gặp tai ương!

Tôi cứ nghĩ, đôi khi, rằng đời người quá ngắn

Để ngồi lo biển cạn, biết bao giờ!

Cái nông cạn của hồn người đang sống

Đã báo động cho người thực sự biết lo chưa? »

(Đa-ghe-xtan của tôi, Quyển 2, tr.73, Nxb Cầu vồng, 1984)

  • Nội dung, ý nghĩa của đoạn thơ

+ Đoạn thơ nhắc đến một hiện tượng thiên nhiên và suy nghĩ, thái độ của con người trước hiện tượng đó: Biển Caxpie đang mỗi năm một cạn dần đi. Các nhà khoa học “lắc đầu” tỏ vẻ bất lực; nhà thơ, nhà văn, nhà báo thì “đau khổ”, “cảm thương” trước điều đó. Họ – đại diện cho nhiều thành phần, nhiều lớp người trong xã hội đã tỏ ra rất có trách nhiệm với cuộc sống khi sớm biết đau đáu lo âu, trăn trở trước một hiện tượng tự nhiên đang diễn ra và có thể trở thành hiểm họa ở vài trăm năm, thậm chí cả nghìn năm sau.

+ Nhà thơ R.Gam-za-tốp cho rằng nỗi lo ấy là chính đáng. Tuy nhiên, cuộc đời mỗi con người vô cùng ngắn ngủi, chúng ta không nên chỉ cứ ngồi đấy mà lo âu, than khóc cho một điều chẳng biết bao giờ mới thực sự xảy đến mà quên mất xung quanh ta, ngay trong hiện tại có những điều đáng báo động, đáng lo sợ hơn nhiều: sự nông cạn của hồn người, sự cạn kiệt, chết mòn của lương tâm và tình người trong cuộc sống.

=> Mỗi chúng ta, thay vì lo lắng cho những điều lớn lao, xa vời, hãy quan tâm tới những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn trong cuộc sống hiện tại, đó là cái chết trong tâm hồn con người.

– Đánh giá : Ý kiến của tác giả bài thơ là hoàn toàn đúng, vì :

+ Con người nhiều khi dành quá nhiều sự quan tâm, lo lắng vào những hiểm họa trong tương lai: ngày tận thế, chiến tranh hạt nhân, núi lửa phun trào, sự va chạm của các thiên thạch vào trái đất,…

+ Nhưng thực sự thì những hiểm hoạ từ trong suy nghĩ và tâm hồn con người còn đáng sợ hơn nhiều. Nó đôi khi chính là nguồn gốc dẫn đến những hiểm họa mà con người đang sợ hãi.

. Sự lạnh lẽo, vô cảm của hồn người; hạt giống độc địa của thù hận, ích kỉ, ghen ghét, tham vọng, bá quyền,… là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, xung đột, khủng bố, bạo loạn đẩy hàng nghìn hàng vạn người vào cuộc khủng hoảng di cư, vào những thảm cảnh đau thương,…

. Lòng tham vô độ khiến con người độc ác với đồng loại, với chính đồng bào mình: sản xuất thực phẩm bẩn, hàng giả, hàng nhái,…

. Sự vô cảm của con người với giới tự nhiên, môi trường là nguồn gốc của các hiện tượng biển cạn, trái đất nóng lên, băng tan, dịch bệnh,…

=> Quá trình sa mạc hóa xảy ra trong hồn người đáng sợ hơn bất cứ hiểm họa thiên nhiên nào !

Bài 3 :

« Anh gặp ai dù người tốt hay tồi

                   Đừng bao giờ nói xấu, hãy nghe tôi

                   Vì nói xấu người ngay là tội lỗi

                   Với người gian thành kẻ gian gấp bội

                   Một khi anh nói xấu láng giềng mình

                   Thì dù đúng vẫn là điều đáng khinh”

(Trích tập thơ Vườn quả – 1256 – A.M.Saadi)

  • Nội dung, ý nghĩa của đoạn thơ:

Tác giả A.M.Saadi khuyên con người không nên nói về cái dở, điều xấu, điều chưa hay của người khác dù đó là người tốt hay tồi. Nếu nói xấu người khác thì dù nói đúng vẫn là điều đáng khinh

  • Đánh giá:

Theo A.M.Saadi, nói xấu người khác là điều tội lỗi, đáng khinh bởi lẽ:

+ Con người không ai là hoàn hảo, kể cả người tốt cũng có lúc mắc sai lầm, cũng có những điều chưa hoàn thiện

+ Việc nói xấu diễn ra sau lưng người được nói đến, khiến họ không thể kiểm chứng tính đúng đắn của sự việc, càng không thể thanh minh, bào chữa cho bản thân, cho nên thực chất của việc nói xấu là nhằm bôi nhọ danh dự, hạ thấp uy tín của người khác.

+ Nếu bịa đặt, nói điều không hay về người tốt thì quả thực đó là tội lỗi lớn, còn nếu điều nói xấu là đúng thì vẫn không thể chấp nhận việc nói sau lưng, hạ thấp uy tín người khác. Nếu làm vậy dần dần mọi người sẽ dè chừng, thậm chí khinh bỉ vì một lúc nào đó mình cũng sẽ thành mục tiêu của kẻ chuyên nói xấu người khác.

+ Tuy nhiên, trong đoạn thơ của tác giả A.M.Saadi đề cập đến những lời nói xấu sau lưng thiếu tính xây dựng. Thực tế cuộc sống cần có những lời góp ý trực tiếp mang tính xây dựng để xã hội phát triển.

3.2.2. Một số bài tập đọc hiểu văn bản ngoài chương trình liên quan đến văn nghị luận văn học.

Bài tập 1:

Khi học chuyên đề Chức năng của văn học, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh: Em hãy tìm những câu nói, lời nhận định đánh giá của những nhà nghiên cứu về chức năng của văn học.

Yêu cầu:

  • Mỗi học sinh tìm ít nhất 5 câu nói, lời nhận định.
  • Đọc hiểu hình thức và nội dung của câu nói để tìm ra vấn đề được đề cập đến trong câu nói đó.
  • Theo em, có thể dùng tác phẩm nào để chứng minh cho nhận định đó?

    Bài tập 2:

Khi học chùm ca dao than thân trong chương trình Ngữ văn 10, giáo viên có thể giao bài tập đọc hiểu mở rộng: Em hãy tìm và đọc hiểu những bài ca dao than thân mở đầu bằng công thức ngôn từ “thân em”.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 5 bài ca dao.

– Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật và nội dung ý nghĩa của bài ca dao

– Chỉ ra mối liên hệ với những bài ca dao đã được học trong chương trình.

     Bài tập 3:

Khi học tác giả Nguyễn Trãi trong chương trình Ngữ văn 10, giáo viên có thể giao bài tập đọc hiểu mở rộng như sau: Em hãy tìm và đọc hiểu những tác phẩm hoặc những câu thơ của Nguyễn Trãi về chủ đề lòng yêu nước thương dân / đề cao nhân cách, phẩm tiết nhà nho chân chính / tình yêu thiên nhiên… Mỗi bài tập giáo viên chỉ nên giao nhiệm vụ tìm hiểu 1 chủ đề để học sinh tập trung cao độ và hiệu quả tốt nhất.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 5 tác phẩm hoặc câu thơ của Nguyễn Trãi có nội dung nói về lòng yêu nước thương dân.

– Đọc hiểu những đặc sắc nghệ thuật và chỉ ra nội dung ý nghĩa của bài thơ / câu thơ.

– Chỉ ra mối liên quan của bài thơ / câu thơ đó với tác phẩm được học trong chương trình. Có thể vận dụng vào bài làm văn khi nào?

    Bài tập 4:

Khi học bài Khát quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giáo viên có thể giao nhiệm vụ đọc hiểu mở rộng: Em hãy tìm và đọc hiểu những tác phẩm văn học ngoài chương trình thuộc khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 3 tác phẩm thuộc khuynh hướng hiện thực và 3 tác phẩm thuộc khuynh hướng lãng mạn.

– Với tác phẩm tự sự, học sinh cần tóm tắt được cốt truyện, nắm bắt được hệ thống nhân vật (đặc điểm của nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, cách xây dựng nhân vật), chỉ ra nội dung của tác phẩm, thông điệp của nhà văn. Với tác phẩm trữ tình, học sinh cần nắm bắt được mạch cảm xúc trữ tình của tác phẩm, đặc sắc nghệ thuật và khái quát nội dung chính của tác phẩm.

       Bài tập 5:

Khi học về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, giáo viên có thể giao bài tập đọc hiểu mở rộng như sau:

Hãy tìm đọc một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 để thấy được sự thay đổi, chuyển biến trong sáng tác của ông.

Yêu cầu:

– Mỗi học sinh tìm ít nhất 2 tác phẩm trước 1975 và 2 tác phẩm sau 1975.

– Hãy tóm tắt cốt truyện, nắm bắt hệ thống nhân vật, khái quát nội dung của tác phẩm và chỉ ra mối liên hệ với tác phẩm trong chương trình.

GỢI Ý

Bài tập 5

1.Truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành

Quỳ là một nữ y tá quân đội. Quỳ yêu Hòa bằng một tình yêu say đắm, nồng nhiệt, tôn thờ anh như một “thánh nhân” nhưng rồi chị thất vọng vì anh cũng chỉ là một con người bình thường như bao con người khác. Cái chết của Hòa đã làm Quỳ bị ám ảnh suốt đời. Đôi bàn tay “dấp dính mồ hôi” trước đây của Hòa làm chị ghê sợ thì giờ đây lại đem đến cho chị sự tiếc thương vô hạn. Đó là đôi bàn tay của một con người tài giỏi, vì vậy mà giờ đây Quỳ đau đớn thốt lên: “Dù có phải xông vào lửa đạn, dù có phải dùng hai bàn chân trần dậm lên vách đá tai bèo, dù có phải lặn xuống tận đáy bể khơi hay băng qua sa mạc cháy bỏng, dù có phải đi khắp cùng trời cuối đất, thì tôi cũng khôngg từ nan, tôi cũng xông đi, nếu lấy về được để trả lại cho anh ấy đôi bàn tay luôn dấp dính mồ hôi”. Nhưng tấtt cả đã quá muộn, giờ đây trong Quỳ là sự “ngẩn ngơ thương tiếc” đến nhói đau. Khi chị cảm thấy yêu đôi bàn tay ấy thì cũng là lúc nó vĩnh viễn không còn nữa và “trong tất cả sự mất mát thì mất một con người là không bù đắp được, không sao lấy lại được”. Quỳ đi tìm “thánh nhân” trong Hòa nhưng không gặp, khi chấp nhận anh ấy là “người thường” thì anh ấy đã không còn. Nước mắt chị không rơi, chị “nằm im mà tâm hồn vật vã” vì nỗi đau ấy quá lớn. Với Hậu, chị chỉ thấy anh là một “người thường” thì chính anh lại mang phẩm chất của một “thánh nhân” trong tình yêu. Cái chết của Hậu làm se thắt lòng người. Anh đã ngã xuống cho tình yêu, che chở cho Quỳ. Anh cho đi mà không mong nhận lại. Hậu không thể sống lại cho dù Quỳ “khóc đến khô kiệt giọt nước mắt cuối cùng” của mình. Làm sao mà Quỳ có thể quên được khi tận mắt chứng kiến cái chết của một người mình yêu và một người yêu mình. Người chết thì mãi mãi nằm xuống nhưng để lại vết thương khó liền sẹo trong lòng người đang sống.

  1. Truyện ngắn Cỏ lau

Truyện kể về cuộc đời, số phận của nhân vật Thai. Chị phải xa chồng mới cưới khi chưa có đủ một tuần hạnh phúc bên nhau. Thai đã vượt lên sự xa cách, nỗi nhớ thương để chăm sóc bố chồng, tham gia công tác xã hội và hoạt động cách mạng. Nhưng đau xót hơn là chị phải nhận xác chồng trôi sông và tự tay chôn cất người chồng mà mình hết mực yêu thương. Nỗi đau ấy tưởng chừng như đã ngủ yên trong kí ức, Thai đã quyết định đi bước nữa với Quảng và có một gia đình đầm ấm. Trớ trêu thay, sau 24 năm xa cách, người chồng mà chị tưởng như đã chết ấy nay quay trở về. Cuộc gặp gỡ đã đánh thức tình yêu tuổi trẻ của Thai và gieo vào lòng chị nỗi xót xa, ân hận. Chị mong muốn có thể xoa dịu vết thương mà chiến tranh để lại cho Lực (người chồng cũ), muốn bù đắp lại cho anh dẫu biết rằng điều đó gây đau khổ cho Quảng, cho con cái, cho cả gia đình bé nhỏ của mình. Nhưng số phận đã an bài, chị không dễ gì thay đổi hoàn cảnh éo le của mình.

  1. Truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng

Mảnh trăng cuối rừng được bắt đầu kể về thời kỳ chống Mỹ diễn ra, Lãm người lái xe quân sự vận chuyển chuyến hàng đêm nay đưa hàng ra tiền phương. Sau khi trả hàng xong, Lãm rẽ đến thăm chị gái và người yêu đang ở trong đơn vị thanh niên xung phong.

Trên đường đi, Lãm cho cô công nhân giao thông tên Nguyệt đi nhờ đến cầu Đá Xanh để gặp người yêu. Cô gái đó cùng tên với người yêu anh – Nguyệt, cô gái ấy tình nguyện dẫn đường để Lãm lái xe vượt qua đoạn đường ngầm vất vả. Ngay lúc đó, máy bay địch ào ạt ném bom thả pháo sáng, bắn khoảng 20 li đỏ lừ, dữ dội xuống khu vực ngầm. Nhưng tưởng bất ngờ như thế, Nguyệt bị hơi bom xô ngã nhưng cô lại dũng cảm đẩy Lãm vào chỗ nấp, còn bản thân thì che chắn phía ngoài. Chiếc xe lúc đó bén lửa, hai người vừa cố gắng dập lửa, vừa cho xe tiến lên vượt qua nguy hiểm. Nguyệt dò đường, để giúp xe vượt khỏi trọng điểm. Đến lúc này, Lãm mới thấy Nguyệt bị thương ở cánh tay. Dù mới trải qua nguy hiểm nhưng nụ cười vẫn tươi rói trên đôi môi của Nguyệt, trong lòng Lãm lúc đó vừa cảm phục Nguyệt vừa có một tình yêu gần như mê hoặc. Nguyệt và Lãm chia tay trong niềm lưu luyến, Nguyệt đi ngược về lại phía ngầm.

Hôm sau, Lãm ghé thăm đơn vị thanh niên xung phong, anh không gặp được Nguyệt, nhưng biết được Nguyệt chính là người mà chị Lãm giới thiệu cho anh. Lãm vô cùng xúc động, anh viết lá thư đầu tiên gửi cho Nguyệt.

  1. Tiểu thuyết Dấu chân người lính

Tiểu thuyết Dấu chân người lính­(1972) gồm ba phần: Hành quân, Chiến dịch bao vây, Đất giải phóng, đã dựng lại những khung cảnh rộng lớn và hào hùng của cuộc chiến tranh với những cảnh vượt Trường Sơn của các binh đoàn chủ lực, rồi những chiến dịch Khe Sanh – Tà Cơn với những trận chiến ác liệt trên vùng đất Quảng Trị. Cùng với việc tái hiện bối cảnh và không khí lịch sử, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã tập trung khắc hoạ hình tượng người lính cách mạng với hàng chục nhân vật thuộc các thế hệ khác nhau. Đông đúc và sinh động nhất là thế hệ trẻ, mà tiêu biểu là Lữ, Khuê, Cận. Đến với quân đội từ những vùng, miền, những hoàn cảnh xuất thân khác nhau, nhưng ở họ đều mang những phẩm chất chung của thế hệ trẻ thời ấy: lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với tổ quốc niềm say mê chiến đấu, tâm hồn trong sáng. Bên cạnh một Lữ giàu mơ mộng, lãng mạn, nhạy cảm là Khuê thông minh, sắc sảo, tinh nhạy – họ như là sự bổ sung cho nhau để tạo nên gương mặt lí tưởng của thế hệ trẻ trong ý đồ sáng tạo của nhà văn. Nhân vật chính uỷ Kinh cũng để lại được những ấn tượng đẹp về thế hệ những người lính lớp trước từng trải qua hai cuộc chiến tranh. Phẩm chất nổi bật ở người cán bộ này là tình yêu thương sâu sắc của ông với mọi chiến sĩ, được thể hiện bằng sự gần gũi, chăm lo rất  cụ thể với các chiến sĩ. Dấu chân người lính lôi cuốn người đọc bằng chất sử thi hào hùng cùng với màu sắc trữ tình lãng mạn, nhất là ở những trang miêu tả thiên nhiên, những rung động trong tâm hồn các nhân vật.

Đọc truyện Mảnh trăng cuối rừng, tiểu thuyết Dấu chân người lính, truyện ngắn Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, học sinh sẽ biết được sự chuyển đổi trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ trước 1975 đến sau 1975. Nếu trước 1975, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ca ngợi phẩm chất của con người trong chiến tranh mà nhân vật trung tâm là những người lính thì sau 1975, các sáng tác của ông mang khuynh hướng thế sự, đời tư, viết về những vấn đề nhỏ nhặt đời thường nhưng hàm chứa những bài học triết lý sâu sa. Số phận con người sau chiến tranh, những góc khuất của cuộc sống được Nguyễn Minh Châu đưa lên trang giấy và nhìn nhận bằng cái nhìn trải nghiệm sâu sắc.

Việc giao nhiệm vụ đọc hiểu văn bản ngoài chương trình còn tùy thuộc tình hình thực tế giảng dạy các lớp chuyên văn, như: tiến độ chương trình, năng lực tiếp nhận của học sinh, mức độ đam mê nhiệt huyết của học sinh, thời gian của học sinh… Trên đây chỉ là một số gợi ý về bài tập đọc hiểu để rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. Chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô để hoàn thiện và đa dạng hóa bài tập đọc hiểu cho học sinh.

PHẦN KẾT LUẬN

Đọc hiểu văn bản là một trong những kĩ năng cần có của học sinh trong thời đại mới. Thay vì được thầy cô đọc hộ, cảm hộ, hiểu hộ, học sinh cần có phương pháp để tự đọc hiểu và cảm nhận văn bản theo cách của mình, có những kiến giải riêng. Đây là yếu tố quan trọng để phát huy sự sáng tạo, tích cực ở mỗi học sinh.

Không chỉ đọc hiểu văn bản trong chương trình, học sinh THPT nói chung và học sinh chuyên Văn nói riêng nhất thiết cần biết đọc hiểu những văn bản ngoài chương trình thuộc nhiều thể loại khác nhau. Có được kĩ năng công cụ này, học sinh sẽ tự tin trước những văn bản mới, không lúng túng, lo sợ trước mỗi bài thi và có phông kiến thức rộng để luôn tự tin trong cuộc sống.

Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn cần phải được thực hiện thường xuyên, từng bước và đúng phương pháp, luôn kết hợp củng cố lý thuyết với thực hành viết bài và sửa lỗi trực tiếp trên bài làm để học sinh được rút kinh nghiệm và tiến bộ hơn. Điều quan trọng nhất trong phương pháp rèn kĩ năng đọc hiêu văn bản ngoài chương trình là luôn để học sinh được tự tìm văn bản có định hướng của giáo viên, tự đọc hiểu và rút ra phương pháp hữu hiệu nhất, nắm chắc bộ câu hỏi chìa khóa để giải mã những văn bản khác.

Mục đích trước mắt của việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình là để học sinh hiểu và biết vận dụng văn bản ngoài chương trình vào bài làm văn của mình. Bởi vậy, rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản cần song song với việc rèn kĩ năng vận dụng văn bản đó vào bài văn, để bài văn có sức khái quát và sâu sắc hơn.

Chuyên đề “Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên Văn” của chúng tôi hy vọng mang đến những kiến giải hữu ích về phương pháp rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản đối với đồng nghiệp. Kính mong nhận được sự góp ý chân thành từ đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Nguyễn Đức Ân (2000), Đổi mới dạy học tác phẩm văn chương ở trường THPT, Đề cương BDGV văn.

  1. Phạm Văn Đồng (1973), Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 11.
  2. Phạm Thị Thu Hương (chủ biên), Trịnh Thị Màu, Trịnh Thị Lan, Trịnh Thị Bích Thủy (2017), Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn chương qua hệ thống phiếu học tập, lớp 11, 12, Nxb Đại học Sư phạm, H.
  3. Nhiều tác giả (2009), Lí luận văn học tập 1: Văn học, nhà văn, bạn đọc, Nxb Đại học Sư phạm, H.
  4. Nhiều tác giả (2012), Lí luận văn học tập 2: Tác phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H.
  5. Nhiều tác giả (2013), Lí luận văn học tập 3: Tiến trình văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H.
  6. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ Văn học. Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
  7. Đỗ Ngọc Thống (2016), Tài liệu chuyên Văn tập một, hai, ba, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
  8. Bùi Thị Ánh Tuyết (2016), Luyện siêu kĩ năng – Chuyên đề đọc hiểu văn bản (Môn Ngữ Văn), NXB Đại học Quốc gia, H.

 

.

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *