Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975

Sáng kiến kinh nghiệm

MỤC LỤC

  1. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….1
  2. NỘI DUNG…………………………………………………………………………….2
  3. Giới thuyết chung về quan niệm nghệ thuật về con người……………………………2
  4. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975…………………….2
  5. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới từ 1945 – 1975 và sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người……………………………………………………………………………………2

1.1. Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử hội mới, văn hóa mới…………….…………………2

1.2 …đến những đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975…………………………………………………………………….……………………3

  1. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người ở phương diện nội dung trong văn xuôi 1945 – 1975…………………………………………………….………………………4

2.1. Con người sử thi và những dạng thức biểu hiện……………………………………….4

2.1.1. Con người sống đời sống cộng đồng của dân tộc và cách mạng……………..………….4

2.1.2. Con người xả thân vì nghĩa lớn……………………………………………………..6

2.1.3.Con người tìm thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời mình trong sự gắn bó với cộng đồng…………………………………………………………………………………………8

2.14. Con người hiện thân cho dân tộc và thời đại………………………………………..9

2.2. Những nhận thức về con người cá nhân……………………………………………….12

  1. Nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975……………………………………………………………………………………………12

3.1. Nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi…………………………………………………….13

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật……………………………………………………..13

3.1.2. Kết cấu, cốt truyện……………………………………………………………………..13

3.1.3. Giọng kể. ……………………………………………………………………………13

3.2. Nghệ thuật thể hiện trong thơ………………………………………………………….13

3.2.1. Thể thơ………………………………………………………………………………13

3.2.2. Ngôn ngữ, hình ảnh………………………………………………………………..14

3.2.3. Giọng điệu …………………………………………………………………………….14

TIỂU KẾT……………………………………………………………………………………15

III. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975…………………………16

  1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới sau 1975 và sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người……………………………………………………………………………………….16

1.1. Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử hội mới, văn hóa mới………………………….16

1.2 …đến những đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975……………………………………………………………………….………………..17

  1. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện ở phương diện nội dung trong văn học sau 1975…………………………………………………………………………18

2.1. Tiếp tục khuynh hướng ca ngợi phẩm chất con người ở những cung bậc đa dạng hơn…………………………………………………………………………………………18

2.2. Con người tự ý thức……………………………………………………….……….…19

2.3. Con người bi kịch……………………………………………………….……………….22

2.4. Con người tự nhiên, bản năng………………………………………….………………25

2.5. Con người vô thức, tâm linh…………………………………………….……………26

  1. Nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975………………………………………………………………………………………..28

3.1. Nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi…………………………………………….……28

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật……………………………………………………..28

3.1.2. Độc thoại nội tâm và kĩ thuật dòng ý thức………………………………..….….…28

3.1.3. Thủ pháp huyền thoại hóa…………………………………………………….……29

3.1.4. Trần thuật đa điểm nhìn…………………………..……………………….……….29

3.1.5. Kết cấu……………………………………………..…………………….………….29

3.1.6. Tổ chức ngôn ngữ hướng tới tính đa thanh, tính cá thể………….…….…………30

3.2. Nghệ thuật thể hiện trong thơ………………………………………….……….…..30

3.2.1. Sự mở rộng biên độ về thể loại ……………………………………….…..….….…30

3.2.2. Sự thay đổi về tầm vóc, ý nghĩa của hình ảnh……………………………….…….31

3.2.3. Sự phân hóa về các xu hướng ngôn ngữ…………………………………….….…31

3.2.4. Kết cấu linh hoạt, hiện đại…………………………………………….…..….……32

3.2.5. Giọng điệu đa dạng………………………………………………………..….…….32

TIỂU KẾT………………………………………………………………………..….…….33

  1. KẾT LUẬN……………………………………………………………………….…….34
  2. VẬN DỤNG……………………………………………………………….…..….……35

Hướng dẫn học sinh triển khai đề vận dụng………………………………….…….……35

Hướng dẫn học sinh làm bài tập chuyên đề……………………………………..….……41

Bài viết của học sinh………………………………………………………………….…….42

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….……….50

 

 MỞ ĐẦU

Lí luận văn học cho rằng: Đối tượng và nội dung của văn học chính là cuộc sống, con người. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng cũng là cõi nhân sinh lớn rộng ngoài kia. Con người trong nghệ thuật chính là sự phản ánh những mẫu người trong thực tại. Nhưng dù có là hai vòng tròn đồng tâm thì con người trong đời sống và con người trong nghệ thuật cũng không bao giờ là một. Bởi từ đời thực bước vào tác phẩm, hình tượng con người đã trở thành đứa con tinh thần của nhà văn, in dấu và thể hiện cả quan niệm, sự hình dung, cách thức và phương tiện tạo tác của chủ thể nghệ sĩ. Vì vậy, hoàn toàn chính xác khi cho rằng: tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người chính là bước đi thiết thực để khám phá tính độc đáo, chiều sâu tư tưởng trong cách thể hiện con người của nhà văn cũng như của mỗi thời đại văn học.

Tuy nhiên, thời đại nào, văn học ấy. Phải nói thêm, mỗi thời đại lại xây lên một quan niệm nghệ thuật mới về con người. Trải qua 30 năm chiến tranh (hết chống Pháp rồi chống Mĩ), với đại thắng mùa xuân năm 1975, chúng ta bước sang một trang mới: độc lập, thống nhất, đồng thời cũng phải vươn dậy mạnh mẽ để thay đổi chính mình. Văn học không nằm ngoài hiện thực lịch sử ấy. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay giúp chúng ta một lần nữa nhìn nhận rõ hơn một vấn đề quan trọng của văn học ở mỗi chặng đường lịch sử cũng như sự khác nhau giữa chúng, từ đấy thấy rõ hơn sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc.

Trong thực tế dạy văn và học văn, không ít người còn chưa lí giải được: vì sao cũng là con người ấy nhưng xuất hiện trong văn học thời chiến tranh họ lại mang một suy nghĩ khác, một hành động khác. Trong suy nghĩ của học sinh, có thể các em đều ghi nhớ được rằng con người trong văn học 1945-1975 là con người mang vẻ đẹp sử thi, còn con người trong văn học sau 1975 là con người đời tư, đời thường; các em hoàn toàn có thể lấy được dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm trong chương trình để làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản ấy. Nhưng lí giải vì sao lại có sự khác nhau như thế, vì sao lại có bước chuyển như vậy trong cách nhìn về con người ở các nhà văn thì vẫn còn không ít học sinh thực sự lúng túng.

Nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp các em hiểu thấu vấn đề để khi cần thiết các em có thể tự tin cắt nghĩa, giải thích; cũng là một cách thiết thực chúng ta góp vào phong trào chống học chay, học vẹt hiện nay.

 

NỘI DUNG

  1. Giới thuyết chung về quan niệm nghệ thuật về con người

Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những vấn đề vấn đề được quan tâm hàng đầu trong nghiên cứu, lí luận phê bình. Dễ hiểu vì sao đã có nhiều quan niệm của nhiều nhiều nghiên cứu về vấn đề này.

Nhà lí luận hàng đầu – Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người  là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết , tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người trong tác phẩm của mình”.

Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.

   Cũng về vấn đề này, một chuyên gia về văn học Việt Nam hiện đại đã viết trong một bài nghiên cứu: “Quan niệm về con người chính là những nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nhà văn, là nơi đánh dấu trình độ tư duy nghệ thuật, của một thời đại, một trào lưu, một tác giả”.

“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật”.

Mới đọc, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng: cùng một vấn đề nhưng mỗi người đã có một cách hiểu và một cách đặt vấn đề khác nhau.

Song tìm hiểu kĩ sẽ thấy, các khái niệm trên khác nhau mà không mâu thuẫn, khác nhau mà vẫn thống nhất trong một cái nhìn về bản chất của quan niệm nghệ thuật về con người. Có khác chăng chỉ là do lối diễn đạt muôn hình muôn vẻ của ngôn ngữ nghệ thuật và nếu có sự khác nhau nào đó trong cách đặt vấn đề thì đó là do các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận quan niệm về con người ở các góc độ khác nhau mà thôi.

Từ việc tham khảo tài liệu, kết hợp với thực tế tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy văn học, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một cách hiểu như sau:

 Quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù quan trọng của thi pháp học. Đó là cách nhìn, cách cảm, cách cắt nghĩa, lí giải và cách thể hiện đầy độc đáo, sáng tạo của mỗi nghệ sĩ, mỗi thời đại nghệ thuật về con người. Quan niệm ấy thể hiện cụ thể, sống động trong tác phẩm của nhà văn.

  1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975
  2. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới từ 1945 – 1975 và quan niệm nghệ thuật về con người

1.1.Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử hội mới, văn hóa mới…

Cách mạng tháng  Tám năm 1945 không chỉ là một bước ngoặt trong lịch sử, mà còn mở ra một thời đại văn học mới của dân tộc. Ba mươi năm văn học từ 1945 đến 1975 là kết quả, công sức sáng tạo lớn lao và phong phú của các thế hệ nhà văn, của cả dân tộc ta, đồng hành với sự nghiệp dựng xây, bảo vệ và phát triển chế độ XHCN. Như một quy luật, văn học luôn gắn liền với cuộc sống và có ích cho đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học ngày càng có vị trí rộng lớn và sâu xa trong đời sống xã hội, nhà văn ngày càng thấy rõ hơn trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Vì mục tiêu  Độc lập, Tự do và CHXH, sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn của Đảng, của toàn dân tộc đã dành cho văn học nghệ thuật một vai trò quan trọng “ Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bắt nhạy với yêu cầu của thời đại,  các nhà văn đã tìm thấy con đường vươn tới lý tưởng Chân, Thiện, Mĩ của con người và nghệ thuật trong sự gắn bó với Cách mạng và kháng chiến.  Hiện thực cách mạng nóng hổi và “sắt lửa mặt trận”  đã tạo nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao nhà văn, thổi bùng lên ngọn lửa trong tâm hồn họ. Chính những nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn nghệ, về trách nhiệm của nhà văn trong đời sống đã có ý nghĩa rất quan trọng trong ý thức nghệ thuật của văn học 1945 – 1975. Vì thế, những định hướng miêu tả con người của nền văn học mới đã được xác lập và phát triển.

Song song với sự trưởng thành của cả nền văn học là trưởng thành về ý thức nghệ thuật của lớp lớp nhà văn nghệ sĩ.  Đường lối văn nghệ luôn bám sát sự phát triển của cuộc sống và văn học, giữ vai trò chỉ đạo và định hướng, tạo điều kiện để mỗi nghệ sĩ có thể phát huy tài năng của mình để đóng góp vào sự nghiệp chung. Quan niệm nghệ thuật về con người vì lẽ đó cũng gắn chặt với nhiệm vụ và chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, về tính giai cấp, tính dân tộc của văn học.  Vì thế, vấn đề quan niệm về con người đã được trực diện nêu ra như một trọng điểm trong ý thức nghệ thuật của người nghệ sĩ, của nền văn học mới.

1.2 …đến những quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975

Trong quá trình phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám, quan niệm nghệ thuật về con người trong ý thức của nhà văn ngày càng phong phú và  tăng cường khả năng cảm thụ, miêu tả cuộc sống và  con người. Những tìm tòi, sáng tạo của mỗi tác giả là vô cùng đáng quý và cần thiết nhưng chỗ dựa của họ vẫn là sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đã trang bị cho đội ngũ nhà văn một phương pháp suy nghĩ, một cách nhìn mà họ vừa có thể hòa nhập vào vừa có thể tách ra để nhìn nhận, suy nghĩ và thấu hiểu. Có thể thấy, quan niệm về nhân sinh, cách hiểu và hình dung về con người, phương hướng đi sâu vào cuộc sống để khám phá con người trong ý thức nghệ thuật của giai đoạn 1945 – 1975 biểu hiện trên các khía cạnh sau:

– Nếu con người lý tưởng của văn học trung đại chủ yếu là những kẻ sĩ, những tài tử giai nhân; nếu văn học 1930 – 1945 chú ý đến những thanh niên trí thức hoặc hướng về tìm hiểu số phận, phẩm chất của những con người bé mọn thì trong giai đoạn 1945 – 1975, thực tế cách mạng đã mang lại cho người cầm bút những định hướng mới về quan niệm con người. Đối tượng thẩm mĩ chính của văn học giai đoạn 1945 – 1975  là con người quần chúng cách mạng. Vì thế, quan niệm con người trong ý thức nghệ thuật giai đoạn này được xây dựng trên sở quan niệm về con người cách mạng, về quần chúng cách mạng. Chính vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng xã hội, trong thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc là nền tảng, là cơ sở nảy sinh ý thức cho quan niệm con người quần chúng của nền văn học mới. Trong suy nghĩ  của người cầm bút, quần chúng nhân dân như một tập thể, như những con người cụ thể ngày càng phát triển phong phú và toàn diện hơn, trở thành nhân vật chính của văn nghệ. Từ đây, con người cao đẹp mà văn học hướng tới miêu tả là con người quần chúng cách mạng, là con người của cộng đồng dân tộc trong nhiệm vụ cách mạng với các phẩm chất cách mạng của mình. Cái đẹp, cái cao quý của con người mà nền văn học mới tìm tòi, phát hiện, xây dựng, cổ vũ là thuộc về  những con người xuất hiện, trưởng thành cùng sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, xây dựng CNXH và chống Mỹ cứu nước của toàn dân ta.

– Vẻ đẹp thẩm mĩ của con người được nhìn nhận và thể hiện trong ý thức và hành động hướng về cách mạng, về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc. Vẻ đẹp ấy trước hết  được biểu hiện ở sự giác ngộ và tự nguyện gánh lấy những sứ mạng xã hội, sứ mạng cách mạng của con người, ở những nỗ lực, cố gắng cải biến thiên nhiên, cải biến xã hội và bản thân vì hạnh phúc của nhân dân. Vẻ đẹp của nhân vật văn học phải gắn liền với tinh thần anh dũng, chí căm thù, xả thân vì dân tộc, quên mình vì lý tưởng.  So với văn học công khai trước cách mạng, quan niệm về vẻ đẹp của con người quần chúng là biểu hiện mới của ý thức nghệ thuật 1945 – 1975. Nhìn nhận con người trong sự gắn bó với lí tưởng xã hội tốt đẹp, với lực lượng cộng đồng với ý thức tự giác thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, văn học đã xây dựng được các nhân vật khỏe khoắn, phơi phới trong cái giản dị rất đời thường của con người, kế thừa được những thành tựu khám phá và thể hiện sức mạnh của con người lao động, con người yêu nước chống ngoại xâm, con người yêu tự do, chống áp bức bóc lột trong văn học truyền thống, mở rộng và khơi sâu vẻ đẹp sức mạnh của con người đến những tầm cao mới của dân tộc và thời đại, mang lại sức hấp dẫn và có tác dụng giáo dục mạnh mẽ cho văn học.

Như vậy, với quan niệm về vẻ đẹp của con người gắn với ý thức về sứ mạng và lí tưởng  cách mạng, với sức mạnh và hành động cải tạo và dựng xây cuộc sống của dân tộc ngày càng tốt đẹp, với tinh thần thời đại, văn học 1945 – 1975 đã thực sự đổi mới ý thức nghệ thuật từ trong quan niệm con người. Trên cơ sở quan niệm về con người ấy, các nhà văn đã sáng tạo ra những hình tượng điển hình, sống động, khắc họa chân dung và vẻ đẹp tinh thần của con người  Việt Nam trong một chặng đường lịch sử sáng chói chiến công của dân tộc. Tất cả những điều đó được minh chứng rõ nét qua các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca – các thể loại đạt được những thành tựu đáng kể của giai đoạn văn học này.

  1. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện ở phương diện nội dung trong văn học 1945 – 1975

2.1. Con người sử thi và những dạng thức biểu hiện

Trong ý thức nghệ thuật của nền văn nghệ mới, con người được chú ý khám phá thể hiện trước hết ở các phẩm chất anh hùng cao đẹp với thái độ ngợi ca, biểu dương như những tấm gương ngời sáng. Cách nhìn nhận đánh giá ấy đã gắn liền văn học với cảm hứng sử thi và con người trong văn xuôi 1945 – 1975 cũng chủ yếu được miêu tả từ quan niệm sử thi về con người như thế.

2.1.1. Con người sống đời sống cộng đồng của dân tộc và cách mạng

Từ cuộc phục sinh của tâm hồn dân tộc trong lòng mỗi người dân và mỗi nghệ sĩ sau Cách mạng tháng Tám, từ những phẩm chất tốt đẹp của các tầng lớp nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng đất nước ngày càng đổi mới, các tác giả văn xuôi 1945 – 1975 đã khắc họa nổi bật hình ảnh những thế hệ người Việt Nam sống hết mình với sự nghiệp chung của cộng đồng. Ở loại hình nhân vật này, đời sống chung của dân tộc và cách mạng được cảm nhận như đời sống riêng của con người. Nhân vật như không hề có cảm giác về riêng bản thân mình, không có cá tính, không nhu cầu, đòi hỏi. Nhân vật phát ngôn như đại diện cho ý thức của cả một lớp người, hoặc hòa tan vào tập thể, bình đẳng  với mọi người trong những hoạt động vì nghĩa lớn, vì lí tưởng chung. Xuất hiện trong các tác phẩm văn xuôi viết về đêm trước của cuộc Cách mạng là kiểu nhân vật sống cuộc đời lầm than đói nghèo của nhân dân, họ cất tiếng nói phê phán chế độ thực dân, phát xít, đòi quyền sống. Thảm họa đói năm 1945 trong đời sống dân tộc cũng được ghi đậm trong Vợ nhặt  (Kim Lân), Lột xác (Nguyễn Tuân) …Anh Tràng có thể khác người ở việc lấy vợ trong hoàn cảnh trời đất tăm tối vì đói khát nhưng cả câu chuyện ấy cũng tồn tại trong khung cảnh nghèo đói chung của không chỉ xóm ngụ cư mà của cả bao vùng miền đất nước. Nhân vật Thị không giống muôn người phụ nữ khác trong cách liều lĩnh theo không một người đàn ông xa lạ về nhà, sẵn sàng gửi phận cho người vừa đãi mình bốn bát bánh đúc và đâu biết hạnh phúc ấy sẽ là dòng trong hay bến đục đợi chờ nhưng câu chuyện đầy éo le của Thị được nảy sinh từ chính cái đói trong thảm họa kinh hoàng của dân tộc năm ấy và số phận bất hạnh đó của Thị chỉ là một trong số ít nhưng điển hình cho bao người phụ nữ khác cũng lăn lóc trong cái chốn chợ đời ấy. Cảnh đời cơ cực ấy cũng giống như  nhân vật Xan trong truyện ngắn Buổi chiều xám , nhân vật người ăn mày trong Tiếng nói của Nguyên Hồng…

Khi cả dân tộc tưng bừng chào đón và một lòng tham gia cách mạng, trong sáng tác của các nhà văn Hoài Thanh, Trần Đăng, Nguyễn Tuân, Nam Cao…xuất hiện mẫu hình mới về con người sống trong những ngày náo nức đó. Đó là những cô thôn nữ “ tươi cười trong nón”, nai nịt gọn gàng cứ chiều chiều lại tập múa đại đao trong sân trường (Dân khí miền Trung – Hoài Thanh); đó là những đứa trẻ bán báo, bác hàng rong, anh em thợ thuyền, các bà, các mẹ,… (Một lần tới thủ đô – Trần Đăng). Cùng với phong trào kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến, đội ngũ những người viết ngày cảng đông đảo. Đề tài về con người kháng chiến ngày cảng mở rộng, đồng thời cách nhìn con người trong cuộc sống cộng đồng ngày càng được khẳng định. Hình tượng những đơn vị bộ đội, những cơ quan, những làng quê, những cán bộ, đội viên vệ quốc, những chị cứu thương, em liên lạc, những bà mẹ, người dân ở mọi miền quê, mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh được nhìn nhận và miêu tả trong những hoạt động “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, theo tinh thần “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Đó là những người dân vùng căn cứ địa kháng chiến trong tập Núi Cứu Quốc (Tô Hoài) một lòng tin vào cách mạng, ở cụ Hồ, ở cán bộ dù trong hoàn cảnh nào cũng hết lòng đi theo tiếng gọi của sự nghiệp chung. Cứ nghe Độ nói về những người dân quê trong Đôi mắt (Nam Cao) chuyện trò: “viết chữ Quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít… Họ hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm”. Luôn hướng về kháng chiến, kiến quốc của dân tộc là những dấu hiệu của kiểu nhân vật làm nhiệm vụ chung, nghĩ sự nghiệp chung” rất phổ biến trong văn xuôi kháng chiến.

Con người sống trong cuộc sống cộng đồng “vì nghĩa quên thân” đã từng xuất hiện trong văn học dân tộc. Nhưng chỉ sau cách mạng, phẩm chất này mới này được ý thức một cách đầy đủ nhất. Vẫn là con người của đời sống cộng đồng, nhưng từ sau cách mạng, nhân vật ông Hai làng chợ Dầu (Làng – Kim Lân) đã có những đổi thay. Từ con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung. Sự thay đổi trong tình cảm, trong cách nhìn của ông với ngôi mộ của viên tổng đốc,với phong cảnh trong làng, sự thay đổi trong thái độ của ông trước và sau  khi nghe tin cải chính về làng đã chứng tỏ điều đó. Nếp sống của ông, niềm vui, nỗi buồn của ông là những minh chứng sinh động của hình tượng con người toàn tâm, toàn ý trong đời sống kháng chiến chung của dân tộc.

Văn xuôi chống Mỹ cũng xây dựng hàng loạt hình tượng những con người sống hết mình cho lý tưởng Độc lập – Tự do. Trong truyện ngắn Nguyễn Thi,  những người dân, từ những em bé, đến mẹ Nguyễn thị Út  (Mẹ vắng nhà) hay Những đứa con trong gia đình đều náo nức tham gia, bận rộn hay vui mừng lo lắng theo diễn biến của trận đánh. Khó có thể kể hết các nhân vật luôn hòa mình giữa phong trào, giữa cuộc chiến đấu như Phước (Hoa rừng – Dương Minh Hương), Hựu, Quế (Khói – Anh Đức), Cam (Hai anh em – Phan Tứ), Ông Hai (Truyện bên bờ sông Vàm Cỏ – Lê Văn Thảo)…luôn coi việc tham gia cách mạng, cầm súng đánh giặc giải phóng quê hương, thống nhất đất nước là niềm vui sướng nhất trên đời.

Như vậy, trong suốt 30 năm sau Cách mạng tháng Tám, bám sát cuộc sống của nhân dân bảo vệ và xây dựng đất nước, văn học đã sáng tạo nhiều dáng vẻ cụ thể tô đậm biểu tượng con người sống đời sống cộng đồng, sống với những lo toan, vất vả những vui sướng tự hào chung của Tổ Quốc, nhân dân.  Những nét vẽ ấy khiến văn học nước ta đã thể hiện kịp thời và bao quát các sự kiện cơ bản của đời sống xã hội, giúp văn học cảm nhận và miêu tả được sự vươn mình trưởng thành của con người dưới ánh sáng cách mạng, cảm nhận và miêu tả nhân cách mới, tầm vóc và sức mạnh mới mẻ, kỳ vĩ chưa từng có của các thế hệ người Việt Nam làm nên những chiến thắng lịch sử suốt hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ.

Không chỉ xuất hiện ở thể loại văn xuôi, lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca Việt Nam, các nhà thơ giai đoạn 1945 – 1975 mang tới một quan niệm nghệ thuật về con người xã hội với một số đông, tạo thành một lực lượng xã hội hùng hậu. Họ là số đông “vạn nhà”, “vạn kiếp” “vạn đầu”, là “bao hồn khổ” với “ những lưng cong xuống luống cày, là “khối người, khối đời, đoàn chiến hạm, đoàn chim quyết thắng, dòng người cuộn thác” (Từ ấy- Tố Hữu). Họ là “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” (Tây Tiến – Quang Dũng), là “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ…” (Ngày về – Chính Hữu), là “người người lớp lớp” (Đất nước– Nguyễn Khoa Điềm) sống giản dị, bình tâm, vô danh mà làm nên Đất Nước… Các tác giả đã xây dựng nên những hình tượng tập thể kì vĩ, đầy sức mạnh, hào hùng chưa từng có trong  thơ ca cách mạng. Số đông ở đây không chỉ là số nhiều, nó là sự giàu có, phong phú, bất tận, vững bền, vô địch.  Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gọi là “nhân dân”, Tố Hữu gọi họ bằng nhiều cách khác nhau “bạn đời, bạn lòng, bạn muôn đời”… Chính Hữu gọi bằng  hai tiếng “đồng chí”…

2.1.2. Con người xả thân vì nghĩa lớn

Trong cách nhìn nhận con người của văn học dân tộc, cha ông ta đã từng đề cao những nhân vật “ trọng nghĩa khinh tài”, những nhân vật “ vị nghĩa vong thân”. Sau Cách mạng tháng Tám, trong quan niệm của những người làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương đất nước và giác ngộ lí tưởng tiên tiến của thời đại, “trung với nước, hiếu với dân” là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Đó là cách sống quên mình để thực hiện nhiệm vụ cách mạng, để hoàn thành sự nghiệp chung. Trong mọi hoàn cảnh, con người xả thân vì nghĩa lớn luôn hướng về lợi ích chung, gạt bỏ những đòi hỏi và quyền lợi riêng tư để thực hiện nhiệm vụ.

Trong văn xuôi viết về đề tài kháng chiến, các tác giả đã thể hiện loại hình nhân vật này từ nhiều phương diện khác nhau của cuộc sống. Có kiểu nhân vật tự thu xếp, khắc phục hoàn cảnh, nguyện vọng,thói quen riêng để gia nhập vào sự nghiệp chung như nhân vật chính trong Một đêm năm ngoái (Nguyễn Huy Tưởng), nhân vật Sìn (Đi dân công – Tô Hoài) dù biết rõ cảnh vợ con nheo nhóc, vất vả vẫn thu xếp việc nhà để hoàn thành công việc Cách mạng giao. Hay nhà văn Đỗ Chu kể chuyện kháng chiến của vợ chồng anh Khang, chị Tiềm (Mùa cá bột), chị nói với anh “ nếu còn Tây thì nhất  định không chịu có con”…Hay kiểu nhân vật gắn thù nhà với nợ nước, vượt qua những mất mát riêng tư để phấn đấu cho những thắng lợi chung. Nhân vật Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) đã vượt lên nỗi đau khôn xiết của đời mình. Mười đầu ngón tay bị kẻ thù thiêu đốt khiến thể xác anh như rụng rời, ứa máu. Vợ con bị kẻ thù sát hại, tra tấn bằng roi sắt một cách mạn rợ trước mắt anh khiến nỗi đau như đẩy đến cùng cực của đời người. Nén chặt nỗi đau trong tim và gạt đi nước mắt, Tnú đã tham gia lực lượng, giết tên tướng chỉ huy trong hầm cố thủ bằng chính đôi bàn tay tàn tật của mình. Ba năm đi lực lượng, nỗi nhớ quê hương cũng thật khôn xiết nhưng chỉ được phép cấp trên, anh mới về thăm làng và sáng hôm sau lại vội vã lên đường.  Đó còn là một thiếu nữ đẹp từ cái tên đến vóc dáng con người như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu) dù mảnh dẻ là thế mà kiên cường dám giành các ác liệt của đạn bom về mình để che chở cho người lính lái xe Trường Sơn trong lần đầu gặp gỡ. Với các mô típ nghệ thuật trên, văn xuôi 1945 – 1975 đã nêu bật và ca ngợi những tấm gương quên mình vì nước của tầng lớp những con người Việt Nam, họ là những con người bình thường, biết chủ động tự  vươn lên để trở thành con người cao cả, khắc họa và mở rộng hình ảnh con người sử thi trong nền văn học mới.

Liền mạch với văn học kháng chiến, hình thức nhân vật xả thân vì nghĩa lớn cũng được phổ biến ở các sáng tác viết về cuộc sống và con người trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hình tượng các thế hệ miền Nam kiên cường, chấp nhận hi sinh gian khổ để giữ gìn uy thế của cách mạng, để thể hiện tình cảm của người dân Thành Đồng Tố Quốc với miền Bắc, với Bác Hồ, với sự nghiệp chung. Toát lên ở  hầu hết các nhân vật là lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, sẵn sàng quên mình vì sự nghiệp chung như hình tượng ông Tám Xẻo Đước (Đất – Anh Đức) thà chết chứ không dời nhà để giữ trọn ân nghĩa với cách mạng, làm gương cho lối xóm, giữ vững phong trào đấu tranh chống địch dồn dân, lập ấp. Trong truyện ngắn của Phan Tứ,  không chỉ có bác Tám Sành (Lửa đêm) bị cảm nặng vẫn tham gia đốt rào, phá ấp chiến lược, cùng bà con nổi dậy mà còn có Cam (Hai chị em) cũng hăng hái lao vào trận mong giải phóng cho quê hương…Truyện ngắn Nguyễn Trung Thành đã khắc họa được những thế hệ nối tiếp nhau, một lòng đi theo cách mạng, bất chấp gian khổ hi sinh (Rừng xà nu), nhà văn cũng nhiệt thành ngợi ca những du kích, chiến sĩ giải phóng quân vì mục đích diệt thù mà quên cả mạng sống của mình (Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc)

Cùng với văn xuôi giai đoạn này, thơ ca cũng khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân của con người thời đó (Ðất nước  – Nguyễn Ðình Thi; Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông; Bên kia sông Ðuống – Hoàng Cầm; Ðôi mắt người Sơn Tây – Quang Dũng). Các phẩm chất của kiểu con người sử thi trong  thơ ca cũng được biểu hiện ở  tinh thần đoàn kết, đấu tranh, có tình hữu ái giai cấp, tình cảm nhân loại, khát vọng tự do, xả thân vì quê hương đất nước… Đó chính là sự kế thừa  những vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam như lòng thương người, tình cảm nhân đạo, tình yêu nước, tình yêu nam nữ và sáng tạo ra nét mới phù hợp với hoàn cảnh  thời đại. Thơ Tố Hữu là một minh chứng điển hình cho điều đó. Từ con người số đông mang hận thù xã hội cũ, say mê tương lai, quyết tử đấu tranh của Từ ấy, đến con người làng quê bình thường đầy tin tưởng, ân tình sâu nặng đối với cách mạng trong Việt Bắc, con người trẻ trung sung sức, son sắt mang tầm vóc đất nước của Gió Lộng, con người bốn nghìn năm đầy khí phách hiện ngang trong Ra trận và con người thể chất, xương thịt nhưng rất đỗi kiên cường, anh dũng trong Máu và hoa. Mỗi quan niệm mới về con người của Tố Hữu đều rọi một ánh sáng mới, mở rộng giới hạn thể hiện các khả năng cách mạng vô hạn của con người Việt Nam luôn sống bằng đạo lý, lẽ phải, tình thương, cao hơn mọi thử thách gian khổ và luôn luôn gắn bó với thiên nhiên, đất nước, Tổ quốc.

2.1.3. Con người tìm thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời mình trong sự gắn bó với cộng đồng

Văn xuôi 1945 – 1975 đã góp phần khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp chói ngời và khả năng cải tạo cuộc sống, cải tạo con người của cách mạng và thời đại khi xây dựng kiểu nhân vật hồi sinh nhờ Cách mạng.  Lột xác của Nguyễn Tuân đã thể hiện khá tỉ mỉ và cảm động hình tượng chàng thanh niên Nguyễn đi tìm ý nghĩa và giá trị cuộc sống cho mình. Anh đã có những giây phút bế tắc, tự cho rằng cuộc đời mình là vô nghĩa. Rồi Nguyễn gặp Cách mạng, soi mình vào cuộc đời chung rộng lớn, anh đã từng bước tìm thấy niềm tin trên con đường hòa vào với sự nghiệp chung. Trong Vợ nhặt, Kim Lân để cho vợ chồng Tràng bén duyên hạnh phúc vì cái đói cũng đã nghĩ đến  “đoàn người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”, nghĩ tới việc tham gia cách mạng như là con đường để giữ gìn mạng sống và hạnh phúc vừa mới nhen nhóm của mình.

Con đường đi của Nguyễn, của vợ chồng Tràng, dù xuất phát từ hoàn cảnh khác nhau, cũng đi chung con đường của Độ (Đôi mắt – Nam Cao), của vợ chồng A Phủ, Lưu, Hoan (Đường về  – Nguyễn Đình Thi)… Nhờ sức mạnh của bản năng sống mãnh liệt mà Mị và Aphủ dìu nhau thoát khỏi ách bóc lột, sự đày đọa bố con Thống Lí, nhưng sau khi gặp A Châu, gặp cách mạng, họ mới thực sự sống tự do, chống lại áp bức bất công. Như A Phủ nói với Mị: “Em phải đi họp du kích thì cái gan em nó mới to ra, mới khỏi sợ, mới biết thù nó được”. Và chỉ trên đường cùng chồng đi họp du kích bàn cách đánh giặc, lần đầu tiên nghe đến bố con Pa tra, Mị không còn thấy sợ nữa”. Hay nhà văn Độ (Đôi mắt – Nam Cao), từ tình trạng bế tắc “chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo không biết bán cho ai”, Độ đã tìm thấy niềm tự tin ở sự dẻo dai “đi hàng mười lăm cây số, ngủ ngay trong nhà in, đèn sách và máy chạy ầm ầm, tìm thấy những cảm hứng mới cho văn nghệ” khi “đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền, nhập bọn với đoàn văn hóa kháng chiến”, cuộc sống của Độ như được hồi sinh với những trang đời mới như thế. Xây dựng kiểu nhân vật này chứng tỏ các tác giả đã tiếp cận dòng chảy lớn của phong trào dân tộc từ những cảnh ngộ đa dạng của cuộc sống con người, phản ánh và cắt nghĩa đầy đủ hơn lực lượng và sức mạnh chiến thắng của nhân dân cũng như khả năng cảm hóa, tỏa sáng của sự nghiệp Cách mạng.

2.1.4. Con người hiện thân cho dân tộc và thời đại

Kiểu nhân vật hiện thân cho dân tộc và thời đại là những con người mang ý thức, tư thế tiêu biểu cho dân tộc và thời đại. Loại hình nhân vật này không chỉ sống đời sống chung của cộng đồng, không chỉ hết mình vì tập thể mà còn là những hình tượng kết tinh và tiếp nối những phẩm chất tốt đẹp trong trường kì lịch sử của dân tộc, quê hương, giác ngộ sâu sắc lí tưởng tiên tiến của thời đại, trở thành hiện thân của sự gặp gỡ giữa quá khứ và hiện tại, đại diện cho cộng đồng. Đâycũng là kiểu nhân vật có ý nghĩa khái quát và tầm vóc sử thi

Từ những ngày đầu kháng chiến, các tác giả truyện ngắn đã phát hiện và miêu tả kiểu nhân vật suy nghĩ và hành động với tư cách là người dân nước Việt, con cháu của Bác Hồ. Dù già hay trẻ, khoẻ mạnh hay thương tật, chiến đấu ở chiến trường hay sinh sống ở hậu phương… những nhân vật này đều thể hiện sức mạnh và niềm tự hào của dân tộc vừa được giải phóng. Một em bé 13, 14 tuổi mang tinh thần là Cháu Bác Hồ (Nguyễn Công Hoan) dùng dao bắt hai tên xâm lược đền tội, khi bị thương chỉ “nghĩ đến Bác và gọi Bác”. Tình cảm với lãnh tụ là một biểu hiện của tình cảm với đất nước và mỗi nhân vật như đều cảm thấy mạnh mẽ hơn. Đọc Làng (Kim Lân), ta còn nhớ một chi tiết Kim Lân khắc họa hình ảnh nhân vật ông Hai khi ông đau khổ vì bị coi là dân của làng theo giặc. Sức mạnh duy nhất để ông có thể tự tin ở danh dự của mình được khơi lên từ niềm tin và lòng trung thành của bố con với Cụ Hồ, dù trong trường hợp nào,ông cũng thuộc về Cách mạng và kháng chiến. Nhân vật Hoàng (Đôi mắt – Nam Cao) khi muốn chứng minh với Độ rằng mình vẫn thuộc về cộng đồng nhân dân, vẫn tin tưởng ở kháng chiến đã viện lí do “có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ”. Hay có những nhân vật chỉ thoáng xuât hiện trong truyện nhưng tính chất đại diện cho dân tộc lộ ra rất rõ khi họ được miêu tả với ý thức chung của cộng đồng. Một anh thanh niên vác bó tre đi ngăn quân thù mang ý thức “cuộc trường kì kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn…”. Hay cán bộ A Châu (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) chỉ có ước mong “bao giờ ta lấy lại độc lập, bấy giờ tha hồ đi, đi đâu cũng được ở yên, làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, ở đâu cũng sung sướng…”. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng nhìn thấy ở mỗi sự việc, con người cụ thể kiểu nhân vật biểu hiện sự vận động và khí thế chung của thời đại. Các tác giả thường bộc lộ cách cảm nhận và miêu tả nhân vật trong những liên tưởng khái quát sâu rộng. Những đổi thay của cảnh vật và con người ở nông trường Điện Biên (Mùa Lạc – Nguyễn Khải) không chỉ liên quan đến Đào, Duệ…mà cũng là câu chuyện “cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi”, là chuyện sức vóc con người có thể thay đổi  được cuộc sống nhiều đến thế.

Thời kì chống Mỹ, trong văn xuôi xuất hiện phổ biến hàng loạt hình tượng con người hiện thân của truyền thống chống ngoại xâm, tiêu biểu cho sức mạnh của các thế hệ người Việt Nam không ngừng đấu tranh cho lí tưởng Độc lập, Tự do và chủ nghĩa xã hội.  Tầm vóc của con người Việt Nam chống Mỹ không chỉ thể hiện trong chiều rộng của miền vùng đất nước, trong chiều sâu của truyền thống dân tộc mà còn bằng dấu hiệu và thước đo chung của nhân loại trên tầm cao thời đại. Hình tượng Chiến và Việt  của Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) không chỉ là hình ảnh cụ thể của cả thế hệ, cả dân tộc vùng dậy đau thương mà còn là sự tiếp nối truyền thống oanh liệt của cha ông thủa trước. Các nhân vật trong Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) được miêu tả như hiện thân của truyền thống bất khuất gìn giữ buôn làng và đoàn kết đánh giặc của dân tộc Tây Nguyên. Sâu thẳm trong sức mạnh diệt thù, trong tâm hồn Tnú là cả quá trình trưởng thành nhờ sự nuôi dưỡng dạy dỗ của buôn làng và cán bộ cách mạng, là “ tiếng chày chuyên cần, rộn rã của người đàn bà và những cô gái Stra, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi” Cũng vậy, ông Tám Xẻo Đước (Đất – Anh Đức), ông Tư (Giấc mơ ông lão vườn chim– Anh Đức), ông Sần (Về làng – Phan Tứ)… là những người mang truyền thống gắn kết nhất mực với quê hương, bởi vì trên mảnh đất ấy, con người đã nối nhau làm ra lịch sử của mình. Hay tiếp bước cụ Mết (Rừng xà nu) là các thế hệ Tnú, Mai, anh Brôi, sau đó là Dít, bé Heng. Họ giống như những thế hệ xà nu với sức sống bất diệt mà đạn đại bác không thể tiêu diệt nổi. Tiếp nối ông nội là ba, má, chú Năm (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) và sau đó là Việt, Chiến. Dòng sông truyền thống của gia đình  Việt được hòa kết từ  khúc thượng nguồn đến hạ nguồn, khúc sông sau hứa hẹn sức chảy mãnh liệt hơn khúc sông trước và hòa vào dòng sông truyền thống của cả dân tộc.

Cùng chung đặc điểm đó về con người trong văn xuôi, thơ ca cũng khắc họa được những hình tượng vừa bình thường, chân chất vừa phi thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai cấp vô sản được kết tinh ở người anh hùng thời đại mới. Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người Vệ quốc quân, hình tượng Chủ Tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Rất nhiều bài thơ hay về Bác: Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu); Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu); Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn.

Đó còn  là những con người có lí tưởng cao cả vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, có ý thức sâu sắc về tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại. Mỗi cá nhân được thể hiện như là biểu hiện tập trung ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng, dân tộc, thời đại. Nói về chị Trần Thị Lý, Tố Hữu viết:

Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại

Còn một giọt máu tươi còn đập mãi

Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời

Cho quê hương em, cho Tổ quốc, loài người

Khám phá và miêu tả những con người tiêu biểu của thời đại mình bao giờ cũng là khát vọng của các nhà văn chân chính ở mọi thời đại. Lịch sử văn học các thời đại đều gắn liền với mẫu người tiêu biểu của thời đại ấy. Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu; Hoa ngày thường, Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới, Ngày vĩ đại của Chế Lan Viên; nhiều bài thơ của Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Huy Cận, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nam Hà… đều xây dựng được những hình tượng tiêu biểu cho ý chí, khí phách của con người và thời đại. Lâm Thị Mỹ Dạ đã phát hiện ra sự hoá thân của con người vào đất nước lung linh kì ảo:

Em nằm dưới đất sâu

Như khoảng trời đã nằm yên trong đất

Đêm đêm, tâm hồn em toả sáng

Những vì sao ngời chói lung linh

Có phải thịt da em mềm mại trắng trong

Đã hoá thành những vầng mây trắng?…

(Khoảng trời hố bom)

Lê Anh Xuân khắc họa một dáng đứng Anh Giải phóng quân, dáng đứng Việt Nam:

Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Đó là những con người dù ở trong hoàn cảnh nào cũng sống với những lí tưởng lớn lao, những tầm vĩ mô trong ý thức về dân tộc, thời đại, lịch sử. Con người ấy đối diện với thời gian hai mươi thế kỉ của dân tộc để tự hào Cả năm châu chân lí đang nhìn theo (Tố Hữu). Trong thời đại ra ngõ gặp anh hùng, với sức mạnh dân tộc dồn tụ Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận (Tố Hữu), con người cũng như sống lại với sự thử thách và lựa chọn của cha ông, đồng cảm với khí phách hào hùng, ngưỡng mộ những chiến công oanh liệt. Không gian, thời gian được đo bằng kích thước vĩ mô như thời đại, thế kỉ, có khi kết hợp với thước đo vi mô nhưng đều biểu hiện con người trong tầm vóc lớn lao, kì vĩ. Khí phách của tổ tiên và truyền thuyết lịch sử sống dậy, xôn xao náo nức trong những trang thơ:

Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng

(Chế Lan Viên)

Mang lửa tự ngàn năm về trước

Lấy từ thưở hoang sơ

Giữ qua đời này đời khác

(Phạm Tiến Duật)

Có thể nói, hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại, các nhà thơ, nhà văn trong giai đoạn 1945 – 1975  đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa thấm sâu tinh thần thời đại.

2.2. Những nhận thức về con người cá nhân

Tuy  nhiên, nền văn học của 30 năm sau Cách mạng cũng như cả dòng văn học mang cảm hứng anh hùng không hề bỏ qua lĩnh vực con người cá nhân. Trong văn xuôi, con người cá nhân được phát hiện, cảm nhận, miêu tả khá đa dạng qua nhiều kiểu nhân vật. Nổi bật là kiểu nhân vật mang những đặc điểm và nhu cầu tự nhiên có nhu cầu khẳng định mình trước cuộc đời, muốn được sống, được hưởng hạnh phúc, muốn biến những mơ mộng, những nguyện vọng riêng thành hiện thực. Có kiểu nhân vật sống sâu sắc với những mất mát đau thương trong mối thù chung, họ cũng có  những nỗi đau khôn nguôi về thể xác. Ngoài ra còn có kiểu nhân vật mang tính cách năng động phức tạp, dấu ấn cá nhân hiện lên qua những suy nghĩ, việc làm trực tiếp hướng về bản thân, hoặc không dễ quy kết đơn giản…Những kiểu nhân vật như vậy chứng tỏ các tác giả văn xuôi giai đoạn này không chỉ cảm thụ và đánh giá con người chủ yếu ở phương diện sử thi mà còn coi các biểu hiện cá nhân là một phạm vi cuộc sống mà văn học khám phá, ghi nhận để làm nhạy bén và giàu có hơn thế giới tinh thần của con người. Vì dung lượng  chuyên đề không cho phép, nên chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu kiểu nhân vật này. Xét cho cùng, đóng góp của nền văn học này chính là sáng tạo ra kiểu nhân vật sử thi với những biểu hiện của nó, khẳng định sự trưởng thành,vươn lên của con người của dân tộc trong hoàn cảnh đặc biệt của dân tộc.

Ở thể loại thơ, nhân vật trữ tình dù có xa lạ với những nét mềm yếu, đau thương nhưng người ta vẫn không né tránh sự hi sinh, mất mát. Cái chết được nói tới là một cách để khẳng định sự bất diệt của con người trong ân nghĩa thuỷ chung, trong sự sống muôn đời; khẳng định sự bất tử của mỗi cá nhân hữu hạn trong Tổ quốc. Từ cái chết của người chiến sĩ vô danh trong Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, đến sự hi sinh của người thanh niên xung phong trong bài thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ, đều chung một nguồn cảm hứng: đất nước, Tổ quốc chính là cõi vĩnh hằng, bất diệt mà con người có thể hoá thân. Những khía cạnh bình thường khi được nói tới cũng nhằm thể hiện trạng thái tinh thần vượt lên tình thế của một dân tộc vốn lạc quan, tự tin, quyết thắng. Người ra đi trong lòng có “hương thầm”, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “tiếng cười hăm hở đầy sông, đầy cầu”. Tình yêu đôi lứa quyện chặt trong tình yêu Tổ quốc. Vì đất nước người ta hy sinh, đất nước cũng sinh ra để vì tình yêu đôi lứa: Anh yêu em như yêu đất nước (Nguyễn Đình Thi); Đất nước là nơi ta hò hẹn (Nguyễn Khoa Điềm); Đất nước theo em ra ngõ một mình (Hữu Thỉnh)… Người chiến sĩ mang theo lòng yêu nước, mang theo tình yêu mà ra trận. Trên đường ra trận, họ còn nhận thêm tình yêu Ngọn đèn bọc trong ống bơ/ Để em mờ tỏ đến giờ trong tôi (Hữu Thỉnh); Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi/ Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu (Phạm Ngọc Cảnh). Và cái đích cuối con đường đánh giặc của họ là làm sống lại những tình yêu, xóa sạch những đợi chờ hóa đá của cả nghìn năm trước: Anh sẽ về cho đá lại là em (Nguyễn Đức Mậu).

  1. Nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 -1975

3.1. Nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, các kiểu nhân vật tập thể đã tỏ rõ sự cách tân trong quan niệm nghệ thuật về con người giai đoạn này so với giai đoạn trước Cách mạng, giúp nhà văn khái quát và miêu tả nổi bật vẻ đẹp mang tầm cỡ dân tộc, giai cấp của con người. Có thể kể một số hình tượng tập thể người lao động xây dựng cuộc sống mới trong truyện ngắn Mùa lạc (Nguyễn Khải), Rẻo cao (Nguyên Ngọc), Mùa cá bột (Đỗ Chu) Hay hình tượng tập thể trong truyện ngắn chống Mỹ như Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê), Quán rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng)… Việc miêu tả chân dung nhân vật, ngoài hình tượng nhân vật tập thể với số lượng đông đảo thì các ở hình tượng điển hình, các truyện ngắn đều phác họa được diện mạo chung của nhân vật với những nét cương nghị, mạnh mẽ, nụ cười tin tưởng, lạc quan; những vóc dáng chắc khỏe – đó là dấu hiệu gợi lên sức mạnh vô địch của con người dân tộc, của nhân dân kháng chiến. Thế giới nội tâm của nhân vật thường là biểu hiện đa dạng của tình cảm yêu nước, của tâm lý biến chuyển ngày càng hướng về cách mạng, kháng chiến, hướng về tập thể.  Việc thể hiện các nội dung và phạm vi nhân vật qua các thời kì đã phản ánh sự vận động của cách nhìn nhận và đánh giá của nhà văn về con người.

3.1.2. Về phương diện kết cấu, cốt truyện

Các tác phẩm văn học giai đoạn này đã xây dựng được các tình huống đa dạng nhưng đều là cách triển khai qua các mâu thuẫn giữa địch với ta, mâu thuân cá nhân – tập thể để thể hiện quan niệm của tác giả về con người về con người sử thi, hoặc trình bày các tình huống nội tâm nhân vật để thể hiện quan niệm về con người cá nhân. Những tình huống như vậy thường đan xen nhau, thường được miêu tả trong những dấu mốc thời gian lịch sử, thời gian sự kiện xã hội, trên nền những không gian rộng lớn của các hoạt động cộng đồng. Dù đó là hoàn cảnh thực hay chỉ được thể hiện qua nội tâm, nhà văn như muốn soi chiếu, thể hiện con người trong khung cảnh cuộc đời chung. Cách xây dựng các hình thức không,thời gian như vậy không chỉ tái hiện phông nền câu chuyện, mà còn thể hiện quan niệm con người của nhà văn.

3.1.3. Việc sử dụng phối hợp các giọng kể

Các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này khi mang tới giọng  thân mật, khi trang trọng ngợi ca, khi châm biếm hài hước hay trăn trở tìm tòi nghiên cứu cũng như lời phẩm bình khi trần thuật đã góp phần thể hiện sự phong phú trong cảm thụ, lập trường nhìn nhận đánh giá của nhà văn về con người. Đó cũng là dấu hiệu chứng tỏ nỗ lực của nhà văn trong việc tạo ra các hình thức nghệ thuật không ngừng làm giàu khả năng miêu tả, sự độc đáo và tác động thẩm mĩ của ngôn ngữ truyện ngắn nói riêng, văn học nói chung.

3.2. Nghệ thuật thể hiện trong thơ

3.2.1.Thể thơ

Sự đa dạng là nét nổi bật của thể thơ giai đoạn này. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, cổ phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể, hợp thể, tự do). Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến. Hiện tượng này ta gặp nhiều trong thơ Tố Hữu với tập thơ Việt Bắc, thể thơ truyền thống quen thuộc giúp nhà thơ chuyển tải được những vấn đề chính trị lớn lao, dễ đi vào lòng người. Hình thức câu thơ tự do hơn: số lượng câu, số chữ trong một dòng thơ đã thực sự  được giải phóng như thơ Chế Lan Viên: Ôi độc lập/ Xanh biết mấy là trời xanh Tổ Quốc/ Khi tự do về chói ở trên đầu. Thơ Nguyễn Đình Thi có những tìm tòi mới lạ, đã cách tân thơ kháng chiến, đưa nó thoát khỏi ảnh hưởng của thơ Mới. Ông muốn thơ phải là tiếng nói tự do chân thực, phóng túng, không lệ thuộc vào vần điệu.

3.2.2. Ngôn ngữ, hình ảnh

Ngôn ngữ thơ giai đoạn này mang vẻ đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng. Lời ăn tiếng nói của quần chúng hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mỹ mới mẻ, mạnh dạn đưa vào thơ từng đoạn, câu, khổ , bài ca dao dân gian. Nhớ về thơ những ngày đầu kháng Pháp, bài Vui bất tuyệt  của Tố Hữu – ca ngợi cách mạng với lời lẽ rất nồng nhiệt, sử dụng không ít từ Hán Việt có ý nghĩa trìu tượng: như đại hội, hoa đăng, ngân hà,… cách nói khoa trương : xôn xao, cuồn cuộn.  tác phẩm tuy mang nội dung mới nhưng  vẫn là cách biểu lộ của thời thơ Mới. Chỉ độ hai năm sau, đọc Cá nước, Bầm ơi của Tố Hữu mới nhận ra một cốt cách khác, một giọng thơ khác, giản dị gần gũi như ca dao : Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm/ Bầm ơi có nhớ không bầm/ heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn.

Hình ảnh thơ cũng tươi mới hơi thở của cuộc sống mới, chất liệu thơ sáng. Phát huy tinh hoa ngôn từ khi còn thơ Mới, Thâm Tâm đã  phả vào đó chất liệu tươi sáng của cuộc sống mới phục sinh Trái hồng trĩu xuống cây rơm/ Sáng nay mùa cốm dậy thơm khắp làng/ Lúa vươn thân hút ánh vàng/ Nguồn tươi vồng nở thu sang tốt lành” . Qua thời gian, hình tượng thơ, cảm hứng thơ cũng không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của những năm đầu kháng chiến  mà trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người anh hùng thời đại mới. Đại chúng hoá trở thành một tiêu chuẩn thẩm mỹ trong thơ. Nếu đọc những câu thơ : Trầm ngâm nghê bay trong lãnh cung/ Xuân thơm bối rối ngọt vô cùng/ Chao ôi, thánh thượng vô tâm quá/ Lòng thiếp buồn như một tâm nhung , dù giấu tên tác giả đi, người ta vẫn có thể đoán nó được viết trước cách mạng; không phải chỉ ở các chữ như lãnh cung, thánh thượng… mà còn bởi vẻ đài các của câu thơ nữa. Và nếu đọc những câu thơ của Tế Hanh  như: Dân tộc rớt mồ hôi thấm đất/ Căng như đồng/ Tay ghì cán cuốc/ Tay ghì tay xe/ Nhìn quanh là cả bốn bề cần lao…/ Có mối tình nào hơn thế nữa?   không thể nhầm lẫn với giai đoạn nào khác bởi đó là vần thơ tràn đầy lãng mạn của thơ những năm đầu cách mạng. Thơ thời kì này trực tiếp, gần gũi , nghe giản dị :  Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều- Nguyễn Đình Thi; hình tượng người chiến sĩ – hình tượng nghệ thuật trung tâm được viết thật giản dị, họ đi ra từ cuộc sống lao động hàng ngày, họ bước vào chiến trường với  quê hương anh nước mặn đồng chua/ làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.(Đồng chí- Chính Hữu )

3.2.3. Giọng điệu       

Với cảm hứng chủ đạo là cảm hứng trữ tình – sử thi, thơ ca thời kì này được thể hiện bằng giọng điệu thơ phong phú, đa dạng mà âm hưởng bao trùm là hào hùng, sảng khoái, lạc quan. Tâm thế các nhà thơ tựa như những ca sĩ cất lên những giai điệu hào hùng, hướng về quê hương xứ sở: Thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát / Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta (Tố Hữu). Chất giọng hào sảng được hiện lên ngay ở tiêu đề thi phẩm, từ Gió lộng, Ra trận, Hai đợt sóng, Hoa dọc chiến hào, Mặt đường khát vọng , Vầng trăng và quầng lửa… đến: Người con gái Việt Nam, Dáng đứng Việt Nam, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng… Các nhà thơ như đều muốn vươn tới tầm không gian bao quát, cao rộng để: Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau / Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu (Tố Hữu).

Bên cạnh giọng hùng ca làm chủ âm, thơ ca giai đoạn này còn có thêm giọng trữ tình thống thiết, xuất phát từ cảm hứng trước vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam trong những tháng năm gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

 

TIỂU KẾT:

Từ quan niệm nghệ thuật về con người đến những kiểu con người trong thơ văn ba mươi năm sau Cách mạng là một trong những đóng góp nổi của nền văn học giai đoạn này. Quan niệm ấy chịu sự quy định của ý thức nghệ thuật đương thời, nảy sinh và phát triển trên cơ sở đề cao vai trò, tác dụng giáo dục, nêu gương của văn học trong quan hệ gắn bó và phục vụ các nhiệm vụ cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta. Ý thức ấy là cơ sở khơi dậy những truyền thống tốt đẹp trong văn học dân tộc, làm phát triển một dòng văn học mang ý thức sử thi với những đặc trưng thẩm mĩ riêng. Nhìn khái quát, dòng sử thi mới sau Cách mạng thiên về khám phá, thể hiện con người quần chúng, tiêu biểu là  Công – Nông – Binh – lực lượng chủ yếu của cách mạng, luôn ý thức mối quan hệ và ý nghĩa công việc mình làm với tập thể, với cộng đồng; mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mãnh mẽ của những hành động cống hiến, luôn đặt lợi ích  cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, hoặc biết điều chỉnh mình sao cho hài hòa với sự nghiệp chung… Những cảm nhận sự thi về con người ấy là cơ sở để sáng tạo ra những biểu tượng phong phú về con người quần chúng trong nhiều  tác phẩm văn học 1945 – 1975 với các kiểu nhân vật sống đời sống kháng chiến và cách mạng, những hình tượng con người xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy giá trị đời mình trong sự gắn bó với cộng đồng, những con người hiện thân của dân tộc và thời đại. Qua việc khảo sát các tác phẩm cụ thể, dù lĩnh vực con người cá nhân đã được đề cập đến nhưng chuyên đề đã nhận thấy con người trong văn học cách mạng 1945 – 1975 vẫn chủ yếu là hình tượng con người sử thi. Cùng với những hình tượng nghệ thuật sinh động ấy, các phương diện hình thức nghệ thuật cũng được phát huy hiệu quả gắn với đặc trưng thể loại, tiêu biểu ở truyện ngắn và thơ ca, khiến cho quan niệm nghệ thuật về con người trở nên mật thiết với quá trình sáng tạo, với toàn bộ các yếu tố của cấu trúc chỉnh thể trong tác phẩm văn học.

Trong quá trình ba mươi năm ấy, chúng ta có thể nhận ra các nhà văn đã sớm nhận ra và dần khắc phục những nhược điểm trong quan niệm và miêu tả con người, không ngừng làm cho hình tượng con người trong văn xuôi và thơ ca trở nên đa dạng và có sức khái quát sâu rộng. Tuy nhiên, về cơ bản, các nhà văn cũng chỉ đổi mới làm giàu có trong phạm vi quan niệm nghệ thuật về con người sử thi. Khả năng cũng như hiệu quả cảm thụ và miêu tả con người của văn học giai đoạn này chỉ trở nên phong phú, sâu sắc hơn khi cùng với sự vận động của lịch sử, xuất hiện những bổ sung, đổi mới có tính chất loại hình về quan niệm con người. Và điều đó đã được thể hiện khá rõ trong giai đoạn văn học sau 1975.

 

III. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975

  1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới sau 1975 và sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người

1.1. Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử hội mới, văn hóa mới…

Thắng lợi ngày 30/4/1975 đưa dân tộc ta bước vào một giai đoạn mới, đồng thời đánh dấu một thời kì mới của nền văn học dân tộc. Sau khoảng 10 năm chuyển tiếp, văn học bước vào giai đoạn đổi mới mạnh mẽ.

Khác với hoàn cảnh chiến tranh, đời sống hòa bình đưa con người trở về với quỹ đạo đời thường, tạo điều kiện nảy sinh những nhu cầu mới, những quan niệm thẩm mĩ mới, hình thành nên những lớp công chúng mới. Ý thức cá nhân đã được đánh thức trở lại với những đòi hỏi cụ thể, bình thường nhất. Nhiều giá trị trong thời chiến đã đổi khác và thay thế nó là những hệ giá trị mới đang trong quá trình hình thành. Đời sống văn hóa tư tưởng vì vậy cũng vô cùng phức tạp, thậm chí khủng hoảng ở một bộ phận nào đó. Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ vào ý thức của nhà văn và được phản ánh trong thực tiễn sáng tác.

Bên cạnh sự đổi thay của xã hội – lịch sử trong nước, chúng ta cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của quá trình toàn cầu hóa đã và đang diễn ra trên toàn thế giới, đặc biệt mạnh mẽ từ sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự kết thúc của tình thế chiến tranh lạnh giữa hai phe trên thế giới. Đường lối đổi mới của Đảng đề ra chủ trương mở cửa, từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, vì thế, ảnh hưởng của toàn cầu hóa ngày càng rõ rệt đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng ở nước ta. Toàn cầu hoá đã mở ra nhận thức mới cho con người Việt Nam hôm nay. Cái nhìn về con người từ đó cũng thay đổi. Bên cạnh việc khẳng định những giá trị mang bản sắc dân tộc, con người còn được nhấn mạnh trong tính nhân loại, trong bản chất phổ quát của con người. Mặc dù kinh tế nước ta còn chậm phát triển, nhưng con người Việt Nam hôm nay vẫn có những dấu ấn thể hiện tâm thức của con người thời đại hậu công nghiệp trên thế giới.

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập quốc tế, văn học Việt Nam không còn bị khép kín trong tính chất khu vực của những nền văn học XHCN như trước đây mà đã từng bước mở rộng sự giao lưu, tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn học trên thế giới. Các trào lưu, lí thuyết văn học vốn đã quen thuộc, có ảnh hưởng sâu rộng ở phương Tây trong thế kỉ XX đã từng bước được giới thiệu và tiếp nhận ở Việt Nam qua việc dịch thuật (cả sáng tác và lí luận), qua một lớp tác giả, công chúng có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với đời sống văn học thế giới, nhất là bộ phận người Việt ở hải ngoại. Từ phân tâm học đến chủ nghĩa hiện sinh, trào lưu tiểu thuyết mới, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đến chủ nghĩa hậu hiện đại, các quan niệm mới về tiểu thuyết ở phương Tây… đã dần trở nên quen thuộc với người viết và công chúng văn học ở nước ta.

Còn phải kể đến một trong những nhân tố tác động đến sự đổi mới quan niệm nghệ thuật là những định hướng phát triển văn học nghệ thuật của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng và sau đó là Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về một số vấn đề văn hóa văn nghệ, cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987… đã thực sự thúc đẩy công cuộc đổi mới văn học theo tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Chưa bao giờ vai trò, trách nhiệm của người cầm bút và tính chân thực của văn học lại được đặt ra một cách ráo riết, toàn diện đến thế. Một không khí dân chủ trong đời sống văn hóa và văn học đã thực sự có tác động lớn lao đến đội ngũ những người sáng tác.

Tất cả những yếu tố nói trên đã làm biến đổi ý thức nghệ thuật của nhà văn và công chúng văn học. Trung tâm của sự đổi mới ý thức nghệ thuật đó chính là đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người.

1.2 …đến những đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975

Chịu tác động của hoàn cảnh thời chiến, văn học trước 1975 tập trung vào nhiệm vụ giáo dục con người mới, con người cộng đồng. Hình mẫu con người được gửi gắm vào các nhân vật lí tưởng. Phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá nhân, con người như một sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng là cống hiến của văn học thời vệ quốc. Xung đột dân tộc và xung đột giai cấp đã buộc văn học đặt con người vào trong điểm nhìn ý thức hệ. Chiến tranh kéo dài khiến một số nguyên tắc miêu tả con người trở thành quy phạm. Con người bị lấn át bởi sự kiện, trở thành phương tiện “xâu chuỗi các sự kiện lịch sử”, giúp nhà văn khám phá và biểu hiện lịch sử.

Văn học sau 1975 không thể không tự điều chỉnh khi cái phông thời đại đã hoàn toàn thay đổi. Ý thức về con người cá nhân, sự khích lệ tinh thần dân chủ khơi thông những ẩn ức dồn nén, những khát khao được nghiên cứu, thể hiện con người trong văn học. Văn học đã thực sự có nhiều phát hiện phong phú về con người và điều đó khẳng định bước trưởng thành của tư duy nghệ thuật. Xuất phát từ quan niệm con người không đơn trị, con người đa diện, con người luôn biến đổi, phức tạp, bí ẩn…., văn học giai đoạn mới ít có những nhân vật đẹp hoàn hảo, nhất phiến. Nhân vật đời thường, phàm tục đi vào tác phẩm, hiển hiện như lẽ tự nhiên. Con người bị đồng tiền làm cho biến dạng, trở nên độc ác, con người cứng đờ, đóng hộp trong khuôn mẫu, tẻ nhạt, tham lam, con người dị dạng, tha hóa, giống quỷ hơn giống người, con người xơ cứng với những giáo điều và niềm tin mù quáng, con người u mê, tăm tối, hoang dãc con người ắp đầy tham vọng, sẵn sàng đánh đổi cả tình thân, nhân tính cho uy quyền và danh lợi – Con người từ điểm nhìn sử thi đã được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Con người đa ngã, phức tạp, bí ẩn tạo ra nhiều đối thoại với con người trong văn học giai đoạn trước đó, nhưng lại xác thực hơn với những gì diễn ra trong thực tại của cuộc sống mỗi một con người.

Trong giới hạn cho phép, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ vấn đề trong phạm vi văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn, tiểu thuyết, kí – các thể loại phát triển vượt trội, tạo ra gương mặt mới cho văn học) và thơ sau 1975, trên bình diện nội dung và sự đổi mới trên phương diện nghệ thuật.

  1. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người ở phương diện nội dung của văn học sau 1975

2.1. Tiếp tục khuynh hướng ca ngợi những phẩm chất con người nhưng ở những cung bậc đa dạng

Vừa bước ra khỏi chiến tranh, dư âm của cuộc chiến vẫn còn, hào khí mang tính cộng đồng vẫn khắp, cộng với niềm vui đất nước thống nhất nên trong một số lượng sáng tác nhất định, các tác giả vẫn tiếp tục hướng đến ca ngợi những con người mang tâm thế nhập cuộc tích cực gắn với thành tố tập thể, sự phân tuyến ranh giới giữa tốt xấu, thiện ác vẫn tương đối rạch ròi. So với giai đoạn trước, văn học đã tiếp tục một cuộc khám phá sâu hơn về con người trên cảm hứng nhân văn sâu sắc với những cung bậc đa dạng.

Cùng với hướng tiếp cận chiến tranh ở cự li gần, từ chiến hào vào người lính hoặc những cán bộ chỉ huy ở đơn vị cơ sở (các tiểu thuyết Trong cơn gió lốc – Khuất Quang Thụy, Năm 75 họ đã sống như thế – Nguyễn Trí Huân, Họ cùng thời với những ai – Thái Bá Lợi) là cách tiếp cận chiến tranh từ cái nhìn toàn cục (kí sự Tháng Ba ở Tây Nguyên – Nguyễn Khải, Đại thắng mùa xuân – Văn Tiến Dũng, Đất miền Đông – Nam Hà). Từ đỉnh cao của chiến thắng trọn vẹn, nhìn lại và tái hiện những khó khăn, thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong chiến tranh cũng chính là cách khẳng định những giá trị lớn lao của sự hi sinh và ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng.

Bên cạnh việc tiếp tục bộc lộ khuynh hướng ca ngợi những con người giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, mang đậm những phẩm chất của tâm hồn Việt, văn học sau 1975 đã nhìn nhận con người dưới góc độ đời tư mang tính chất “phi sử thi hóa” (Trần Đình Sử). Hình tượng con người ở nhiều tác phẩm giai đoạn trước đổi mới không chỉ xuất hiện như những giá trị để khẳng định tư tưởng xả thân mà chủ yếu là sự tự khẳng định những giá trị bản thân trong ngọn lửa cách mạng. Mảnh đất tình yêu với phẩm chất  tốt đẹp trong mỗi người vẫn được Nguyễn Minh Châu thể hiện bằng niềm tự hào và ngợi ca sâu sắc. Với những truyện của Chu Lai, Khuất Quang Thụy… người đọc tìm thấy ý chí và phẩm chất tuyệt vời của người lính: quả cảm, chân thành, cố gắng thích nghi, hội nhập với cuộc sống mới.

Nhưng chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Họ nói về niềm vui chiến thắng, nhưng còn nói nhiều hơn về sự hi sinh, về những chịu đựng thầm lặng của nhân dân, về những gương mặt đồng đội, kẻ còn người mất. Nói khác đi, trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân: Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Hữu Thỉnh – Đường tới thành phố). Ý thức về thế hệ mình với sự lựa chọn trách nhiệm trước lịch sử, bên cạnh lòng tự hào, còn có cả nỗi xót xa: Chúng tôi đã đi không tiếc cuộc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Những người đi tới biển – Thanh Thảo). Trong những tác phẩm này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người.

2.2. Con người tự ý thức

Từ sau 1975, cuộc sống đã dần trở lại với quy luật bình thường của nó cùng lúc con người đối mặt với những biến động, đổi thay của xã hội. Guồng quay xã hội gián tiếp cho ý thức cá nhân thức tỉnh, họ quay về đối diện chính mình, với những đòi hỏi riêng của mỗi người, mỗi số phận. Và người cầm bút, bằng tư duy phân tích và cái nhìn đời tư đã khám phá con người ở phương diện tự ý thức.

2.2.1. Nhận thức về cái tôi

Cái tôi cá nhân đã từng in những ấn tượng đậm nét trong văn học 1930 – 1945. Giai đoạn 1945 – 1975, do khuynh hướng sử thi mà cái tôi cá nhân có xu hướng tan hòa vào cái ta cộng đồng. Trong những năm ngay sau chiến tranh, cái Tôi sử thi và cái tôi thế hệ vẫn là chủ đạo, tuy đã có những nét mới. Cái nhìn sử thi được bổ sung bằng những trải nghiệm cá nhân, chất liệu hiện thực được gia tăng cùng với xu hướng khái quát, chiêm nghiệm, chất bi tráng nổi trội trong các sắc điệu thẩm mĩ của tác phẩm. Bước vào những năm 80, cái Tôi sử thi mờ dần, thay vào đó là cái tôi thế sự với những xúc cảm khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế. Với xu hướng đào xới đến tận cùng bản thể con người, cái tôi cá nhân được khai thác ở mọi bình diện, tầng bậc, trong mọi mối quan hệ.

Tự nhận thức về cái tôi đi liền với ý thức tự vấn, là xu hướng nổi bật ở nhiều tác phẩm. Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn luận đề về tính đa diện, nhiều mặt trong một bản thể. Quá trình tranh đấu, tự thú của người họa sĩ chính là quá trình con người ngồi trước tấm gương soi vào nhân cách. Tiếp tục hướng này, tác giả cho Lực (Cỏ lau) không ngừng day dứt về quãng đời quá khứ. Giang Minh Sài (Thời xa vắng) khi nhận ra mình “sống hộ ý định của người khác, cốt để cho đẹp mặt mọi người, chứ không phải cho hạnh phúc của mình”, đã quyết định trở về quê hương làm lại cuộc đời. Các nhân vật trữ tình trong thơ cũng không nguôi khắc khoải về bản ngã của mình. Khi cái cá nhân không còn là “ngọn gió siêu hình” ở thời đại mới, những lời tự vấn: Mà sao tôi chẳng là tôi (Ngô Minh), Ta là ai, thăm thẳm có ta không (Trần Nhuận Minh) là sự nhận thức về vị trí của cái tôi với những giá trị của riêng nó, không chấp nhận sự áp đặt từ bên ngoài, tẩy chay lối sống bầy đàn phi bản sắc.

Con người cá tính hiện nay đang được khẳng định như một giá trị. Đó là nhu cầu ý thức về mình, xác định chỗ đứng của mình trước thế giới và trong các quan hệ xã hội, cá nhân. Hiện tượng lấy tên mình đặt cho một bài thơ, một tập thơ không còn là hiếm như một cách khẳng định cái tôi ngay từ tiêu đề tác phẩm (Trang Thanh – Trang Thanh, Vili in love – Vi Thuỳ Linh…). Con người ngày nay có khát vọng tạo dựng một chân dung riêng biệt của mình trong thơ. Đó có thể là chân dung ngoại hình, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là chân dung tinh thần. Con người cá tính dám làm và dám chịu trách nhiệm về những việc đã làm, dù có thất bại nhưng luôn tỏ ra kiêu hãnh. Khát vọng khẳng định cái tôi cá tính còn thể hiện ở chỗ mỗi nhà thơ đều cố gắng tìm cho mình một phong cách riêng, giọng điệu riêng, đặc biệt là ở các nhà thơ trẻ như Nguyễn Quang Hưng, Thụy Anh, Lữ Thị Mai, Điệp Giang, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly…

Dám nhìn thẳng vào thế giới riêng tư của cái Tôi, các tác giả cất tiếng nói mạnh mẽ về nhu cầu tình yêu trần thế. Văn học trước 1975 do yêu cầu của thời đại, nói về tình yêu đôi lứa chẳng qua là để nói về vẻ đẹp lý tưởng, vẻ đẹp của đức vị tha, lòng dũng cảm và sự thuỷ chung. Văn học sau 1975, khi những nghĩa vụ công dân, trách nhiệm cộng đồng đã hoàn tất, con người có nhu cầu trở về với tình yêu trần thế, rất thực, rất đời nên rất phong phú và sâu sắc. Tình yêu với các dạng thái và cung bậc của nó, từ những rung động ban đầu cho đến tình yêu mang màu sắc nhục thể đều hiện lên trên những trang viết vừa tinh tế, gợi cảm, vừa táo bạo, quyết liệt, vừa nồng nàn, đằm thắm của các nhà văn, đặc biệt là các cây bút nữ. Với quan niệm “Trong tình yêu hạnh phúc thật ngọt ngào mà khổ đau cũng đầy thi vị. Chỉ có sự trống rỗng chán chường của kẻ không yêu mới thật sự là khủng khiếp” (Gió thiên đường – Trần Thùy Mai), không chỉ những người đàn bà bình thường mà những cô gái bị khiếm khuyết về ngoại hình như Nấm (Đàn bà xấu thì không có quà – Y Ban) cũng luôn mơ ước “Một tình yêu, tình dục, một chồng vợ, một mái ấm gia đình và những đứa con”. Đọc truyện ngắn Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài, thơ Vi Thuỳ Linh ta như nghe được tiếng reo hò khởi loạn của cõi thầm kín, vốn là vùng cấm bao đời nay bị thứ văn học sạch sẽ thơm tho chôn chặt, giấu kỹ. Nhân vật trong tác phẩm của Dương Thu Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Hồ Thị Hải Âu, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư, … đa số đều ráo riết trong hành trình kiếm tìm một tình yêu lí tưởng, đắm say, duy nhất. Ít người trong số họ đạt được mơ ước, thậm chí nhiều người rơi vào bi kịch, tuy nhiên, con người vẫn không từ bỏ sự lựa chọn của mình.

2.2.2. Khát vọng kiếm tìm bản thể

Có thể nói, để khẳng định bản sắc riêng, con người buộc phải tham gia vào cuộc kiếm tìm. Ở văn học sau 1975, con người khao khát truy tìm cái thuộc về bản ngã, thuộc về cái tôi, muốn sống thực với khao khát, thể hiện khát vọng sinh tồn, tìm lí tưởng cho chính mình, không a dua, chống lại sự mỏi mòn của công thức, của khuôn khổ định sẵn.

Trong văn học dân gian, sự kiếm tìm khởi nguồn từ khi loài người băn khoăn, muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của mình và toàn bộ thế giới xung quanh. Ở văn học viết thời kỳ trung đại, khi con người về cơ bản bình ổn với những chuẩn mực, giá trị chung được định ra theo khuôn mẫu của cộng đồng, khát vọng kiếm tìm chỉ gắn với những con người dám hoài nghi những gì có sẵn, họ trăn trở trong hành trình tìm kiếm lí tưởng mới cho bản thân (Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát…). Đến thời kì hiện đại, văn học kiếm tìm sự tự do trong cá tính, khát vọng bứt phá khỏi những ngột ngạt của đời sống thường nhật. Đặc biệt, ở thời kỳ đương đại, con người khao khát kiếm tìm giá trị của cá nhân, của nhân cách và những hệ giá trị trong mối quan hệ người – người. Tìm những gì họ đã trải qua, đã đánh mất, nhìn nhận lại những giá trị đích thực của bản thân, đánh giá vị trí của mình trong cõi nhân sinh thế tục là hành trình muôn thuở của con người. Càng có ý thức sâu sắc về mình, con người càng khao khát tìm kiếm. Dù trong hành trình kiếm tìm ấy, có thể nó va vấp, lầm lạc, không ai hiểu và đôi khi phải trả giá rất đắt. Tuy nhiên nó chấp nhận tất cả. Bởi điều con người quan tâm là được sống theo những suy nghĩ, những chân lí của mình, tìm ra nguồn cơn sự thật, được thể hiện, khẳng định mình trong cuộc sống.

Trong văn xuôi, con người kiếm tìm đã manh nha trong tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, xuất hiện nhiều trong tác phẩm của các nhà văn lớp sau: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh, Hồ Thị Hải Âu, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương… Dù mức độ quan tâm thể hiện khác nhau nhưng các nhà văn đã có tiếng nói chung về khát vọng “tìm mình” trong cõi nhân sinh của con người. Những trải nghiệm và những  điều chưa tới có thể làm con người vừa tò mò, vừa hoang mang, hoài nghi, thậm chí tuyệt vọng, nhưng họ vẫn ra đi dù hành trình đó hầu như đều thất bại.

Thời hậu chiến, con người lâu nay quen đồng bộ, đồng bộ ở cách nghĩ, cách viết và phần nào đó cách sống, đột ngột bị đẩy vào tình thế buộc nhìn lại mặt mình: ta thấy mình không giống ai, đúng hơn – giống tất cả mọi người mà không nét nào là của mình. Thế nên, nỗi hoài nghi về sự phản ánh trung thực của diện mạo về nhân cách con người là sự ám ảnh trong nhiều bài thơ. Nhận ra cuộc đời mỗi người chỉ như “góc diễn tấu vỉa hè hay trang trọng sân khấu thời cuộc” (Mặt – Trần Quang Quý), các nhà thơ thể hiện khát vọng ráo riết tìm lại mặt thực, nhân cách thực của chính mình: “Mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt/ Ta đói mặt người ta khát mặt ta” (Người đi tìm mặt – Hoàng Hưng). Tuyên ngôn của Trần Quang Quý: “Hãy lột chiếc mặt nạ tự phỉnh mình” (Quen) là tiếng thơ kêu đòi tự do cho cá thể bị đánh cắp, mặt người bị đánh cắp. Cách cảm nhận đó đã thể hiện một cái nhìn duy lý, biện chứng đối với cuộc sống phức tạp đa chiều chứ không phải là một cách nhìn khuôn sáo một chiều đơn giản, đồng thời cũng cho thấy sự quan tâm một cách cấp thiết của người nghệ sĩ với những vấn đề nhân bản của con người thời đại. Xét đến cùng, những tiếng gọi mặt ráo riết, cuộc trốn chạy hoảng hốt khỏi sân khấu thời cuộc, chính là  sự thể hiện của một nhân cách tỉnh táo- ý thức được thực trạng, dám nhìn thẳng vào sự thật, và khát khao muốn được là mình, muốn sống thật với chính mình!

2.2.3. Ý thức về giới

Trong hành trình nhận thức về cái tôi và khát vọng kiếm tìm bản thể, văn học sau 1975 còn thể hiện sự thức tỉnh mạnh mẽ của cá nhân thông qua ý thức về giới.

Một số cây bút nữ hết sức hứng thú khi đặt vấn đề về khẳng định cái tôi làm chủ, thoát khỏi sự phụ thuộc vào nam giới. Người phụ nữ sẵn sàng “đột phá” thành trì vốn được coi là đặc quyền, thế mạnh của đàn ông, đó là tình dục. Họ sẵn sàng chủ động bày tỏ ham muốn, tìm kiếm sự thăng hoa, phá  bỏ thế thượng phong của nam giới (Gia đình bé mọn, Bóng đè, Nhân gian, Đức Phật, nàng Savitri và tôi…), thực hiện cơ chế tự yêu, tự soi ngắm, tự thỏa mãn (Tự, Người đàn bà trước gương, Vân Vy, 1981…). Làm chủ tư duy, khẳng định bản lĩnh cá nhân cũng chính là một hình thức xác lập cái tôi không phụ thuộc của nữ giới (Diễm trong Bước hụt, Cải trong Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê; các nhân vật nữ trong Mười ngày, Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh…). Sự đề cao mẫu tính của người phụ nữ chính là một hình thức khẳng định những ưu việt và vai trò của nữ giới trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Cái nhìn khá thẳng thắn về vấn đề đồng tính (Một thế giới không có đàn bà (Bùi Anh Tấn), Song song (Vũ Đình Giang), 1981 (Nguyễn Quỳnh Trang)) cũng là tiếng nói mong muốn được nhìn nhận bình đẳng…

2.2.4. Theo đuổi những đam mê riêng, vượt qua khuôn thước số đông

Khi nhận thức về giá trị của cái tôi, con người nhân luôn có khát vọng tìm kiếm những giá trị đích thực của đời sống. Nhân vật Nhĩ (Bến quê) đã đi gần hết cuộc đời mới nhận ra rằng anh đã phiêu lãng và viển vông nơi những vùng đất xa xôi, trong khi hạnh phúc giản dị hiện tồn ngay ở bên cạnh, ở người vợ hiền, ở vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ của một bãi bồi bên kia sông. Nhân vật của Tạ Duy Anh, Nguyễn Khải đem đến suy cảm về sự mỏng manh, hữu hạn kiếp người, để rồi tìm được câu trả lời: “Sống hết mình cho một lí tưởng cao cả là cách sống dài nhất”. Các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Cải ơi, Dòng nhớ, Cuối mùa nhan sắc, …) đều tìm đến ý nghĩa của sự sống bằng cách sống như mình mong muốn. Cái mà họ theo đuổi đôi khi hết sức giản đơn mà cái giá phải trả cho nó thật nghiệt ngã. Giá trị của con người nằm ở chỗ, người ta đã nhận ra mình nên sống như thế nào để được là chính mình.

Cá nhân con người luôn những lựa chọn khác nhau nhằm thực hiện đam mê, khát vọng. Họ có thể kiếm tìm tình yêu lí tưởng như những người phụ nữ trong truyện của Dương Thu Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ (Cát đợi, Tình yêu ơi, ở đâu?, Hậu thiên đường, Sơ ri đắng, Tân cảng, Giai nhân). Họ cũng  khao khát kiếm tìm sự nghiệp lí tưởng như Tự (Đám cưới không giấy giá thú),  họa sĩ Xuân Tư (Bán cốt – Võ Thị Hảo).

Có thể nói, tự ý thức là phẩm chất của con người trong đời sống. Khi còn ý thức về bản thể, về nhân vị, khát vọng kiếm tìm còn tiếp tục thiêu đốt họ. Khi phản ánh khát vọng tự vấn, kiếm tìm của con người, văn học sau 1975 đã thực sự khẳng định được giá trị nhân bản của nó.

2.3. Con người bi kịch

            Nếu nhân vật trong văn học 1945-1975 được khắc họa trong tư thế làm chủ và vượt lên hoàn cảnh thì nhân vật trong văn học sau 1975 với bản chất con người thực của đời thường, không phải lúc nào cũng vượt lên được hoàn cảnh. Họ rơi vào bi kịch. Bi kịch ấy gắn với sự tan vỡ của giấc mơ, sự bất lực trước những đòi hỏi tất yếu, trước sự tha hóa của những giá trị đời sống không gì ngăn cản nổi; nó cũng gắn với sự tự ý thức về cái khó chia sẻ khi một mình đối diện với nỗi đau, đặc biệt là nỗi đau tinh thần.

2.3.1. Bi kịch cô đơn

Nhìn con người bằng thước đo nhân bản, văn học sau 1975 đã phát hiện ra sự không tương hợp giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cá nhân với chính nó trong sự biến đổi dữ dằn của thời cuộc. Kiểu nhân vật cô đơn lạc thời, bất hòa với môi trường sống trở thành một mẫu người tương đối phổ biến trong văn xuôi, đặc biệt xuất hiện nhiều trong tác phẩm của những nhà văn viết ở cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Với Sắm vai, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu biểu hiện khá sâu sắc sự cô đơn của con người trong khả năng tự ý thức về chính mình. Nguyễn Khải đưa ra hàng loạt cảnh báo về những vết nứt không thể hàn gắn trong gia đình. Tiến (Một cõi nhân gian bé tí), tướng Thuấn (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp), Trung tướng giữa đời thường (Cao Tiến Lê) cả đời trận mạc nhưng thực sự ngơ ngác “luống cuống khổ sở”, thậm chí “kinh hãi đau đớn, trước lối sống ô trọc, hỗn tạp”của đời thường.

Nhiều nhà văn nữ như Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân… gặp nhau trong nhận thức hết sức tinh tế về sự vênh lệch giữa các thế hệ trong gia đình khi cha không hiểu con, vợ không hiểu chồng, chị em không hiểu nhau (Khi người ta trẻ, Kịch câm, Chị em họ…)

Bên cạnh việc xây dựng kiểu con người cô đơn do bất hòa với thời đại và môi trường sống, văn xuôi sau 1975 còn xây dựng kiểu con người cô đơn do bị ruồng bỏ, hắt hủi. Đa số, họ là những con người vì lí do này hay lí do khác bị loại ra khỏi xã hội, bị ngăn cách trong quan hệ đồng loại, quan hệ với người thân. Họ không có nơi chốn để trở về dù gia đình họ ngay bên cạnh. Hằng (Những thiên đường mù), lão Thiệt (Ngày xửa ngày xưa), những con người khuyết tật, dị dạng, mồ côi như Đăng (Tâm hồn mẹ), Khó (Trái tim hổ), Cún (Cún) mang nỗi đau là những kẻ lạc loài. Có thể nói, hoàn cảnh, môi trường là một tác nhân không nhỏ tạo ra sự trống trải, cô độc, lạc loài của con người ngay trong cuộc sống của chính nó. Đó cũng là một cảnh tỉnh với mỗi chúng ta, khi con người đang bị phân rã thành những mảnh vỡ rời rạc, lạc điệu, vô âm  sắc.

Khi ý thức về cá nhân phát triển ở trình độ cao, con người có nhu cầu khám phá sâu vào bản thể, tự cô đơn vì vậy càng bộc lộ nhiều hơn. Không hòa mình vào nhịp sống chung của xã hội, những cái tôi của thế hệ mới tách ra, sống với những tín điều của riêng họ về giá trị đạo đức, về nhân cách, về lí tưởng. Dĩ nhiên, vì cái nhìn khác người mà cái tôi có thể phải trả giá đắt. Và cũng vì điều đó, cái tôi ấy hoàn toàn cô đơn, giữa đám đông, trong gia đình, giữa những người thân thuộc nhất. Điển hình cho tư tưởng này là Thiên sứ, (Phạm Thị Hoài), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối… (Tạ Duy Anh)…

Buồn, cô đơn cũng trở thành cảm giác thường trực trong thơ. Có nỗi buồn về thần tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng bị tan vỡ khi nhận ra “Chúa chỉ bằng đất đá” (Nguyễn Trọng Tạo), có nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý chuyện tồn tại mà “xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những trắc ẩn về riêng tư, đôi lứa: Em chết trong nỗi buồn – Chết như từng giọt sương – Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Chất giọng tự thú, tự bạch trở thành gam giọng phổ biến. Tuy nhiên cũng xuất hiện không ít nỗi đau giả, những tiếng khóc vờ vì cảm xúc hời hợt và thói triết lý vặt trong thơ. Thậm chí, việc nói quá nhiều đến nỗi buồn, kể lể dài dòng về chúng một cách nông cạn đã khiến cho không ít tác phẩm rơi vào tình trạng mòn sáo. Điều quan trọng là nhà thơ phải thể hiện được những nỗi buồn sâu sắc và thấm đầy chất nhân bản.

Nếu đem so sánh, có thể thấy trong văn học 1930-1945, đặc biệt là Thơ Mới một thời cũng chăm chú khai thác nỗi cô đơn của con người, nhưng cơ bản vẫn là cái cô đơn cá thể, cái tôi ấy bị cảm thức cô đơn bủa vây và trở nên cô độc giữa đồng loại. Nỗi cô đơn này cũng phần nào xuất hiện trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và được thể hiện khá rõ trong văn xuôi đô thị miền Nam (1954 – 1975). Trong văn xuôi đương đại, cái cô đơn của con người cá nhân đã phát triển từ chỗ “bị cô đơn” đến chỗ “tự cô đơn”. Nói rõ hơn, đó là tâm thức hậu hiện đại, thể hiện ở sự bất tín vào những giá trị bền vững, những đại tự sự, chấp nhận những ngẫu nhiên, phi lí trong hiện tại của con người.

Như vậy, bị rơi vào hoàn cảnh cô đơn hay tự cô đơn đều là trạng thái của con người trong đời sống. Cô đơn không có nghĩa là hủy diệt, ngược lại, cô đơn đem lại thức nhận về những giá trị mà con người cần theo đuổi, gìn giữ. Dám đối mặt với nỗi cô đơn, thể hiện con người trong nỗi cô đơn, văn xuôi đã thực hiện chức năng nhân bản nhất: viết vì con người và sự sống con  người.

  • Bi kịch tha hóa

Cuộc sống hiện thời đẩy mọi thế hệ chúng ta luôn phải cọ xát mạnh hàng ngày hàng giờ trên những ranh giới của giá trị đạo đức, trên niềm tin đích thực về con người, cuộc đời. Đó vừa là cơ hội cho những ai không đánh mất nhân cách làm người, vừa là lỗ hổng cho những ai đã bị tha hóa trước ma lực của giá trị vật chất.

Trước đây trong chiến tranh, con người chỉ đơn giản là ta hay địch với những phẩm chất chung thủy, dũng cảm hay xấu xa, bỉ ổi. Đời sống thực bây giờ con người lại rất phức tạp. Người ta dễ đánh mất lương tâm của mình vì mối lợi trước mắt. Văn học hôm nay chủ yếu tìm hiểu con người tha hóa ở việc khai thác quá trình thay đổi, biến chất trở thành “phi nhân tính”. Vì tác động nghịch cảnh, con người không đủ bản lĩnh, ý chí để chống chọi nên dễ bị tha hóa. Không chỉ ở những “con người công dân đặc biệt” (người lính), sự tha hóa còn tìm đến gõ cửa những con người công dân phổ biến”. Các nhà văn đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay bị giấu kín để báo động về những thang giá trị, những chuẩn mực xã hội càng lúc bấp bênh trước sự tha hóa của con người. Đó là thái độ im lặng, bất lực của Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), là thái độ cơ hội của Trần Hới (Những mảnh đời đen trắng), là con người vừa phản văn hóa, vừa phi luân của Chính (Những thiên đường mù). Tha hóa nhân cách cũng là điều mà các nhà thơ hiện nay day dứt nhất khi suy nghĩ về thế sự, nhân sinh (Vách đá – Lê Quốc Hán, Đã có sai lầm ở đâu đó – Đinh Thị Như Thúy, Quên lãng – Nguyễn Tấn Việt…).

Sự lỏng lẻo của các mối quan hệ, sự cực đoan trong những đòi hỏi vị kỷ của cá nhân, những áp lực của công việc, của mưu sinh… đã đẩy con người đến chỗ phân rã, rơi vào bi kịch bị “tẩy trắng”, “biến mất” khỏi cộng đồng. Nhân vật chỉ vừa kịp chào đời đã ra đi, hoặc chỉ là những hình bóng hư ảo (những đứa con bà giáo – Những đứa trẻ chết già), hoặc biến mất không rõ nguyên nhân, không rõ tung tích (Quân – Ngồi), hoặc ngay cả cái tên cũng bị cắt dần như những con chữ bị delete trên bàn phím (Ngồi). Những chi tiết cụ thể về nhân vật hầu như không được nhận thức… Đây là một lời cảnh báo đối với tình trạng “vong bản” của con người thời hậu hiện đại.

Con người tha hóa là sự trở lại của hiện tượng đã có trong văn xuôi 1930 – 1945, đánh dấu sự gắn bó với đời sống vật chất và tinh thần của con người đương đại, tạo nên một diện mạo phản ánh sôi nổi của văn xuôi.

2.4. Con người tự nhiên, bản năng

Tự nhiên bản năng là một phần quan trọng không thể thiếu trong bản chất người. Vấn đề này đã được đặt ra trong văn học từ rất sớm, nhưng có những thời kì, hoặc do quá đề cao lí tính hoặc chỉ chú trọng đến tính xã hội, các quan hệ xã hội – giai cấp của con người, văn học đã xem nhẹ, thậm chí bỏ qua con người tự nhiên bản năng. Văn học sau 1975 đã tìm về với bản chất tự nhiên của con người, khơi sâu nó. Đó chính là cái nhìn khá toàn diện và mang tính nhân bản.

  • Bản năng tính dục

Trong các sáng tác dân gian, tính dục thường đi cùng tiếng cười trào tiếu, hóm hỉnh. Sáng tác văn học viết thời trung đại cũng có đề cập đến cảnh ái ân, chăn gối, dù không đậm đặc (Thánh Tông di thảo, Hoa viên kì ngộ, Truyền kì mạn lục). Những ẩn ức tình dục, cảm quan phồn thực được thể hiện khá đậm nét, tạo thành một dấu ấn đặc biệt trong phong cách của bà chúa thơ Nôm. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng có đề cập đến ẩn ức dục tình, mong muốn được tự do yêu đương, vượt qua khỏi sự trói buộc của lễ giáo. Giai đoạn 1945-1975, văn học tạm  quên con người cá thể do nhiệm vụ đặc biệt của ba mươi năm vệ quốc, đời sống bản năng, yếu tố nhục thể vì lẽ đó gần như không được đề cập. Văn học từ sau 1975 ghi nhận sự trở lại mãnh liệt của con người cá nhân, cá thể. Con người tự nhiên bản năng được văn học chú ý khai thác. Bản năng tính dục được xem như một vấn đề thường hằng của đời sống, một phương diện không thể thiếu trong mỗi một con người. Hơn nữa, bản năng tính dục còn được xem như một đối tượng thẩm mĩ đặc thù, gắn liền quan niệm nhân bản và cái nhìn có chiều sâu triết học về con người.

Có thể nhận thấy sự thể hiện ẩn ức tính dục, hành vi tình dục, hoạt động tính giao trong hàng loạt sáng tác. Nhiều tác giả đồng thuận trong quan niệm tính dục là một nguồn sống tự nhiên vô cùng trong trẻo, thầm thào mà mãnh liệt trong mỗi một con người (Đám cưới không có giấy giá thú, Chọn chồng, Những người đàn bà – Ma Văn Kháng, Bến không chồng – Dương Hướng, Vĩnh biệt mười chín con gà trống – Nguyễn Quang Lập, Gia đình bé mọn – Dạ Ngân, thơ của Dư Thị Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên, Đàm Thị Lam Luyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư…). Có tác giả nhấn mạnh tình dục như một trạng thái sống có ý nghĩa nhất, một trạng thái hiện sinh đầy nhục cảm và đam mê, là con đường giải thoát những ám ảnh, ẩn ức, cô độc (Thoạt kì thủy, Người đi vắng, Ngồi – Nguyễn Bình Phương, Vân Vy- Thuận, Phiên bản – Nguyễn Đình Tú). Coi tính dục như một phần của con người tự nhiên, văn học đã thể hiện cái nhìn khá toàn diện về con người cá nhân. Đó cũng là một nét đẹp mới tạo nên đặc trưng thẩm mĩ cho văn học Việt Nam giai đoạn này. Tuy nhiên cũng không thể không thấy rằng một số tác phẩm đã chạy theo xu hướng tuyệt đối hóa vấn đề tính dục, lạm dụng yếu tố tình dục như một phương tiện để hấp dẫn người đọc, làm giảm giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

  • Con người với bản năng sinh tồn bản năng xâm hại

Tiến hành cuộc thăm dò vùng tiềm ẩn, chiêm nghiệm tầng sâu vô thức trong tâm hồn con người, bên cạnh việc quan tâm đến những ẩn ức thể hiện bản năng tính dục, văn học sau 1975, đặc biệt là văn xuôi còn chú tâm khai thác bản năng sống và bản năng xâm hại của con người. Bản năng sống là cội nguồn của ý chí sinh tồn, đem lại nghị lực, khát vọng sống mãnh liệt, giúp con người có thể vượt qua cả những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Khảo sát văn xuôi sau 1975, ta nhận thấy những ẩn ức bản năng hầu như đều thể hiện trong nhiều sáng tác, tuy nhiên ám ảnh nhất vẫn là Ăn mày dĩ vãng, Nỗi buồn chiến tranh, Đi tìm nhân vật… Khao khát được “trở về nhà, bơm xe, bới rác, trông kho…” của Tuấn, ham muốn sống “một cuộc đời tật nguyền, không vợ con, không tương lai, không niềm vui nỗi buồn, vô tri vô giác  nhưng còn ngàn lần hơn vĩnh viễn chui vào lòng đất, câm lặng” của Hùng đâu phải là cái tội. Đó là khát vọng sinh tồn. Đi ngược lại bản năng sinh tồn chính là bản năng xâm hại (Bản năng chết). Trong chiều hướng tiêu cực, bản năng này sẽ dẫn đến sự tự hủy diệt của cá thể. Chính cảm giác trống rỗng (Người đi vắng) đã đẩy Hoàn đến với cái chết, một hình thức tự hủy. Thảo Miên rao bán trinh tiết, vào nhà thổ, trở thành điếm cao cấp của Cảm giác thiên đường, cuối cùng, tự đốt cháy mình trong khát vọng “hóa thân thành trinh nữ”.

Rõ ràng, bản năng sống hay bản năng xâm hại đều có thể tồn tại trong mỗi một con người. Chúng ta không thể loại trừ, chối bỏ sức mạnh của nó. Tuy nhiên, chúng ta cũng không để cho mặt tiêu cực của nó chi phối, lấn át.

2.5. Con người vô thức, tâm linh

Bên cạnh con người ý thức, con người bản năng là con người của vô thức, tiềm thức. Bên cạnh cái bề ngoài dễ nhận biết, dễ đoán định là những vùng sâu mơ hồ, ẩn mật nhất của tâm linh. Yếu tố vô thức, tâm linh chính là những thuộc tính ẩn sâu, làm nên tính bất ngờ, không dễ nhận biết của con người.

Văn học dân gian đã ghi nhận sự có mặt của vô thức với những tín ngưỡng, mẫu gốc trong thần thoại. Thời trung đại, vô thức được thể hiện trong những chi tiết có tính truyền kì như điềm báo, báo mộng… Thế kỉ XX, những biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là tư tưởng văn hóa đã làm đổi thay sâu sắc quan niệm thẩm mĩ, tư duy, nghệ thuật. Nhiều cây bút mạnh dạn khám phá cõi xa mờ, sâu thẳm, cõi mơ, cõi say, cõi hư ảo huyễn mộng của tâm hồn, tiêu biểu là Hàn Mặc Tử, nhóm Xuân Thu, Dạ Đài. Giai đoạn 30 năm vệ quốc không cho phép người nghệ sĩ ẩn sâu vào cái tôi, vì vậy cái vô thức trở nên xa vời. Hòa bình, ý thức về cái tôi như một tất yếu thúc đẩy khả năng sáng tạo, khám phá của văn chương. Vô thức, tiềm thức chính là mặt khuất, ẩn chìm, là phần thẳm sâu mà văn học trước 1975 chưa chú ý thì nay được phơi mở. Từ Nguyễn Minh Châu đến hàng loạt các nhà văn khác như: Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Bình Phương, Châu Diên, Đỗ Hoàng Diệu… vô thức đã được vận dụng như một phương thức biểu đạt hiệu quả khám phá những vỉa ẩn chìm của con người. Đời sống bên trong con người được soi chiếu từ nhiều góc độ, với nhiều chiều kích khác nhau, gợi dậy cả những vùng u tối, hoang sơ nhất. Con người không còn giản đơn thuần túy, sáng suốt rạch ròi bởi lí tính, mà mơ hồ lẫn lộn, có lúc rơi vào cõi vô minh, nhập nhằng huyễn hoặc. Con người hóa ra chứa bao nhiêu bí ẩn lạ lùng, chỉ hé lộ khi người ta biết cách khơi sâu, xoay lật, tìm đến nó với cái nhìn thực sự uyển chuyển.

2.5.1. Giấc mơ  những ám ảnh

Khám phá cõi vô thức của con người, các tác giả khai thác nó trong những giấc mộng và những ám ảnh không chủ định. Nếu trong văn học trung đại, giấc mộng được sử dụng khá phổ biến với chức năng đem đến những điềm báo hoặc giúp con người giải đáp những bí ẩn trong đời sống thực (Truyền kì mạn lục, Truyện Kiều) thì giấc mơ mang tính linh cảm, cũng xuất hiện trong văn học sau 1975 và thường dự báo một tai họa hoặc chết chóc. Loại giấc mơ này thể hiện khả năng kì diệu đầy bí ẩn của con người mà khoa học đang cố công tìm hiểu. Tuy nhiên, văn học hiện đại chú tâm hơn đến những giấc mơ khác, những giấc mơ khúc xạ ám ảnh nội tâm của nhân vật.

2.5.2. Những hành vi không thể kiểm soát

Nếu như bản năng, dục vọng, ám ảnh, những giấc mơ… là phần vô thức thuộc về trạng thái bên trong của con người thì phần hành vi không kiểm soát được chính là phần biểu hiện ra bên ngoài của vô thức. Hành vi này không được điều khiển bởi lí trí, nó bột phát thể hiện do thói quen hoặc do một ám ảnh nào đó thúc đẩy từ bên trong. Nhìn dưới góc độ phân tâm học, những tổn thương tinh thần của quá khứ có sự chi phối vô cùng dai dẳng tới tâm lí con người trong chặng đường về sau. Đôi khi nó tác động đến một hành vi nào đó mà chính bản thân anh ta không lí giải nổi.

Con người sẽ nghèo nàn biết bao nếu như chỉ tồn tại phần lí trí. Con người cũng sẽ tăm tối biết bao nếu chỉ có bản năng hoang vu? Đưa vô thức vào trong tác phẩm, các nhà văn đương đại đã thành công khi khám phá thêm một phương diện mới mẻ, ẩn chìm trong mỗi cá thể con người. Còn việc thể hiện nó như thế nào, cũng còn phụ thuộc vào tài năng và cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.

  • Những năng lực ẩn

Sự thể hiện yếu tố tâm linh của các nhà văn khá phong phú. Nó có thể là khả năng nhận thức, tiên đoán diệu kì ngoài lí trí, niềm tin vào sức mạnh của một thế lực siêu phàm., khả năng linh ứng, trực cảm, những mơ hồ không rõ rệt của cảm giác, sự “thông linh” giữa người sống và người chết, cõi âm và cõi dương hay khả năng bí ẩn, năng lực siêu phàm của con người.

Trước năm 1975, văn học cách mạng không thể hiện con người tâm linh. Đến thời kì đổi mới, với quan niệm con người không nhất phiến, con người đa ngã, đời sống tâm linh được khai thác khá phong phú, đa dạng. Có thể kể đến các tác phẩm: Ăn mày dĩ vãng, Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Giàn thiêu, Và khi tro bụi… Những biểu hiện cơ bản nhất của con người tâm linh thể hiện trong văn học giai đoạn này: khả năng linh cảm; sự giác ngộ về một hiện thực bí ẩn của con người.

Tóm lại, văn học sau 1975 đã thực sự mở ra những khám phá bất ngờ, kì diệu về con người. Các tác giả đã đi sâu vào chính sự sống của con người, nhận diện nó như một nhân vị, một sự sống độc lập. Con người trong văn ọc giai đoạn mới vì vậy mà vô cùng sinh động và hấp dẫn trong tính đa chiều, đa ngã. Khám phá con người trong sự sống của chính nó mà không cần bất kì một đường viền hay khuôn mẫu, văn học đã tìm được tiếng nói riêng và thực sự thể hiện được chức năng của nó: chức năng nhận thức và thể hiện con người, vì con người.

  1. Nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975

Đối tượng phản ánh liên quan mật thiết và chi phối sâu sắc đến phương thức phản ánh. Khi đi vào thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người, văn học sau 1975 đã có những biến đổi toàn diện trong nghệ thuật thể hiện.

3.1. Nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi sau 1975

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Từ sau 1975. đặc biệt từ giai đoạn đổi mới (1986), văn học đã tìm đến với những lối viết khác với lối viết truyền thống. Tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình không còn là một mục tiêu sáng tạo. Nhân vật trong văn xuôi hiện nay hấp dẫn bởi những nét cá biệt, độc đáo của riêng nó với tính không lặp lại. Phi điển hình hóa trở thành phương thức ngày càng trở nên phổ biến trong xây dựng nhân vật. Thủ pháp này được thể hiện ở việc Làm mờ hóa tiểu sử, nhân dạng. Nhân vật chỉ là một kí hiệu hay một sự mã hóa, không lai lịch, không nhận dạng: nhà thơ Ph (Thiên sứ), nhà văn Ng. (Người đàn bà với hai con chó nhỏ), Người thứ nhất, Người thứ hai, Người thứ ba… (Chín bỏ làm mười), bào thai (Thiên thần sám hối), hắn (China town), Kim (Ngồi), cô gái điên, hắn (Đi tìm nhân vật)Trong cảm quan của thời đại kĩ trị, con người rơi vào bi kịch mất tiếng, mất ngôn ngữ, bị bào mòn tình cảm cộng đồng, nhạt nhẽo lạnh lùng như quy trình hoạt động của những cỗ máy hiện đại. Phản ánh điều này, văn chương hướng tới dành quyền  suy nghiệm cho bạn đọc về một hiện thực dang dở, về nguy cơ đánh mất cái tôi, nhòe mờ nhân vị của con người thời hậu hiện đại. Các khung tính cách bị phá vỡ hoặc con người mang tính đa ngã, dị biệt. Nhiều nhân vật không điển hình cho típ người nào được định trước. Đồng thời sự tồn tại cùng một lúc nhiều bản ngã biểu hiện tính chất phức tạp của con người trong đời sống thực tại.

3.1.2. Độc thoại nội tâm thuật dòng ý thức

Sử dụng độc thoại nội tâm và dòng ý thức, các nhà văn sau 1975 khai thác được sức mạnh tính chất tức thì của dòng tâm tư, khiến dòng suy nghĩ được hình dung lại ngay trên lối viết. Bởi vậy, không chỉ từ vựng và giọng điệu của nhân vật được khôi phục nguyên xi mà các ý nghĩ thầm kín, mơ hồ, lộn xộn nhất của nhân vật cũng được ghi lại. Những suy nghĩ, dằn vặt, những khao khát kiếm tìm, khao khát thương yêu như một chùm dây xoắn kết, đan bện, đôi khi biến ảo, trùng điệp làm sáng lên những thao thức rất con người. Có thể tìm thấy thủ pháp này thể hiện trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Xuân Từ Chiều (Y Ban), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương), Gió lẻ, Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), China town (Thuận), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng), Người sông Mê (Châu Diên)… Con người cá nhân vì vậy được khám phá toàn diện hơn trong những tầng sâu của nó.

3.1.3. Thủ pháp huyền thoại hóa

Trong một số tác phẩm văn xuôi và thơ Việt Nam  hiện đại thời kì nửa đầu thế kỉ XX, huyền thoại đã được sử dụng như một phương thức nghệ thuật. Một số tác giả trong trào lưu văn học lãng mạn có ý thức sử dụng yếu tố thần kì nhằm đối lập lại cuộc sống thực dụng, duy lí đến trần trụi. Sự tiếp xúc rộng rãi với văn hóa phương Tây, đặc biệt là với các trường phái thơ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới các nhà thơ Mới. Tuy nhiên, suy cho cùng thì đó cũng vẫn chỉ là những dấu hiệu của huyền thoại chứ chưa hẳn là một trào lưu. Trong giai đoạn 30 năm văn học chiến tranh, do môi trường văn hóa xã hội và những yêu cầu của cuộc chiến, yếu tố huyền thoại hầu như không xuất hiện. Từ thời kì đổi mới, bắt đầu xuất hiện trên văn đàn những tác phẩm với các nhân vật, các sự kiện siêu nhiên hoặc được xây dựng trên cơ sở của trí tưởng tượng sáng tạo, vượt qua ngoài khuôn khổ chân thực cụ thể của lịch sử. Với những biểu hiện nổi trội: các chi tiết kì ảo, biến dạng, nhại huyền thoại và việc thể hiện thời gian, không gian phi logic, văn xuôi sau 1975 đã vượt ra khỏi con đường biểu đạt quen thuộc, đến với cách thức biểu đạt “lạ” và vô cùng hấp dẫn.

3.1.4. Trần thuật đa điểm nhìn

Tự sự truyền thống đa số được triển khai từ cái nhìn tương đối ổn định, cái nhìn “biết trước tất cả và luôn luôn đúng”. Sau 1975, trần thuật đã có nhiều thay đổi. Ý thức đối thoại được gia tăng. Các nhà văn vận dụng hết sức linh hoạt điểm nhìn bên ngoài (điểm nhìn khách thể) và điểm nhìn bên trong, tương tác giữa điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật, đan xen trường nhìn của chủ thể trần thuật và trường nhìn của nhân vật. Các tác giả Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương… đều được đánh giá cao trong sự đổi mới phương thức trần thuật. Với sự soi chiếu ấy, con người hiện lên không bị đóng khung vào cái nhìn duy nhất, ngược lại, nó sinh động trong tính đa chiều, đa trị.

3.1.5. Kết cấu

Nếu trước năm 1975, văn xuôi chủ yếu tập trung thể hiện theo hai kiểu kết cấu: sự kiện và tâm lí (với tính ổn định, khép kín, ít biến đổi, trong đó, kết cấu sự kiện đóng vai trò chủ đạo) thì sau năm 1975, các nhà văn đã nỗ lực đi tìm đến sự cách tân khi thể nghiệm những kết cấu mới cho văn xuôi: kết cấu lỏng lẻo, đôi khi là những mảnh lắp ghép rời rạc, cấu trúc mở, thậm chí không rõ bắt đầu và chẳng hề kết thúc. Thủ pháp đồng hiện quá khứ – hiện tại làm trật tự niên biểu bị phá vỡ, quy luật nhân quả không được tuân thủ. Xu hướng lắp ghép văn bản, tạo dựng các mảnh cốt truyện, các mảnh tâm trạng không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của tác giả, tạo ra kết cấu truyện trong truyện (Nỗi buồn chiến tranh, China town, Tìm trong nỗi nhớ, Ăn mày dĩ vãng, Kín …), kết cấu co giãn, lắp ghép, dung nạp nhiều thể loại (Thiên sứ, Trí nhớ suy tàn, Tấm ván phóng dao…). Xu hướng đi sâu khai thác nội tâm nhân vật tạo ra kết cấu dòng ý thức, kết cấu phân mảnh (Nỗi buồn chiến tranh, Thiên sứ, Tướng về hưu). Xu hướng đi sâu vào thế giới tinh thần bí ẩn khó lường, khó cắt nghĩa bằng tư duy duy lí tạo kết cấu kì ảo, phúng dụ (Thoạt kì thủy, Thiên thần sám hối…)…

3.1.6. Tổ chức ngôn ngữ hướng tới tính đa thanh, tính thể

Mang đặc trưng riêng của văn học giai đoạn mới, trong ngôn ngữ văn xuôi sau 1975 không còn tồn tại duy nhất tiếng nói toàn tri của nhà văn, ngược lại, hướng đến tính đa giọng, đa thanh, tính cá thể. Chính nhờ đặc điểm này, văn xuôi có cơ hội thể hiện cái nhìn nhiều chiều, dân chủ, bình đẳng, độc lập về con người cá nhân.

  • Ngôn ngữ đa thanh – sự thể hiện nhu cầu đối thoại của cá nhân

Vận động chung trong khuynh hướng sử thi, ngôn ngữ văn xuôi trước 1975 phần lớn đều thể hiện tính trang trọng, ngợi ca, hướng tới nâng cao tầm vóc và ý nghĩa con người và thường nhất quán, đơn thanh theo một hệ quy chiếu, một điểm nhìn nhất định. Sau 1975, trở về với đời thường, ngôn ngữ văn xuôi cũng vận động theo quy luật tất yếu, hướng về đời sống cá nhân, thể hiện con người cá nhân phức tạp, đa diện. Thứ ngôn ngữ đơn thanh không còn phù hợp. Văn xuôi sau 1975 khá thành công khi tạo dư âm đối thoại nhiều chiều về con người cá nhân và đời sống hiện thực trong tác phẩm. Trong xu hướng nhấn mạnh đến con người cá nhân, các nhà văn hiện đại ưu tiên nhường lời cho nhân vật, làm nổi bật nhân vật thay vì người kể chuyện (như văn học sử thi giai đoạn trước). Nội dung, tư tưởng được truyền nhận trong tác phẩm vì vậy trở nên khách quan, tính hoàn tất đối với những gì được đánh giá cũng bị phá bỏ. Sự dân chủ trong ngôn ngữ được thiết lập, tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ nhiều chiều đối với độc giả. Có thể nói, với cách thức tổ chức ngôn ngữ này, các tác giả mở ra tối đa những con đường để người đọc tự đi vào văn bản, mở ra khả năng đối thoại cả trong và ngoài tác phẩm cũng như khả năng khám phá con người.

  • Ngôn ngữ thông tục, suồng – một biểu hiện của nhu cầu dân chủ hóa

Từ bỏ khuynh hướng sử thi và cũng không bắt buộc mang tiếng nói điển hình cho một giai tầng cụ thể nào, thật dễ dàng nhận ra sự dung dị đến suồng sã của ngôn ngữ tả, kể trong văn xuôi sau 1975. Điều đó thể hiện ở lời văn đậm tính khẩu ngữ, tính cá thể. Dòng chảy ngôn ngữ tự nhiên của cuộc sống tràn vào tác phẩm với hàng loạt các thủ pháp nói mỉa, nói ngược, chơi chữ, phản cú pháp… Khẩu ngữ và và sự thâu nạp ngôn ngữ của nhiều tầng lớp người trong xã hội, ở các lứa tuổi khác nhau khiến ngôn ngữ văn xuôi mang tính cá thể hóa cao độ.

3.2. Nghệ thuật thể hiện trong thơ sau 1975

3.2.1. Sự mở rộng biên độ về thể loại

Sự mở rộng biên độ về thể loại thể hiện một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm của nhà thơ về cuộc sống, con người.

Trong quan hệ với quan niệm nghệ thuật của các nhà thơ về con người, trường ca sau 1975 (chủ yếu viết về chiến tranh và cách mạng) là một góc nhìn rộng, toàn diện. Ở đó cái tôi trữ tình sử thi đã nhìn lại mình, nhìn lại lịch sử dân tộc bằng con mắt cao cả hơn và cũng hiện thực hơn, đau đớn hơn, toàn diện hơn và cũng phức tạp hơn, bởi trường ca là sản phẩm tinh thần của những con người đã “dập tắt lửa chiến tranh bằng máu của đời mình” (Thu Bồn).

Thơ tự do và thơ văn xuôi trước đây còn là một hiện tượng hiếm hoi, thì bây giờ đã trở nên hiện tượng rất phổ biến. Đây là biểu hiện của việc đi tìm một cách thể hiện mới cho các hình thức trữ tình với hai khuynh hướng: Tìm kiếm một giọng điệu vừa phức tạp vừa gai góc, lắm lí sự, nhiều chất suy nghĩ; bộc lộ cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, gấp gáp, không điềm tĩnh mà say đắm, buông thả, không muốn bị ràng buộc bởi bất kì một niêm luật nào để giải phóng tối đa sự dạt dào của cảm xúc.

3.2.2. Sự thay đổi về tầm vóc, ý nghĩa của hình ảnh

Hình ảnh chính là sự khách thể hóa những rung cảm nội tại, là sự xác nhận một cảm quan của cái tôi về thế giới, về con người.

Khi thơ ca nghiêng về nội dung thế sự và đời tư, có sự thu nhỏ kích thước, tầm cỡ của một số nội dung (mẹ, Tổ quốc, dân tộc, quê hương). So với bức chân dung hùng vĩ: Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung, Gió lay như sóng biển tung trắng bờ (Tố Hữu) thì người mẹ Mẹ ta không có yếm đào, Nón mê thay nón quai thao đội đầu (Nguyễn Duy) nhỏ bé hơn, tội nghiệp hơn, xót thương hơn. Trong cảm nhận và cái nhìn một số hiện tượng đời sống có sự thay đổi nên nghĩa của một số hình ảnh, biểu trưng cũng thay đổi. Quan niệm về cái nghèo với hình ảnh vách đất, nhà tranh, áo rách, nhà dột, chân không giầy… có một thời là tượng trưng của gian khổ, là dấu hiệu để nhận ra nhau trong đội ngũ, nhưng trong thơ hiện nay, quan niệm về cái nghèo đã khác xưa: nghèo là vất vả, là nỗi nhục, là xót xa, tủi hận, là sự trả giá, mất mát: Những sợi nắng xuyên qua nhà mình, Thành những viên đạn, bắn tiếp vào anh không gì che chắn (Phùng Khắc Bắc). Sự kết hợp chuyển đổi ấn tượng về âm thanh, nhịp điệu, màu sắc, mùi vị… cũng là kiểu tư duy hiện nay gặp rất nhiều. Sự phong phú, đa dạng của thế giới tinh thần cái tôi trữ tình, sự phân tích đào sâu những ấn tượng cảm giác của cá nhân là thể hiện mạnh mẽ của sự tự khẳng định cá tính con người với tư cách là một “ăng ten thu phát sóng”.

3.2.3. Sự phân hóa về các xu hướng ngôn ngữ

Chính sự đa dạng về tư duy nghệ thuật và sự phong phú về giọng điệu đã khiến cho ngôn ngữ thơ có sự phân hoá và phân cực về cả bề nổi và về cả tầng sâu.

Lớp từ sinh hoạt đời thường xuất hiện nhiều, góp phần phá bỏ tính trang nhã, ước lệ bộc lộ một cái nhìn hiện thực hóa đối với đời sống. Các nhà thơ không e ngại trong việc dùng từ, miễn là gây được ấn tượng và miêu tả được cảm giác của mình. Do đó, các chi tiết đời sống hằng ngày với các chuyện li hôn, đánh vợ, tỏ tình kiểu chợ búa được đưa vào thơ một cách xô bồ, ồ ạt đến quá tải. Đến nỗi có nhà phê bình phải kêu lên: Người ta đưa cả chổi cùn rế rách vào thơ.

Ngôn ngữ giàu chất tượng trưng thường gặp trong những nhà thơ có ý hướng cách tân, hiện đại thơ mà tiêu biểu là các cây bút như Lê Đạt, Nguyễn Quang Thiều… Ngôn ngữ tượng trưng khiến cho nghĩa thơ trở nên mờ nhòe, độ mở của hình tượng thơ được nhân lên. Màu sắc lạ hóa trong ngôn ngữ trở nên nổi bật.

Tất nhiên, không phải đến thơ ca sau 1975 thì ngôn ngữ thơ giàu chất tượng trưng mới xuất hiện. Ngay từ thời Thơ mới loại ngôn ngữ này đã xuất hiện trong thơ của nhiều người như Nguyệt Cầmcủa Xuân Diệu, Nhạc của Bích Khê, Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ… Vấn đề nằm ở chỗ, ngôn ngữ giàu chất tượng trưng trong thơ sau 1975 mang tâm thế của một hành trình văn hóa khác: văn hóa công nghiệp và hậu công nghiệp.

Nhiều cây bút có ý thức xếp đặt ngữ âm như một trò chơi. Đó là một hình thức biểu đạt thế giới, một quan niệm của chủ thể về nghệ thuật và nhân sinh. Sự xuất hiện của loại thơ lấy thanh điệu, ngôn ngữ, cấu trúc ngôn bản như một “tiếng nói” đã góp phần tạo nên sự thú vị trong thưởng thức và sự rộng mở trong tiếp nhận nghệ thuật. Các cây bút như Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Dương Tường… là những cây bút có nhiều bài thơ tiêu biểu cho cách tổ chức trò chơi âm/ nghĩa này.

 “Ngôn ngữ thân thể” trong thơ: Trong thơ ca thời trung đại, sự nhị phân thân thể với tinh thần dẫn đến đề cao ngôn ngữ tinh thần, đạo đức, thân thể con người bị hi sinh, bị chà đạp, kiêng kị, nhất là thân thể phụ nữ. Thơ hiện đại với sự xác lập không gian cá nhân, ý thức cá tính đã đổi mới ngôn ngữ thân thể trong thơ với quan niệm thành thực, những điều bí mật riêng tư cũng có thể đem ra biểu hiện. Thân thể không còn là phạm trù của phàm tục, tội lỗi phải che giấu mà được biểu hiện tự nhiên, kiêu hãnh. Thi ca đương đại là một cuộc cách mạng về ngôn ngữ thân thể, trong đó bộ phận cơ thể là phương tiện đầy ám ảnh để nhà thơ bộc lộ những suy nghiệm. Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Giấc mơ của lưỡi (Phan Huyền Thư), Giấc mơ về lưỡi (Vi Thuỳ Linh), Ước phục sinh (Mai Văn Phấn), Bức thư đề ngày 25 tháng 12 (Nguyễn Quang Thiều)… đều là những hiện tượng sáng tạo như thế.

3.2.4. Kết cấu linh hoạt, hiện đại

Kết cấu thơ giai đoạn này linh hoạt và hiện đại. Nó không còn là kiểu kết cấu ổn định mang tính quy phạm của thơ trung đại, không kết cấu theo lối giãi bày, kể lể; hành khúc; giục giã như thơ mới, thơ cách mạng mà kết cấu theo kiểu phân tán, gián đoạn hoặc theo kiểu sắp đặt, tạo hình.

3.2.5. Giọng điệu đa dạng

Giọng điệu là yếu tố thay đổi rõ nhất. Giọng điệu ru gợi, ôm ấp, vỗ về, mềm mại bị phá vỡ, thay vào đó là một giọng điệu lí trí, tỉnh táo, trúc trắc, gần gũi với hiện thực hơn. Xuất hiện cái nhìn đa chiều, phức tạp, tiềm ẩn chất duy lí, đầy chất văn xuôi.

Không đơn thuần một loại cảm xúc và tư tưởng tập trung như giai đoạn thơ sử thi, thơ sau 1975 xuất hiện âm hưởng nhiều giọng điệu: khi bình luận, khi bộc lộ, khi miêu tả, lúc khách quan kể sự việc, khi là lời tâm sự, khi phân tích, khi tư vấn, đặt câu hỏi, tạo tình huống, khi chuyện trò. Sự đa giọng trong thơ thường xuất hiện khi có sự sám hối, phản tỉnh, phản bác về những tư tưởng, cảm xúc trước đó (Đò Lèn – Nguyễn Duy). ; khi có điệu nhại tức đan chéo hai hệ thống giá trị, cảm xúc, để phủ định hoặc khẳng định một điều gì đó (Phản tống biệt hành – Bùi Chí Vinh).

TIỂU KẾT:

          Kế thừa quan niệm nghệ thuật về con người từ văn học truyền thống, nhất là giai đoạn 1930 – 1945, tiếp nhận ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng và văn học thế giới, trong thời đại mới, văn học Việt Nam sau 1975 đã thực sự đổi mới trên nhiều phương diện, đặc biệt là đã đi tới nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về “con người trong con người”. Thời kì đầu, ngay sau chiến tranh, con người được thể hiện trong cái nhìn tự vấn, phản tỉnh, thoát ra khỏi áp lực của những chân lí đã mặc định. Từ sau 1986, con người được khám phá sâu hơn vào bản thể với những trạng thái cô đơn, lạc loài, phần bản năng tự nhiên, vô thức cùng với sự tự ý thức mạnh mẽ hơn trong kiếm tìm cái tôi và ý nghĩa của đời sống. Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, con người được nhấn mạnh ở cảm thức hậu hiện đại với cái tôi phân rã, nhòe mờ cá tính. Tất nhiên, đây chỉ là sự phân loại mang tính tương đối. Ở một chừng mực nhất định, trong một chỉnh thể người có thể tồn tại một vài hoặc tất cả những biểu hiện nói trên. Sự phân loại chỉ căn cứ vào những biểu hiện nổi trội nhất trong mỗi hình tượng con người. Quan niệm và sự thể hiện con người dẫn đến những đổi thay lớn trong nghệ thuật biểu hiện. Mối quan tâm, cách thức khám phá và thể hiện con người là bằng chứng quan trọng của sự cách tân, đồng thời là dấu hiệu về sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật. Những năm gần đây, văn học vẫn đang tiếp tục sự vận động của nó bằng nhiều thể nghiệm để tự làm mới. Thời gian sẽ sàng lọc các giá trị và điều chỉnh sự vận động của nền văn học cũng như từng thể loại. Công chúng sẽ kiên nhẫn với hi vọng vào những thành tựu mới và cổ vũ cho khát vọng sáng tạo của văn học nước ta trong những thập kỉ tới.

KẾT LUẬN

Quan niệm nghệ thuật về con người không phải là vấn đề mới, nhưng rõ ràng là vấn đề thực sự có ý nghĩa trong  việc tiếp nhận cũng như trong sáng tác văn chương.

Với người nghệ sĩ, đó vừa là kim chỉ nam có tính định hướng, vừa là không gian để họ thỏa thuê khám phá và sáng tạo.

Với người tiếp nhận, nó đóng vai trò như chiếc chìa khóa vàng để mở ra và giải mã được giá trị thực sự của mỗi tác phẩm cũng như của cả một nền văn học. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 đến nay, chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị to lớn của nền văn học dân tộc trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, thấy rõ hơn những chuyển mình lớn lao để văn học thực sự là nhân học, cho con người, vì con ngườiVẬN DỤNG

D.1. Hướng dẫn học sinh triển khai một số đề vận dụng

 

Đề 1:

Về sự khác nhau giữa hình tượng con người trong văn học trước 1975 và hình tượng con người trong văn học sau 1975, có ý cho rằng:

Con người sử thi trước năm 1975 thường đồng nhất với lịch sử, luôn là con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng đồng. Còn bây giờ, khi con người được nhìn nhận như một cá thể, một số phận thì văn học đã phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử. (Nguyễn Văn Long- Một số vấn đề văn học Việt Nam sau 1975)

  1. Hãy lí giải vì sao có sự khác nhau đó?
  2. Làm sáng tỏ qua một vài hình tượng văn học tiêu biểu.

 

* Yêu cầu chung

– Hiểu sự khác nhau trong quan niệm nghệ thuật về con người của hai giai đoạn văn học để lí giải sự khác nhau khi xây dựng hình tượng con người.

– Biết cách làm sáng tỏ vấn đề thông qua việc chọn và phân tích ít nhất hai hình tượng văn học tiêu biểu của hai giai đoạn.

– Sử dụng tốt các thao tác: giải thích, phân tích, so sánh

* Yêu cầu cụ thể

  1. Giải thích

Hình tượng con người trong văn học trước 1975 và hình tượng con người trong văn học sau 1975 là sản phẩm tinh thần của hai giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn với hai quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người nên có sự khác nhau là tất yếu.

– Trước 1975, hiện thực lớn nhất mà văn học tập trung phản ánh chính là hiện thực đấu tranh giải phóng dân tộc. Anh bộ đội cụ Hồ, cô gái mở đường, người mẹ cầm súng… đó là những hình tượng đẹp nhất mà văn học đã tạc dựng lên. Đó là những con người đại diện và kết tinh sức mạnh, phẩm chất, ý chí, khát vọng dân tộc, nhân dân. Họ luôn là con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng đồng. Họ mang tầm vóc và vẻ đẹp của con người sử thi.

– Sau 1975, đất nước độc lập, thống nhất. Người dân Việt Nam hôm qua còn cầm súng đánh giặc hôm nay đã trở về với cái cuốc, cái cày…, với cuộc sống đời thường nhọc nhằn, ngổn ngang. Bức tranh hiện thực với muôn mặt đời thường chính là đối tương hướng tới của văn học thời bình. Hình tượng trung tâm của văn học giờ đây không còn là những con người sử thi mang vẻ đẹp lí tưởng, kết tinh vẻ đẹp cộng đồng mà là những con người cá nhân, con người của đời tư, đời thường.

  1. Chứng minh
  2. Con người sử thi trước năm 1975 thường đồng nhất với lịch sử, luôn là con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân trùng khít với vận mệnh cộng đồng.

Có thể chọn các nhân vật như Việt, Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình-Nguyễn Thi, Tnu trong Rừng xà nu-Nguyễn Trung Thành…

Ví dụ: Nếu chọn nhân vật Tnú, có thể triển khai các ý sau:

* Truyện kể về một lần về thăm làng của anh bộ đội Tnú- người con của buôn làng Xô Man. Trong cái đêm duy nhất Tnú được sống với buôn làng ấy, bên ánh lửa xà nu, cụ Mết-già làng đã kể cho buôn làng nghe câu chuyện về cuộc đời đau thường của Tnú và sự nổi dậy của dân làng Xô Man. Sáng hôm sau Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đã đưa anh đến tận cửa rừng. Trước mắt họ là cảnh rừng xà nu tít tắp tới tận chân trời.

à Cách kể chuyện ấy khiến cho Tnú hiện lên như một huyền thoại về nhân vật anh hùng thời chống Mĩ.

* Số phận cá nhân trùng khít với số phận cộng đồng

Cũng như cả miền Nam, cả Tây Nguyên trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước, cuộc đời Tnú chịu nhiều đau thương mất mát. Kẻ thù đã giết cả vợ, cả con anh. Bản thân anh bị chúng bắt và tra tấn dã man.

– Nhưng Tnú đã vượt lên hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh bằng sức mạnh, phẩm chất, khát vọng cao đẹp.

+ Tnú khao khát tự do, yêu Đảng, yêu cách mạng, trung thành với Đảng

. Ngay từ nhỏ cùng Mai đi nuôi cán bộ

. Tự hào bao năm nay chưa có cán bộ nào bị bắt trong rừng…

. Luôn khắc ghi câu nói cụ Mết: Đảng còn…

. Khi bị kẻ thù bắt, tra tấn dã manà Quyết không khai, giành cho Đảng tình cảm thiêng liêng nhất của mình.

+ Ngay từ nhỏ đã thể hiện là một chàng trai hết sức dũng cảm, gan góc và mưu trí:

. Làm liên lạc, Tnú nhiều lần mưu trí vượt vòng vây của kẻ thù.

. Học chữ thua Mai, Tnú tự trừng phạt mình một cách nghiêm khắcàBản tính gan góc đã được hình thành từ bé. Sau này bản tính ấy càng được thể hiện rõ hơn khi đối mặt với kẻ thù.

. Bị giặc tra tấn dã man, anh quyết không kêu van. Lửa cháy trong ngực, trong tim  anh, nhưng người cộng sản quyết không kêu van. Hình ảnh Tnú với mười ngón tay như mười ngọn đuốc để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc như một biểu tượng về thái độ anh dũng kiên cường không khuất phục kẻ thù.

+ Đau thương mất mát càng bất khuất kiên cường

Tnú đã từng có tất cả: một cơ thể cường tráng, có tuổi thanh xuân, có lí tưởng của Đảng soi đường, có cái chữ- có ánh sáng văn hoá, có tình yêu của Mai, tương lai ở đứa con…

Nhưng khi kẻ thù tới, anh đã mất tất cả.Vợ con anh bị giặc tra tấn dã man đến chết. Bản thân anh cũng bị giặc bắt và bị hành hạ. Đau thương chồng chất đau thương, nhưng Tnú không làm nhụt chí. Ngược lại, đau thương ấy càng đốt lên ngọn lửa căm thù rực cháy trong anh: đôi mắt anh như hai cục lửa lớn khi chứng kiến kẻ thù tra tấn vợ con, nhảy xổ vào giữa bọn giặc khiến cho chúng khiếp đảm. Tiếng thét của anh đã nhân lên lòng căm thù của dân làng Xô Man. Ngọn lửa căm thù trên mười đầu ngón tay của anh đã châm lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng. Đá Ngọc Linh Tnú mang về đã được mài sắc để trở thành vũ khí. Xác giặc ngổn ngang bên đống lửa xà nu.

Tnú lại ra đi. Lửa trên 10 đầu ngón tay anh đã tắt nhưng ngọn lửa căm thù trong lòng anh vẫn cháy khôn nguôi. Anh chiến đấu gan dạ, dũng cảm , vào tận hang ổ kẻ thù mà tiêu diệt.

à Hình ảnh Tnú tiêu biểu cho vẻ đẹp bất khuất, kiên cường, sức mạnh vùng lên của người dân Tây Nguyên, của người dân miền Nam, rộng hơn là của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ anh hùng.

– Tình cảm thương yêu gắn bó với buôn làng à Vẻ đẹp người anh hùng càng thêm trọn vẹn.

– Đi xa nhớ tiếng chày giã gạo, lúc trở về thích để cho vòi nước của làng chảy tràn trên ngực, trên lưng, nhớ như in từng gương mặt với biết bao tình cảm yêu mến.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Nhân vật có nguyên mẫu ngoài đời. Nhà văn chỉ thay đổi cái tên cho đậm chất Tây Nguyên à Tài năng điển hình hoá độc đáo. Trong đó ông chú ý xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc như chi tiết bàn tay Tnú- bàn tay gan góc trừng phạt mình khi học chữ, cũng là bàn tay dũng cảm, bàn tay yêu thương, bàn tay nóng bỏng căm hờn…

– Câu chuyện về cuộc đời Tnú được kể bằng lời kể của già làng, tạo không khí kể khan của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên à Tnú mang dáng dấp của những người anh hùng trong các trường ca cổ. Đó là nét đẹp riêng độc đáo của hình tượng người anh hùng, góp phần làm tăng thêm màu sắc sử thi cho tác phẩm.

  1. Sau 1975, khi con người được nhìn nhận như một cá thể, một số phận thì văn học đã phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử

HS có thể chọn các nhân vật như người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, cô Hiền trong Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.

Ví dụ: Nếu chọn nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, có thể triển khai những ý sau:

  1. Người đàn bà hàng chài – một cuộc đời, một số phận bất hạnh

– Xuất hiện trong khung cảnh mộng mơ, lãng mạn của vùng biển trong buổi sáng ban mai, người đàn bà bước ra từ chiếc thuyền sau một đêm lao động cực nhọc. Ngoại hình được khắc họa với dáng vẻ lam lũ mệt mỏi.

– Lần theo diễn biến câu chuyện, người đọc dần nhận ra hình ảnh người đàn bà với một cuộc đời nhiều bất hạnh, đắng cay:

. Không tên

. Kém nhan sắc

. Cuộc sống cơ cực

. Đông con

. Nạn nhân của nạn bạo hành gia đình.

à Khổ đau chất chồng cứ đè trĩu xuống cuộc đời chị.

Nếu so sánh với các nhân vật nữ của giai đoạn văn học trước, sẽ thấy người đàn bà hàng chài ở đây không còn vẻ đẹp mang tính lí tưởng của người phụ nữ thời đại chống Mĩ như chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng-Nguyễn Thi), chị Chiến (Những đứa con trong gia đình-Nguyễn Thi), Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng-Nguyễn Minh Châu), chị Nguyễn Thị Lí (Người con gái Việt Nam-Tố Hữu)…Đó trước hết là chân dung một cuộc đời, một số phận nhiều bất hạnh.

Người đàn bà trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng không phải là kết tinh cho vẻ đẹp, sức mạnh, phẩm chất của cả dân tộc, nhân dân. Nói cách khác đó không còn là hình ảnh mang tính sử thi của nền văn học sử thi. Đó là con người của đời thường, đời tư với bao lo toan về áo cơm, về con cái, về tương lai. Ngay cả vẻ đẹp của họ cũng thật bình dị, có khi khuất lấp, không dễ gì đã nhận ra. Niềm vui của họ không phải là đánh được nhiều thằng Mĩ. Niềm vui của họ hôm nay-niềm vui của người lao động thời bình, đó là nhìn các con được ăn no; điều họ cần trong cuộc sống hôm nay là người đàn ông bên cạnh để khi phong ba bão táp có được cái cột chèo để tựa vào dù chẳng biết cái cột chèo ấy có thật vững hay chỉ là mọt ruỗng.

Với hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà văn đi tiên phong trong phong trào đổi mới văn học đã lặng lẽ mà nghiêm khắc nói với ta rằng: hãy quan tâm đến những con người bình thường, những số phận bất hạnh đang sống quanh ta. Văn học của thời bình, muốn thực sự có được chỗ đứng trong lòng độc giả hãy quan tâm đến những điều ngỡ nhỏ nhặt mà đầy nhân bản ấy.

  1. Cũng qua hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà văn đã phát hiện không ít sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử.

– Người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn giữa một bãi xe tăng hỏng. Hình ảnh bãi xe tăng hỏng được nhà văn ( không biết cố ý hay vô tình) nhắc đi nhắc lại nhiều lần là minh chứng nói với ta rằng: nơi đây cuộc chiến tranh đã đi qua. Có thể tàn tích một thời bom đạn vẫn còn nhưng người dân nơi đây đang sống ở thời bình.

– Người đàn bà vừa bày tỏ nỗi vất vả mưu sinh hiện tại vừa không giấu nổi những cảm xúc đầy sự hàm ơn với cách mạng, với những gì cách mạng đã mang lại cho mình: Làm nhà trên đất  ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được.

Người đàn bà từ chối con đường sáng mà vị chánh án huyện đã vạch sẵn với lí do riêng-cái lí do vừa vô lí lại vừa đầy thuyết phục

Lắng nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, người đọc giật mình, vỡ lẽ ra nhiều điều:

– Chiến tranh đi qua nhưng điều đó không có nghĩa rằng cuộc sống con người đã bình yên. Nếu hôm qua chúng ta chiến đấu với kẻ thù để giành độc lập tự do thì hôm nay chúng ta lại đang phải gồng mình lên trong cuộc đấu tranh với đói nghèo, lạc hậu, mê muội. Đói nghèo có thể đẩy con người đến nhiều bi kịch.

– Cách mạng là ưu việt. Nhưng chủ trương chính sách mới của cách mạng không phải lúc nào cũng có thể đi ngay vào đời sống, biến bức tranh đời sống người lao động từ mù tối thành tươi sáng. Vả lại, đâu dễ thay đổi lối nghĩ, lối sống đã thành thâm căn cố đế của người dân, giống như suy nghĩ của gia đình hàng chài đó.

Rõ rằng ở đây không còn biểu hiện của sự trùng khít giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng, không còn hình ảnh của con người luôn làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh như trong văn học 1945-1975 nữa. Ở đây chỉ thấy có sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng, giữa con người và lịch sử, con người bị hoàn cảnh đẩy xô và rơi vào những nghịch cảnh khó lường. Đất nước không còn tiếng súng nhưng những người dân vùng biển vẫn chìm trong đói nghèo và lạc hậu. Sự phát hiện ấy chỉ có được khi con người đã được nhìn nhận như những cá nhân, những số phận giữa cuộc đời chứ không phải là đại diện cho vẻ đẹp lí tưởng của dân tộc một thời. Với phát hiện ấy, lần thứ hai trong truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu lại cảnh tỉnh chúng ta-dù là độc giả hay người cầm bút thì cũng không được nhìn người và nhìn đời một cách dễ dãi và đơn giản. Cuộc sống luôn phức tạp hơn những gì ta vẫn nghĩ và quen nghĩ.

  1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: sáng tạo tình huống truyện giàu ý nghĩa để soi sáng nhân vật; chọn lọc chi tiết, hình ảnh giàu ẩn ý; ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần với đời sống…

III. Đánh giá

– Từ sự khác nhau của hình tượng con người, thấy rõ hơn sự khác nhau trong quan niệm nghệ thuật về con người.

– Sự khác nhau ấy cũng đánh dấu bước phát triển mới trong cách nhìn, cách thể hiện về con người, là biểu hiện sinh động nhất cho việc đổi mới nền văn học.

– Bài học với người cầm bút (luôn tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách viết), bài học với độc giả (chủ động, tích cực và thông minh trong tiếp nhận).

 

Đề 2: Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của văn học sau 1975 gắn liền với sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của nhà văn.

 Ý kiến của anh/chị về vấn đề trên?

 

Đề xuất một hướng triển khai:

  1. Giải thích
  2. Khái niệm

– Điểm nhìn nghệ thuật là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng.

“Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. (Trần Đình Sử)
“Khoảng cách, góc độ của lời kể đối với cốt truyện tạo thành cái nhìn” (Từ điển thuật ngữ văn học)

– Có nhiều cách phân chia điểm nhìn:

. Điểm nhìn bên trong-điểm nhìn bên ngoài

. Điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất-điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba-điểm nhìn của người kể chuyện toàn tri…

. Điểm nhìn không gian-điểm nhìn thời gian…

  1. Quan niệm nghệ thuật về con người từ văn học giai đoạn 1945-1975 đến văn học giai đoạn sau 1975 đã có sự đổi mới đáng ghi nhận. Đó là bước chuyển từ quan niệm con người sử thi sang quan niệm con người đời tư, đời thường. Sự thay đổi ấy tất yếu gắn nhìn với sự thay đổi trong điểm nhìn trần thuật của nhà văn.
  2. Phân tích, chứng minh
  3. Trước 75: Mỗi tp chỉ có một điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật do người truyền phán chân lí đảm nhận. Nhà văn đồng nhất mình với chân lí nên quan hệ giữa anh ta với bạn đọc là quan hệ độc thoại.
  4. Sau 75: Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới văn xuôi. Mỗi điểm nhìn là một ý thức độc lập, qua đó, sự việc, con người được nhìn nhận từ nhiều chiều kích. Mối quan hệ nhà văn-độc giả chuyển từ độc thoại sang đối thoại hai chiều. Độc giả không bị áp đặt chân lí mà được quyền bình đẳng với nhà văn trong hành trình tìm kiếm chân lí.
  5. Trong “Một người Hà Nội”

– Cách mạng là ngày hội với những người làm cách mạng; nhưng lại không được vui, thậm chí gây nhiều phiền nhiễu với cô Hiền, với chị vú…

– Cô Hiền có phải tư sản không? Với người cháu-người kể chuyện xưng tôi thì cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Nhưng theo cô: Tao có một bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản nhưng  không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được. Để rồi cuối cùng, sau khi đã trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, nghe, nhìn và cảm nhận, và thấu hiểu, người kể chuyện xưng tôi đã đầy cảm kích thừa nhận: cô Hiền chính là hạt bụi vàng có thể làm chói sáng đất kinh kì, một vẻ đẹp cao quý mà bình dị trong cốt tủy chứ không phải là cái lộ ra ngoài.

– Nhìn Hà Nội hôm nay:

Nhân vật tôi nhìn bằng cái nhìn đa chiều: có phủ định và có khẳng định.

Còn cô Hiền, khi nghe người cháu kể lại những gì đã chứng kiến, người phụ nữ ấy không bình luận mà nói về cây si ở đền Ngọc Sơn. Phải chăng, mượn câu chuyện về cây si, nhà văn gửi trọn niềm tin yêu vào sự vĩnh hằng của vẻ đẹp Hà Nội.

  1. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”

– Về người đàn ông:

. Với thằng Phác: đó là người cha tàn nhẫn và để bảo về mẹ, nó sàng đánh lại

. Với Phùng và Đẩu: Đó là người đàn ông, người chồng vũ phu. Vì vậy họ khuyên người đàn bà ly hôn để giải thoát cho mình

. Với người người đàn bà: Vừa mang ơn, vừa đáng sợ, vừa không thể thiếu trong cuộc sống luôn phải đối diện với sóng gió của mình.

– Về bi kịch của người đàn bà:

. Với Phùng và Đẩu đó là cái nhìn của người ngoài cuộc: có phần chủ quan, nóng vội.

. Với chính người đàn bà, bà ta nhìn bằng con mắt của người trong cuộc: thấu trải, xa xót, chấp nhận .

  1. Trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

– Về TB, tác giả đã đặt ra cái nhìn

. Của người vợ

. Của cháu

. Của con dâu…

– Việc Trương Ba muốn trả lại xác anh hàng thịt:

. Trương Ba không chấp nhận sống nhờ, giả tạo chắp vá và là một tội ác khi sống lấn vào phần đời tuổi trẻ.

. Trong khi Đế Thích: ngỡ ngàng, ngạc nhiên.

III. Đánh giá chung: ý nghĩa của việc đổi mới về điểm nhìn trần thuật của văn học sau 1975

 

D.2. Hướng dẫn học sinh làm bài tập chuyên đề

            Tên chuyên đề: Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975 (qua một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình)

Dàn ý đại cương

  1. Lí do lựa chọn đề tài

– Ý nghĩa của việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người nói chung

– Sự đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975, trong đó có sự đổi mới quan niệm về con người là vấn đề.

  1. Nội dung đề tài
  2. Khái niệm
  3. Nhìn lại quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học những giai đoạn trước
  4. Trong văn học trung đại
  5. Trong văn học 1930-1945

c.Trong văn học 1945-1975

  1. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975 qua một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình
  2. Khái quát chung
  3. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
  4. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm Một người Hà Nội của Nguyễn Khải
  5. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
  6. Ý nghĩa của sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975

III. Kết luận

 

Trích bài viết của học sinh

(…..)

Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975 qua một số tác phẩm cụ thể trong chương trình THPT

            Ngay sau năm 1975, để trả lời câu hỏi “sự kiện hay con người?”, Nguyễn Minh Châu đã dứt khoát khẳng định: “trước sau gì thì con người cũng leo lên trên các sự kiện để đòi quyền sống”. Cũng Nguyễn Minh Châu trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Văn nghệ đầu năm 1986 đã phát biểu: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người”. Và một quan niệm nghệ thuật mới về con người của văn học thời kì này chính là: đặt con người ở vị trí trung tâm của toàn bộ hiện thực, là điểm xuất phát và đích đi tới của văn học, cũng là hệ quy chiếu các giá trị của đời sống, của lịch sử.

             Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình,…

            Con người cũng được văn học khám phá soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát. Ở một số trường hợp cũng không tránh khỏi sự thiên lệch, cực đoan. Nhưng nhìn chung, văn học hôm nay đã vượt qua sự nhận thức hạn hẹp, giản đơn về con người, để nhìn con người như một thực thể xã hội và tự nhiên, phức tạp và còn đầy bí ẩn. Điều dễ nhận ra là trong phần lớn các tác phẩm văn học thời kì này, con người không còn là nhất phiến đơn trị mà luôn là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân.

            Ở những phương diện đổi mới như trên có thể kể đến rất nhiều những cây bút tiêu biểu. Trong văn xuôi có thể nói đến sáng tác của Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Lê Lựu, Ma Văn Kháng,… Trong thơ không thể không kể đến những cái tên như Hoàng Cầm, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy, Vi Thùy Linh,… Tuy nhiên trong phạm vi bài viết, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong hai tác phẩm tiêu biểu được đưa vào chương trình THPT: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Một người Hà Nội (Nguyễn Khải).

 

Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:

Là một nhà văn suốt đời khao khát khám phá cái đẹp và sự chân thực của đời sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật và ông có một vị trí đặc biệt quan trọng – người “tiền trạm đổi mới”, “người mở đường tinh anh” cho văn học Việt Nam sau 1975.

Con đường đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu là con đường nhiều trăn trở và nhiều trải nghiệm sâu sắc. Trước 1975, là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác duy nhất của ông lúc này là hướng đến cuộc chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc, đất nước. Do vậy, nhà văn đã dành gần hai chục năm sung sức của cuộc đời để tìm tòi, khám phá, thành tâm và say sưa ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh.

Với quan niệm nghệ thuật về con người: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”, hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trước 1975 là hành trình “cố gắng đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Đây chính là ngọn nguồn của sự tìm tòi, lòng tin, niềm lạc quan về vẻ đẹp con người, làm nên một cảm hứng lãng mạn bay bổng của Nguyễn Minh Châu khi khắc họa hình ảnh con người trong chiến tranh. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1975 thường là những người chiến sĩ, anh hùng. Đó là Nguyệt, Lãm trong “Mảnh trăng cuối rừng”, là Lữ và đồng đội của anh trong “Dấu chân người lính”…Trong một cảm hứng ngợi ca đặc biệt, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật như những con người hoàn thiện hoàn mỹ, với vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, với tinh thần xả thân, với tâm hồn lãng mạn sáng trong không tỳ vết.

Tuy nhiên, từ sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã có những bước chuyển mình nhất định. “Chiếc thuyền ngoài xa” (1983) là câu chuyện về cuộc đời của một gia đình hàng chài trong cuộc vật lộn với đói nghèo, lạc hậu. Nếu như trước 1975, trong văn học, con người sử thi luôn làm chủ hoàn cành, chiến thắng hoàn cảnh, số phận cá nhân luôn trùng khít với số phận cộng đồng thì giờ đây, con người được nhìn nhận như một cá thể, được đặt trong quan hệ đời thường. Nhà văn đã phát hiện ra sự vênh lệch giữa số phận cá nhân và vận mệnh cộng đồng.

            Chiến tranh qua đi không có nghĩa là cuộc sống con người trở về bình yên, hạnh phúc mà ở những kiếp người lao động kia, bão tố vẫn hiển hiện trong cuộc sống của họ. Đằng sau tấm huân chương, đằng sau chiến thắng vĩ đại là còn đó cuộc sống con người với bao khổ cực. Một gia đình mà đã có biết bao tháng ngày “vợ chồng và con cái đều phải ăn xương rồng luộc chấm muối”, cái nhà che mưa che nắng cho hơn chục cái đầu người lại chỉ là một chiếc thuyền nhỏ ngày ngày lênh đênh trên biển đối mặt với sóng, với gió. Nhưng đớn đau hơn, là ở đó còn diễn ra bao cảnh bạo hành gia đình xót xa. Chồng đánh vợ, cha lỗi đạo làm cha và con lỗi đạo làm con. Một gia đình ấy và bao gia đình khác… Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến chống lại cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình, cuộc chiến đấu để tìm đến hạnh phúc, tìm đến những giá trị đích thực của cuộc sống. Và Cách mạng về không có nghĩa là hồi sinh cho tất cả ngay trong một phút cuộc đời được mà quan trọng hơn là còn phải chờ vào sự nỗ lực của bản thân mỗi người.

Trong tác phẩm, con người không còn là nhất phiến, đơn trị nữa mà con người đã được nhìn ở nhiều vị thế, nhiều mối quan hệ, là con người đa trị, con người lưỡng phân. Điều mà Phùng và Đẩu nhìn thấy ở người đàn bà hàng chài ấy chỉ là một con người vừa xấu xí, vừa thô kệch lại còn u mê, mu muội. Một kẻ khi bị đánh thì “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”, nhưng khi được pháp luật mở đường để từ bỏ bi kịch nhục nhã ấy thì lại chối từ. Nhưng không, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã giúp chúng ta khám phá và phát hiện ra ở người đàn bà ấy những phẩm chất đáng quý hơn cả bên trong cái vẻ ngoài sần sùi kia. Đó là tình yêu thương chồng con, là đức hi sinh, là tấm lòng vị tha vô bờ bến. Mụ xin chồng lên bờ rồi đánh, mụ gửi con cho ông ngoại luôn ấy cũng là vì muốn giữ cho con tâm hồn sạch trong, lành mạnh. Mụ từ chối việc bỏ chồng: “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Ấy cũng là vì mụ muốn giữ cho con có cha, nhà có nóc. Thì ra, tình thương chồng, yêu con chính là lẽ sống của người đàn bà khốn khổ này. Với những kiếp đàn bà khổ đau như thế, niềm vui quả thực là một thứ gì đó quá xa xỉ. Nhưng chính tình yêu, đức hi sinh đã trở thành sức mạnh nội tâm nâng đỡ họ: “lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Mụ coi niềm vui của con cũng chính là niềm vui của mình:

– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi.

– Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…

  Còn gì đẹp hơn cho đức tính muôn thủa ấy của người phụ nữ Việt:

Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng

Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời

(Tố Hữu)

            Cũng chính tấm lòng vị tha đã khiến người đàn bà ấy chẳng ngần ngại chìa tấm lưng của mình ra chịu những trận đòn, coi đó như là một cách để chia sẻ những ẩn ức cuộc sống cùng chồng.

            Không những thế ở người đàn bà ấy, ta còn thấy sáng lên vẻ đẹp của sự sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Mụ nhìn thấu cuộc đời mình, nhìn rõ bản chất của người chồng: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Chính mụ đã tự chắt ra từ cuộc sống nhọc nhằn của mình cái chân lý thấm vị mặn của đời: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Thế nhưng cái chân lý cao cả hơn là: “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Mụ tự nhận lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Và tự bao giờ, người đáng ra gọi lên để thuyết lý thì lại trở thành người thuyết lý. Nếu ông chánh án huyện thuyết phục mụ bằng một mớ lý lẽ khô khan trong sách vở thì người đàn bà lại thuyết phục bằng một loạt những lý lẽ tươi rói chất đời.

            Còn gã đàn ông kia, cứ tưởng như hắn đã là “kẻ tàn nhẫn nhất trên đời” với những hành động vũ phu của mình. Nhưng mới nghịch lý làm sao, đánh được vợ, hắn ta cũng chẳng hả hê gì mà lại không ngừng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Câu nói ấy giúp ta định hướng rằng, hành động vũ phu man rợ của người đàn ông không phải xuất phát từ nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người đàn bà mà chính là gánh nặng đang đè lên bờ vai, khối thịt vốn đã không thể đen hơn, rám nắng hơn trước sự vật lộn với sóng gió của biển khơi. Cuộc sống mưu sinh như một thứ gánh nặng đường trường mà hắn thì đã chùn chân mỏi gối. Và cũng chính gã đàn ông ấy, gã ta đâu chỉ là một tên tội nhân mà hắn còn là một ân nhân khi đã cho người đàn bà xấu xí kia một cuộc sống gia đình mà mụ hằng ao ước. Cuộc sống từ đấy mà cũng có sắc, có màu, có buồn, có vui.

            Đối với hai nhân vật Phùng và Đẩu, họ là những con người nhiều chữ nghĩa, học nhiều biết nhiều song giữa đời thường lại chỉ hạn hẹp như những cậu học trò. Họ là những người lính đã vào sinh ra tử, đã được thử lửa qua bom đạn chiến tranh nhưng cuối cùng vẫn chỉ là những anh binh nhì, binh nhất giữa trận mạc cuộc đời. Phải chăng qua đó, Nguyễn Minh Châu còn muốn nói với chúng ta một điều rằng: sách vở thôi chưa đủ, phải lăn xả vào trường đời khi ấy anh mới có được cái nhìn thấu đáo, thông suốt.

 

Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải:

             Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tốt – xấu, ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Nhân vật bà Hiền trong tác phẩm “Một người Hà Nội” (1990) tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.

            Trong tác phẩm, con người không còn được nhìn từ góc độ giai cấp, cũng không phải ở tư cách công dân hay ý thức chính trị mà được nhìn từ góc độ văn hóa. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hành trình khám phá của nhân vật “tôi” về cô Hiền. Ban đầu, nhân vật “tôi” cũng chỉ nhìn cô Hiền bằng cái nhìn rất giai cấp và cho rằng cô Hiền “đích thị là tư sản” vì gia đình cô ở rộng quá, cái mặt cũng sang trọng quá, cái ăn cũng chẳng giống ai, và vì “cô có một gương mặt đặc biệt là tư sản, càng già lại càng rõ”. Thế nhưng, qua nhiều biến cố của lịch sử, qua cả một quá trình nhận thức, nhân vật “tôi” đã nhận ra cô Hiền chính là hiện thân của văn hóa, của vẻ đẹp đất kinh kì, là “hạt bụi vàng của Hà Nội”. Văn hóa là cái vững bền, không dễ thay đổi. Và là vì người có văn hóa mà giàu bản lĩnh, tự tin và tự trọng. Tất cả đã được hiển hiện đầy đủ và đẹp đẽ từ lối sống đến lối nghĩ của cô Hiền.

            Đặt trong mối quan hệ với gia đình, cô Hiền luôn sáng lên là một người đầy bản lĩnh, tự trọng, dám nghĩ dám làm. Gần ba mươi tuổi cô mới lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, cô chọn chồng là một ông giáo cấp tiểu học – một người cần thiết cho mọi chế độ. Cô quyết thế và làm thế, bởi ở cô “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Với cô, trách nhiệm sinh con phải gắn liền với trách nhiệm nuôi dạy con, còn trong gia đình thì người đàn bà phải làm nội tướng. Cô dạy các con từng đường đi nước bước, đường ăn ý ở và quan trọng hơn là dạy các con biết tự trọng. Những đứa con của cô lần lượt xin đi lính nhưng cô chỉ “đau đớn mà bằng lòng”, cô không khuyến khích, cũng không ngăn cản bởi cô “không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”, cô “cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác”. Tình yêu nước, trách nhiệm với tổ quốc được thể hiện một cách nhẹ nhàng, kín đáo xa lạ với những ồn ào, khoa trương…

Trước những biến thiên của thời đại, cô vẫn luôn giữ cho mình một lối sống, lối nghĩ nhất quán. Sau 1954, khi tất cả hòa vào cuộc sống sặc mùi lính tráng, cô vẫn giữ cho mình những nếp sống riêng. Sau 1975, khi tất cả lao vào một cuộc sống xô bồ, đuổi theo vật chất, cô vẫn giữ cho mình những nếp sống riêng. Đó chẳng phải là bản lĩnh văn hóa sao?

            Ở nhân vật cô Hiền, chúng ta còn nhận ra một con người hết sức sang trọng, lịch lãm, quý phái. Một nét đẹp thoảng về từ câu ca xưa:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

            Cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Vẻ đẹp sang trọng hiển hiện từ cái ăn, cái mặc của gia đình cô. “Mùa đông ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ quy định”. “Trong mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô chú đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kì”. Cô luôn băn khoăn về những chuẩn mực văn hóa của xã hội, điều đó hiện lên qua câu hỏi của cô giành cho nhân vật “tôi”: “Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào?”. Sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nhân vật “tôi” trở về Hà Nội và nhận thấy cô Hiền “vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội không pha trộn”. Cách bài trí nhà để đón tết đã nói cho chúng ta biết chủ nhân của nó là một người như thế nào. Và giữa cái nhốn nháo của cuộc sống kinh tế, người ta vẫn còn nhìn thấy một con người biết chơi thủy tiên, chăm sóc, gọt tỉa thủy tiên…

            Không chỉ thế, cô Hiền còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.

            Qua nhân vật cô Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc, con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật cô Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.

 

Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ:

            Táo bạo, dũng cảm-đó là những đặc điểm nổi bật của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ những năm đất nước đổi mới. Ông đã đặt ra trong sáng tác của mình những vấn đề nóng hổi của thời đại lúc bấy giờ như cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và tập thể… Với vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, tác giả đã gửi gắm ở đó một quan niệm mới về con người.

            Với Lưu Quang Vũ, con người phải là sự thống nhất giữa bên ngoài và bên trong, tâm hồn và thể xác, con người có những nhu cầu trần thế cần phải được thừa nhận. Nhân vật Hồn và Xác trong tác phẩm tượng hình lên là hai thế giới của con người, là hai con người trong một con người mà ở mỗi chúng ta đều có.

            Người đọc còn nhớ cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong đoạn trích được học  (SGK Ngữ văn 12). Đây chính là cuộc đối thoại của hai thế giới, hai con người trong một con người, của con người tinh thần với con người thể xác, của con người bản năng và con người tâm hồn.

            Dựng lên cuộc đối thoại rất gay gắt, đầy xung đột, Lưu Quang Vũ thể hiện những suy nghĩ và thức nhận sâu sắc của ông về con người: Con người là sự tổng hoà của tâm hồn và thể xác; con người có những nhu cầu bản năng rất đỗi hằng thường, cần phải thừa nhận và quý trọng nó. Ruồng bỏ phần thể xác, bản năng chính là phi nhân bản, đổ lỗi cho thể xác là giả dối, thiếu dũng khí, do đó phi nhân văn.

 Kết thúc cuộc xung đột gay gắt giữa Hồn và Xác, phần thắng nghiêng về Xác. Đó là biểu hiện một cái nhìn nhân bản ở Lưu Quang Vũ khi xác lập một thái độ đúng đắn trước con người thể xác, con người bản năng, từ đó kín đáo lên tiếng phê phán tư tưởng cực đoan, phiến diện một chiều phi nhân bản.

            Không những thế, trong đoạn trích kịch được học, nhà viết kịch họ Lưu còn khẳng định: Con người phải có ý thức đấu tranh với bản thân, với môi trường, với hoàn cảnh dung tục để hoàn thiện bản thân. Điều này thể hiện rõ qua màn đối thoại của Trương Ba với những người thân. Với vợ, Trương Ba là người vô tâm; với cháu, ông là người thô bạo, tàn nhẫn; với con dâu-người hiểu và thương ông nhất cũng phải xót xa thừa nhận: ông ngày một lệch lạc, đổi khác đi. Bi kịch của Trương Ba chính là một hiện thực đau xót khi con người đã để cái phần xác bản năng thắng thế, khi cái phần hồn phải chịu sự sai khiến tồi tệ của phần xác bản năng. Khi ấy, con người thành xa lạ và sẽ bị phủ nhận ngay trong chính môi trường an lành, sẵn sự cảm thông và dung thứ: gia đình. Nói cách khác, khi con người chỉ sống bằng bản năng , bằng xác thịt, con người sẽ bị phủ nhận. Đấu tranh để con người phải thừa nhận con người bản năng là tư tương nhân bản, nhưng không chấp nhận con người chỉ sống bằng bản năng là ý nghĩa nhân văn của đoạn kịch này.

            Điểm nổi bật nữa trong quan niệm về con người của tác giả “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là: con người phải được là chính mình. Đó mới thực sự là cuộc sống có ý nghĩa. Qua cuộc đối thoại mang tính xung đột giữa Trương Ba với Đế Thích, có thể hiểu Đế Thích là biểu tượng cho hoàn cảnh, cho kẻ gây ra bi kịch con người. Nhưng dẫu thế, con người không được chấp nhận hoàn cảnh, không để hoàn cảnh sai khiến mà chấp nhận sống khác mình. Không gì đau khổ khi sống không được là mình. Phải đấu tranh để vươn lên để được là chính mình. Sống là mình cũng chính là ta đã sống vì người khác. Đó là ý nghĩa sự sống, là thông điệp nhân văn mà Lưu Quang Vũ trao gửi đầy thấm thía qua vở kịch nói chung, đoạn trích nói riêng…

 

Ý nghĩa của sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975:

Song hành với sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người là sự thay đổi trong phương thức biểu hiện nghệ thuật về con người. Với những quan niệm nghệ thuật mới mẻ và tích cực về con người cũng như về hiện thực, văn học Việt Nam sau 1975 đã mở ra cho hình thức nghệ thuật biểu hiện nhiều thay đổi giàu giá trị về cốt truyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,…

Đổi mới quan niệm về con người, nhìn con người trong tổng thể các mối quan hệ, sâu sắc hơn, thấu triệt hơn cũng chính là một cách giúp cho các nhà văn cởi mở hơn, sáng tạo hơn trong việc tiếp cận, khám phá con người. Từ đó, nhà văn cũng xây dựng được cho mình những hệ thống hình tượng độc đáo, đặc sắc hơn, tạo nên phong cách nghệ thuật. Người ta thấy con người sám hối, con người thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Con người cô đơn đầy cay đắng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Con người vừa anh hùng vừa hèn hạ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập… Các thanh sắc khác nhau ấy đã tạo cho văn xuôi sau 75 một diện mạo đa diện, hấp dẫn.

 Quan niệm về con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Sự vận động của thực tế làm nảy sinh những con người mới, và miêu tả những con người ấy sẽ làm văn học đổi mới. Văn học từ sau 1975 đổi mới với nhiều thành công đáng kể mà nền tảng chính là tinh thần nhân bản đã đánh dấu những chặng đường phát triển của văn học dân tộc.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Phạm Tuấn Anh (2009), Sự đa dạng thẩm của văn xuôi Việt Nam sau 1975,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.

  1. Đặng Thị Minh Duyên (2011), Con người nhân Việt Nam trong tiểu thuyết thời kỳ đầu đổi mới (Qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận văn thạc sĩ KH Ngữ văn, Đại học
  2. Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long (đồng cb) (2007), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học sư phạm.
  3. Trần Đình Sử (1995), “Con người trong văn học Việt Nam sau 1945”, Một thời đại trong văn học, NXB Văn học, 43-95.
  4. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời đổi mới, Luận án tiến sĩ văn học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn.
  5. Lê Thị Vân (2006), Hình tượng con người đơn trong văn học thời đổi mới (Qua sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh), Luận văn Ths KH Ngữ văn.
  6. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, NXB Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2014), Lí luận văn học-Tập 2, NXB Đại học Sư phạm.
  8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
  9. Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn, Đỗ Lai Thúy, Đặng Thu Thủy (2012), Tài liệu chuyên Văn-Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.
  10. Lại Nguyên Ân. Một thời đại văn học mới. NXB Văn học, Hà Nội 1987
  11. Phan Cự Đệ. Tác phẩm và chân dung. NXB Văn học. Hà Nội 1984
  12. Tô Hoài. Mười lăm năm văn xuôi ( Tựa “ Tuyển tâọ văn học Việt Nam 1945 – 1960). NXB Văn học.Hà Nội 1990.
  13. Mã Giang Lân. Văn học Việt Nam 1945 – 1954. NXB Hà Nội 1990.
  14. Nguyễn Đăng Mạnh. Nhà văn, tư tưởng và phong cách. NXB t Tác phẩm mới. Hà Nội 1992.
  15. Nguyễn Đăng Mạnh. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. NXB Giáo dục. Hà Nội 1994
  16. Nguyễn Đăng Mạnh. Tác giả văn học Việt Nam tập 2. NXB Giáo dục. Hà Nội 1992.
  17. Trần Đình Sử. Con người trong văn học Việt Nam hiện đại. NXB Hà Nội 1995
  18. Trần Đình Sử. Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Tác phẩm mới. Hà Nội 1999.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *