Rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn

Bài văn mẫu HSG

RÈN KỸ NĂNG GIẢI THÍCH TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN

CHO HỌC SINH GIỎI VĂN

 

  1. PHẦN MỞ ĐẦU
  2. Lí do chọn đề tài

Nghị luận là kiểu bài được sử dụng phổ biến ở bậc học THPT và trong các kì thi chọn học sinh giỏi. Trong bài văn nghị luận, người viết bày tỏ quan điểm cá nhân về một vấn đề nhằm thuyết phục người đọc tán đồng quan điểm đó. Tuy nhiên, để đạt được mục đích ấy, điều thiết yếu là cần minh xác cho người đọc bản chất của vấn đề đang được bàn đến. Do vậy, giải thích là thao tác cực kì quan trọng, quyết định sự thành công của bài văn nghị luận.

Trong chương trình Ngữ Văn, giải thích mới chỉ được đề cập đến như một thao tác lập luận và chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ, chưa tương xứng với vai trò quan trọng của nó. Các tài liệu dành cho học sinh giỏi cũng chưa dành một phần xứng đáng để rèn kỹ năng giải thích, nâng cao năng lực giải thích cho học sinh.

Vì những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn” để góp thêm một phần tư liệu khiêm tốn vào mảng đề tài còn thiếu hụt này.

  1. Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn bậc THPT.

  1. Mục đích nghiên cứu

– Tái tạo sơ lược hệ thống kiến thức về kỹ năng giải thích

– Trao đổi những kinh nghiệm về phương pháp rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn mà chúng tôi đã áp dụng.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Trong chuyên đề này, người viết sử dụng những phương pháp cơ bản như:

  • Thu thập và xử lý thông tin
  • Phân tích, tổng hợp
  1. Phạm vi đề tài

Chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong phần giải thích của bài văn nghị luận.

  1. Cấu trúc của chuyên đề

Phần nội dung chuyên đề có cấu trúc như sau

CHƯƠNG I:  Khái luận về giải thích

CHƯƠNG II: Cách rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn

CHƯƠNG III: Một số đề và bài viết tham khảo

 NỘI DUNG

CHƯƠNG I: KHÁI LUẬN GIẢI THÍCH

  1. Một số vấn đề về khái niệm:

1.1. Kĩ năng giải thích trong cuộc sống:

Theo Từ điển Tiếng Việt của giáo sư Hoàng Phê chủ biên, “giải thích” là “làm cho hiểu rõ“. Còn kĩ năng là năng lực (khả năng) của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, kĩ năng giải thích là năng lực làm cho người khác hiểu rõ một sự vật, hiện tượng, khái niệm… dựa trên hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân.

1.2. Thao tác lập luận giải thích trong văn nghị luận:

Đặt trong phạm vi hẹp hơn – phạm vi bài văn nghị luận, Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 7, tập 2 cho rằng: “Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ…cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người” (trang 71, bài Tìm hiểu chung về thao tác lập luận giải thích). Bên cạnh đó, thao tác lập luận là quá trình triển khai lí lẽ một cách lô gic nhằm phát hiện thêm một chân lí mới từ chân lí đã có. Trong đó, lập luận thường được triển khai theo các cách thức sau: diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, nêu phản đề, so sánh, vấn đáp, phân tích nhân quả.

Như vậy, thao tác lập luận giải thích là một cách thức triển khai các luận điểm, luận cứ trong bài văn nghị luận nhằm cắt nghĩa rõ những vấn đề về khái niệm, tư tưởng, đạo lí, quan hệ, phẩm chất…Điều đó có nghĩa là quy mô của vấn đề giải thíchcách thức tổ chức giải thích quyết định việc kĩ năng giải thích đó có trở thành một thao tác lập luận trong bài văn nghị luận hay không.

  1. Yêu cầu và vai trò của thao tác lập luận trong văn nghị luận:

2.1. Yêu cầu của việc rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận

Rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh cần bảo đảm một số yêu cầu sau:

– Về nội dung: cần chính xác, đích đáng,

– Về hình thức: đảm bảo sự trong sáng, chặt chẽ, mạch lạc, và cuốn hút.

2.2. Vai trò của thao tác giải thích và tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng giải thích trong bài nghị luận cho học sinh giỏi văn

Việc rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn có vai trò cực kì quan trọng, đây là điều không thể phủ nhận. Nhìn từ góc độ nào, từ sự thành công của bài văn, sự trưởng thành về tư duy của người viết, hay nhìn xa hơn, là sự phát triển của một xã hội văn minh, dân chủ… thì thao tác này luôn góp phần quan trọng.

Trước hết, việc rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cũng chính là rèn tư duy, tạo sự trưởng thành về tư duy cho học sinh. Ở bậc THCS, học sinh mới chỉ làm quen với văn nghị luận, còn chủ yếu là làm các bài văn tự sự, biểu cảm, miêu tả, thuyết minh với tần suất lớn. Lên cấp THPT, nghị luận lại là kiểu bài phổ biến nhất. Để chứng minh thuyết phục, phân tích thấu đáo vấn đề nghị luận thì cần phải xác định chính xác vấn đề đó. Nói cách khác, thao tác giải thích giúp xác định trúng luận đề, tìm hướng triển khai phù hợp cho bài văn nghị luận. Qua thao tác này, học sinh được rèn tư duy, xác lập quan điểm riêng về vấn đề chứ không chỉ dừng lại ở tái hiện (miêu tả), biểu cảm (biểu cảm), giới thiệu (thuyết minh) như trước.

Bên cạnh đó, rèn kỹ năng giải thích góp phần quan trọng trong sự thành công của bài văn nghị luận, tạo nên thành tích cho học sinh giỏi văn. Trong thực tế, nghị luận là kiểu bài tiêu biểu, đặc thù trong các kì thi học sinh giỏi nhiều năm gần đây. Sự thuyết phục của bàn văn nghị luận thể hiện ở hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác đáng, dẫn chứng bám sát vấn đề. Tuy nhiên, để cả hệ thống trên không lệch hướng, xa đề, thậm chí lạc đề thì khâu giải thích có vai trò định hướng quyết định. Giải thích đúng, giải thích trúng, giải thích sâu giống như chiếc la bàn, định ra cách triển khai phù hợp Nếu được rèn kỹ năng giải thích một cách thường xuyên và hiệu quả thì bài văn nghị luận sẽ tăng sức thuyết phục, chinh phục được người đọc và đem lại thành tích cao.

Hơn nữa, nhìn ở tầm rộng hơn, rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn góp phần tạo tiền đề cho một xã hội văn minh, dân chủ. Thế hệ các học sinh hiện tại, trong đó có các em học sinh giỏi văn sau này sẽ trở thành công dân tương lai của đất nước. Việc bộc lộ quan điểm, thể hiện lập trường cá nhân trước các vấn đề lớn của đất nước là vô cùng cần thiết. Vì vậy, để tự rành mạch với bản thân và trình bày với người khác có hiệu quả thì khâu giải thích, cắt nghĩa vấn đề là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa quan trọng. Dám nghĩ, dám nói là điều kiện cần của những công dân tích cực, có hành động đóng góp cho tổ quốc một cách thiết thực. Vì thế, rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn không chỉ quan trọng trong phạm vi học đường mà còn cần thiết đối với xã hội.

  1. Các cấp độ giải thích trong văn nghị luận:

3.1. Giải thích ý kiến, nhận định trong đề văn nghị luận:

3.1.1. Giải thích thuật ngữ, khái niệm, từ khóa trong đề văn nghị luận

Khi tiếp xúc với một đề văn nghị luận, điều đầu tiên chúng ta cần xác định chính là vấn đề nghị luận. Để truy tìm vấn đề, chúng ta buộc phải xác định được các từ khóa, đóng vai trò then chốt, bao chứa các nội dung nghị luận. Sau đó sử dụng thao tác lập luận giải thích để nắm rõ nội dung của các từ khóa này. Cụ thể, trong các đề văn nghị luận xã hội, đó có thể là những từ ngữ, hình ảnh quen thuộc trong đời sống. Chẳng hạn trong câu nói: “Thật tuyệt vời khi trèo lên những ngọn núi trong trẻo của bầu trời. Đằng sau tôi và trước tôi là Chúa, và tôi không sợ hãi”, các từ ngữ, hình ảnh quan trọng là: Ngọn núi trong trẻo của bầu trời”, “Chúa”, “không sợ hãi”. Sau khi xác định được các từ ngữ, hình ảnh quan trọng, chúng ta cần vận dụng thao tác giải thích để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Đối với các đề văn nghị luận văn học, chúng ta có thể gặp các thuật ngữ, khái niệm đặc trưng như: Tình huống truyện, phong cách nghệ thuật, chất thơ, tính dân tộc, chủ nghĩa nhân đạo…Ngoài ra, các hình ảnh trong đề văn nghị luận văn học thường là các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, đa nghĩa…Như vậy, một điều không thể phủ nhận là để làm được một bài văn nghị luận, trước hết chúng ta cần giải thích các thuật ngữ, khái niệm, hình ảnh quan trọng. Trên cơ sở đó xác định vấn đề cần nghị luận.

3.1.2. Khái quát ý nghĩa của các ý kiến, nhận định trong đề văn nghị luận

Sau khi nắm được ý nghĩa của các từ ngữ trong đề văn, bước tiếp theo chúng ta cần nắm được là ý nghĩa của toàn bộ câu nói/ ý kiến/ câu châm ngôn/ danh ngôn…được đưa ra. Để chỉ ra được một cách chính xác và trọn vẹn ý nghĩa, học sinh cần chú ý các vấn đề sau:

Trước hết, cần chú ý tới hình thức tổ chức câu văn. Có thể nói tùy vào việc lựa chọn hình thức diễn đạt mà chúng ta có thể xác định được mục đích của người sử dụng. Chẳng hạn, khi người nói/ viết sử dụng loại câu cầu khiến thường hướng tới những lời khuyên, động viên, khích lệ, thổi bùng đam mê, nhiệt huyết, lý tưởng cống hiến và khẳng định bản thân của người tiếp nhận. Khi người nói/ viết sử dụng kiểu câu nghi vấn thướng hướng tới những điều đáng bận tâm, boăn khoăn suy nghĩ nhằm thức tỉnh ý thức mỗi con người về những vấn đề trong cuộc sống. Khi người nói/ viết sử dụng hình thức câu phủ định hoặc khẳng định thường là một cách nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề phát biểu. Ngoài những hình thức câu thông thường, người viết/ nói có thể sử dụng các hình thức diễn đặc biệt dưới dạng những dòng thơ, câu chuyện. Nói cách khác quan điểm, ý kiến đưa ra trong đề bài không được trình bày dưới dạng những câu văn xuôi thường thấy. Chẳng hạn, trong đề bài sau: Đừng quên/ cái Ác vỗ vai cái Thiện/ Cả hai cùng cười đi về tương lai” (Đừng quên – Trần Nhuận Minh). Từ những câu thơ trên, luận về mối quan hệ Thiện – Ác trong cuộc sống. Đề bài đưa ra ý kiến về mối quan hệ Thiện – Ác trong cuộc sống nhưng lại mượn cách diễn đạt của một nhà thơ để trình bày. Điều này khiến học sinh phải lưu ý đến tứ thơ được thể hiện trong trích đoạn.

Bên cạnh các hình thức tổ chức câu văn, học sinh khi xác định vấn đề cần nghị luận trong đề bài cũng cần quan tâm tới các biện pháp tu từ được sử dụng. Đó có thể là phép liệt kê, điệp cấu trúc, điệp từ – điệp ngữ, câu hỏi tu từ, so sánh, liên tưởng…Mỗi biện pháp tu từ sẽ là một gợi dẫn để khám phá ý nghĩa trong câu nói/ ý kiến/ câu danh ngôn/ tục ngữ – ca dao mà đề bài đưa ra. Chẳng hạn, trong quan niệm văn học, Phùng Khắc Khoan có nhận xét: “Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng…” Cách sử dụng hình thức đối và điệp đã đem lại ý nghĩa toàn diện vầ sâu sắc hơn trong vấn đề được đề cập tới. Điều này đòi hỏi học sinh cần có cái nhìn tổng quát, trọn vẹn và cần có tư duy khái quát.

Ngoài các lưu ý nêu trên, khi giải thích ý nghĩa của các ý kiến/ danh ngôn/ tục ngữ cũng cần chú ý đến các vế câu và mối quan hệ giữa chúng. Chẳng hạn, nếu giữa các vế tồn tại mối quan hệ nguyên nhân – kết quả cần chú ý xem quy luật nào được khái quát thông qua mối quan hệ này. Ví dụ trong câu tục ngữ: gần mực thì đen, gần đèn thì rạng bao gồm có hai vế. Giữa chúng tồn tại mối quan hệ đối lập. Dựa trên sự đối lập này học sinh có thể phát hiện ra điểm thống nhất là sự thay đổi hoàn cảnh được đề cập dẫn đến sự thay đổi kết quả tác động. Trong một ví dụ khác, câu nói của Victor Hugo: “Vì yêu, trái tim trở nên can đảm” thể hiện mối quan hệ điều kiện – kết quả. Mối quan hệ này đã cho thấy sức mạnh của trái tim – tình cảm đối với mỗi con người.

Nhìn chung, đây là bước giải thích cần thiết để khái quát vấn đề cần nghị luận trên cơ sở đã giải thích các từ khóa. Hoàn thiện xong bước này, học sinh đã nắm chắc nội dung nghị luận. Trên cơ sở đó có thể vận dụng các thao tác lập luận khác để tiếp tục triển khai nội dung nghị luận.

3.2. Giải thích các luận điểm, luận cứ trong bài văn nghị luận:

Hệ thống luận điểm, luận cứ góp phần làm nên sức hấp dẫn và tính thuyết phục cho bài văn nghị luận. Do đó, người viết cần xác định rõ các luận điểm và luận cứ. Bên cạnh đó, để người đọc có thể hiểu rõ, hiểu sâu vấn đề, người viết phải sử dụng thao tác lập luận giải thích để lí giải các lí lẽ tương ứng được đưa ra. Xét về nội dung giải thích, người viết cần đáp ứng các yêu cầu sau: bám sát lí lẽ cần giải thích, kiến thức vận dụng cần chính xác, khách quan mang tính chân lí, đảm bảo tính logic, khoa học, chân thực, rõ ràng. Nói tóm lại, lĩ lẽ đưa ra cần xác đáng và lí giải đưa ra cần sâu sắc. Bên cạnh đó, việc đưa ra những dẫn chứng phù hợp cũng góp phần tăng tính thuyết phục cho thao tác giải thích.

Như vậy, thao tác lập luận giải thích là thao tác được sử dụng xuyên suốt bài văn nghị luận. Tuy nhiên, trong phần giải thích các luận điểm, luận cứ của bài văn, thao tác này được kết hợp với các thao tác lập luận khác như: phân tích, so sánh – đối chiếu, bình luận…Vì vậy, người viết cần biết kết hợp hiệu quả các thao tác lập luận để đạt hiệu quả cao nhất cho phần viết văn của mình.

CHƯƠNG II

 CÁCH RÈN KĨ NĂNG GIẢI THÍCH TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH GIỎI VĂN

Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận, trong quá trình dạy học, đặc biệt là ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi, chúng tôi đã dành cho việc hình thành và phát triển kỹ năng này một thời lượng xứng đáng. Tuy nhiên, ở đây do sự hạn chế về khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ xin đề cập tới việc rèn kĩ năng giải thích cho học sinh cấp độ đầu tiên – cấp độ giải thích ý kiến, nhận định trong đề văn nghị luận. Trong đó, tùy vào đặc điểm của mỗi học sinh, mỗi dạng riêng của nghị luận (nghị luận xã hội, nghị luận văn học) mà việc rèn thao tác này có thể linh hoạt (đẩy bước này lên trước hay bỏ qua bước kia) nhưng nhìn chung, chúng tôi tiến hành theo trình tự như sau:

Bước 1: Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ để giải thích khái niệm, thuật ngữ

Bước 2: Rèn kĩ năng viết đoạn văn giải thích

Bước 3: Thực hành sửa lỗi

Sau đây, chúng tôi xin trình bày cụ thể từng bước mà trong thực tế dạy học chúng tôi đã tiến hành.

  1. Nâng cao nhận thức cho học sinh giỏi văn về tầm quan trọng của thao tác lập luận giải thích trong bài văn nghị luận qua việc tham khảo ngữ liệu:

Có lẽ đối với nhiều bạn đồng nghiệp thì việc cho học sinh tham khảo tư liệu không phải là bước đầu tiên, thậm chí đây có thể là bước sau cùng trong việc rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận. Nhưng đối với chúng tôi, tham khảo tư liệu chất lượng tốt ngay từ đầu có hiệu quả lớn. Bởi như vậy, có thể định hình cho học sinh về thao tác giải thích một cách chính xác mà lại trực quan, sinh động, dễ tiếp nhận. Qua các dẫn chứng hay và thú vị, học sinh có ý niệm về giải thích và quan trọng hơn là có hứng thú rèn luyện kỹ năng giải thích.

Nguồn dẫn chứng có thể lấy từ các bài nghị luận nổi tiếng trong và ngoài nước của các danh nhân và các giáo sư, từ các bài viết của học sinh (trong các kì thi học sinh giỏi nổi tiếng toàn quốc hoặc của học sinh khóa trước). Yêu cầu trong việc chọn tư liệu dựa trên tiêu chí chuẩn mực, trong sáng, hấp dẫn.

Khi cho học sinh tham khảo tư liệu, cần có định hướng cụ thể ngay từ đầu, tránh việc đọc tràn lan, không đạt mục đích. Sự định hướng đó được thể hiện qua một loạt các câu hỏi dành cho học sinh khi nhận nguồn tư liệu.

Ví dụ 1: cung cấp tư liệu sau, học sinh đọc và thực hiện các yêu cầu bên dưới

Đề bài: Có ý kiến cho rằng “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”.

Hãy chia sẻ suy nghĩ của anh/chị bằng một bài nghị luận xã hội ngắn (khoảng 600 từ)

Bài làm

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều đón chào mỗi buổi bình minh bằng một loạt những dự định, kế hoạch cho công việc của một ngày mới. Nhưng đã bao giờ bạn nhìn lên bầu trời đêm lấp lánh những vì sao để hỏi mình rằng: “hôm nay tôi đã sống ra sao và những ngày sau tôi sẽ sống thế nào?”. Có ai đó đã từng nói rằng: “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”. Giữa ngã rẽ của “ước muốn” và “điều có thể”, bạn chọn bên nào? Hãy cùng tôi làm chuyến hành trình tìm về nội tại và bản thể chính mình để giải đáp, bạn nhé!

Xuân Diệu cho rằng được sống là một hạnh phúc lớn lao của mỗi người, còn theo khoa học tự nhiên, sống là sự vận động của các tế bào và sự tương tác giữa con người với môi trường xung quanh. Đấy là cách hiểu cơ bản và đơn giản nhất về sự sống. Nhưng hãy nhìn về khía cạnh khác luôn tồn tại song hành cùng sự sống của con người. Đó là “ước muốn” và “điều có thể”. Trên bề mặt ngôn từ, “ước muốn” được tạo thành từ hai thành tố: ước mơ và mong muốn. Nhưng hiểu một cách bản chất nhất, “ước muốn” là những mong mỏi, yêu thích của con người về một điều gì đó. Nói cách khác, “ước muốn” là tiền đề cho những kế hoạch ngắn hạn và dài hạn của cuộc sống và nó luôn tồn tại ở thì tương lai. Bên cạnh đó, có một thứ luôn tồn tại ở thì hiện tại, đó là “điều ta có thể” làm được dựa trên khả năng và trí tuệ của bản thân. Và nếu nằm ở thì tương lai gần thì “điều ta có thể” luôn gần như nằm trong sự chắc chắn và đảm bảo sẽ xảy ra. Hiểu một cách chung nhất, câu nói này chính là một lời khuyên cho mỗi người: hãy sống thực tế, tỉnh táo với khả năng của mình và nhạy bén với thời thế thay vì đắm mình trong những ước muốn xa vời.

Tuy nhiên, tôi cũng như bạn, đang phân vân giữa hai ngả đường: sống theo ước muốn hay sống theo điều ta có thê? Từ quan điểm cá nhân của mình, câu nói kia chỉ đánh giá đúng một phần và giúp ta định hướng cuộc sống được tốt hơn. Trước hết, nếu bạn là người tỉnh táo, thực tế và hi vọng một cuộc sống bình yên, êm đềm thì câu nói kia đúng là một lời khuyên rất hữu ích. Sống với những “điều ta có thể” tức là bạn đã tự ý thức được giá trị của mình và đang đi những bước an toàn trong cuộc đời. Đây có lẽ chính là khởi nguồn cho sự thành công vững chắc và hạnh phúc sau này. Từ đó, giúp bạn khẳng định được mình, phát huy năng lực và khai thác mọi điều kiện cần và đủ của bản thân, của môi trường để thành công.

Tuy nhiên, trên phương diện khác, sống theo ước muốn có thể giúp bạn khai thác tới hạn giá trị nội lực của cá nhân mình. Galile, Ampe, Anhxtanh, Newton công bố những thành tựu khoa học của mình là thuyết Nhật tâm, thuyết Lượng tử ánh sáng, thuyết Tương đối hay định luật Vạn vật hấp dẫn. Trước đó thì mọi người liệu ai có thể nói rằng đây là những điều có thể? Ở một lĩnh vực khác, nếu không bằng ước muốn và đam mê thì liệu giờ nhân loại có được những kiệt tác ghi danh của Van Gogh? Rõ ràng là cả trước, trong và sau khi vẽ tranh, Van Gogh đã không làm cái điều mà mình “có thể” là từ bỏ vẽ tranh và kiếm việc khác nuôi sống bản thân. Khi ông còn sống, chỉ duy nhất một bức tranh của ông bán được. Ai sống ở thời ấy cũng bảo ông mù quáng và phi thực tế, còn thời nay người ta nói gì? Chắc bạn đã rõ!

Khi sống với ước muốn cũng là khi người ta xây dựng cho mình một điểm tựa vững chắc để vươn tới những chân trời mới. Chỉ khi ấy người ta mới đủ can đảm đối mặt với khó khăn và theo đuổi đam mê. Nếu không nhờ mong muốn “điên loạn”, “dở hơi” của Mark Zuckerberg, Steve Jobs thì có lẽ giờ người ta sẽ thấy những cậu sinh viên ngoan của Harvard thay vì những anh hùng trong giới công nghệ với Facebook, Apple…

Ước muốn nâng con người lên nhưng cũng có thể quật ngã người ta xuống. Nó như chơi trò đuổi bão của những tay “liều chết” và mạo hiểm ở Mĩ – thắng thì được tất cả, thua thì trở lại vạch xuất phát. Nhưng hãy nhớ rằng “đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố” (Đặng Thùy Trâm). Thất bại không có nghĩa là mất đi tất cả, mà đó là bài học quý báu hơn tất cả. Đó chính là điều kiện tốt nhất để tôi rèn bản lĩnh và ý chí con người, bởi “lửa thử vàng gian nan thử sức”. Khi ấy, con người ta sẽ trưởng thành, khôn ngoan và can đảm hơn để tiếp tục đi tới tương lai.

Trước đây, tôi có tham dự một buổi hội thảo của các du học sinh với slogan (khẩu hiệu) “I promise I will dream big” (Tôi hứa tôi sẽ mơ những giấc mơ lớn). Và khi mơ lớn thì không ai có thể khẳng định đâu là điều ta có thể và đâu là điều ta không thể, cũng giống như các sinh viên Harvard, Cambridge, MIT không hề có khái niệm “khó” hay “không thể”. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là phải sống ra sao với ước muốn ấy. Theo tôi, phải luôn tỉnh táo và thực tế dù cho đó là ước muốn đi nữa, bởi bạn không thể đặt ra một loạt những ước muốn và ngồi viển vông, mơ mộng chứ không hề hành động. Thế thì hãy sống để làm những điều bình thường, có thể sẽ có ích hơn. Và đây cũng là điều tôi muốn nói: Phải biết phân biệt giữa ước muốn đẹp đẽ cao cả và mơ mộng tầm thường, giả tạo. Bởi khi đã chọn đi theo ước muốn của mình, tức là bạn đã chọn đi con đường đầy gai nhọn trước khi đến được với hoa hồng rồi đấy. Hãy tỉnh táo bạn ạ, mỗi người đều nắm trong tay chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tương lai của mình.

Victor Hugo đã từng nói “chỉ có ước mơ mới giúp ta xây đắp tương lai, chỉ ước mơ mới giúp ta biến những điều không thể hôm nay thành hiện thực ngày mai”. Với tôi, sống là trải rộng đôi cánh để bay tới những chân trời mới, sống là để hành động và yêu thương vì tôi mong luôn nhìn thấy nụ cười của mẹ cha, tôi mong được nhìn thấy và khám phá thế giới tươi đẹp đang vẫy gọi ngoài kia. Vì vậy, đối với tôi không có gì là không thể, dù nghèo khó bệnh tật hay giông tố, tôi vẫn lựa chọn sống theo ước mơ của mình. Bởi hạnh phúc không phải chỉ có ở đích đến, mà nó còn nằm ở nụ cười và giọt nước mắt trên đường ta đi.

Tôi hi vọng rằng những tâm sự của mình sẽ giúp bạn phần nào tìm thấy được cho mình một vì sao trên bầu trời đêm kia. Nếu ai hỏi rằng tại sao tôi không nhắc tới hiện thực về một bộ phận thanh niên đang sống mơ hồ, không mục đích hay đang theo đuổi mơ ước của mình bằng những con đường sai trái, thì tôi xin trả lời rằng tôi có một niềm tin cho những người trẻ chúng ta sẽ làm nên điều khác biệt và cao cả cho dân tộc, dù còn nhiều thiếu sót. Con đường đi đến thành công phải ngay thẳng và chân chính thì mong muốn ấy mới đáng được giữ gìn và trân trọng.

Kết lại, mỗi chúng ta có một sự lựa chọn riêng cho chính mình. Không ai có thể quyết định thay bạn, vì vậy hãy tỉnh táo và thực tế cho dù là sống theo “ước muốn” hay “những điều có thể”. Một điều thú vị là các nhà khoa học đã chứng minh: chúng ta mới chỉ khai thác được 3% đến 4% khả năng của bản thân thôi, nên bạn hãy cân nhắc trước khi đưa ra quyết định nhé!

Câu hỏi học sinh cần làm rõ sau khi đọc bài viết gồm:

  1. Vấn đề cần làm rõ trong bài viết là gì?
  2. Phần giải thích nằm trọng tâm ở vị trí nào trong bài?
  3. Người viết đã chọn những từ nào để giải thích?
  4. Phần giải thích trong bài có sáng rõ, thuyết phục không? Điều đó được tạo nên từ yếu tố nào?
  5. Rèn kĩ năng giải thích cho học sinh giỏi văn trong bài văn nghị luận

Sau khi đã định hình về lí thuyết (khái niệm, mục đích, yêu cầu…) và được tham khảo tư liệu tốt, học sinh cần bắt tay vào thực hành rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận.

Đây là bước rất quan trọng, có vai trò quyết định. Bởi vì nếu chỉ dừng lại ở ý niệm và ý tưởng (như bước 1) thì học sinh mới chỉ phát triển chút ít về tư duy còn trong thực tế, vẫn chưa có thành tựu gì, và tất nhiên bài văn nghị luận vẫn chưa được thành công. Vì vậy, đây chính là khâu trọng yếu cần sự dụng tâm và dụng công của cả thầy và trò. Thầy cần chọn được những đề bài vừa sức, sát đối tượng và lôi cuốn; trò cần nỗ lực, kiên tâm. Đặc biệt, thầy và trò phải kết hợp một cách ăn ý, có sự động viên và tin tưởng lẫn nhau, tạo được hứng thú cho nhau thì mục đích của rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận mới hoàn thành.

Khi đã chọn ra đề bài để thực hành, người thầy cần hướng dẫn và yêu cầu học trò những nội dung cụ thể, tránh lan man sang các thao tác khác, mất kỹ năng trọng tâm.

Trong thực tế, chúng tôi thường yêu cầu học sinh tiến hành tuần tự như sau:

2.1. Tích lũy vốn từ để giải thích các khái niệm, thuật ngữ, từ khóa trong đề văn nghị luận:

Trong các bước rèn kĩ năng giải thích, để có khả năng xử lý tốt việc giải thích các thuật ngữ, khái niệm, từ khóa trong đề văn nghị luận, học sinh cần phải có một quá trình tích lũy vốn từ. Việc tích lũy này sẽ là cơ sở để học sinh có khả năng phát hiện ra những điểm cần giải thích cũng như biết cắt nghĩa các từ ngữ quan trọng. Từ đó, học sinh mới có thể xác định trúng vấn đề cần nghị luận – luận đề của bài văn nghị luận. Để có thể tích lũy vốn từ, học sinh có thể thực hiện các yêu cầu sau:

– Rèn thói quen đọc nhiều, học hỏi từ các sách nghiên cứu về văn hóa, văn học, mĩ học, triết học, sử học…

– Tích lũy các nội dung định nghĩa từ những cuốn từ điển đáng tin cậy

– Rèn thói quen ghi chép các cách dùng từ hay, đắc địa, độc đáo của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ…

– Tham khảo các bài văn nghị luận mẫu mực

Với kiến thức phong phú tích lũy được, các em sẽ có cái nhìn đa chiều, toàn diện, sâu sắc hơn về những vấn đề cần cắt nghĩa, lí giải. Ví dụ: Trong câu nói: “Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện”. Để có thể giải thích một cách toàn vẹn, thấu đáo ý kiến nêu trên, học sinh không chỉ cần huy động các vốn từ về lí luận văn học như: Bản chất của văn học, đối tượng phản ánh của văn học mà còn cần huy động các khái niệm của mĩ học như: thiện – ác, tốt – xấu…Hay trong một câu nói khác: “Thấy người thống khổ khóc than mà bạn có thể làm cho họ khô nước mắt thì đừng để cho mặt trời có đủ thời gian làm khô nước mắt của họ”. Để giải thích ý kiến nêu trên, học sinh không chỉ cần huy động các vốn từ đã tích lũy được trong từ điển mà còn cần huy động vốn từ thuộc chuyên ngành địa lí, vật lí…Trên cơ sở đó mà khái quát lên ý nghĩa của cả câu.

Trên cơ sở đã nêu, chúng tôi sẽ tiến hành cho học sinh huy động vốn từ để thực hành giải thích từ khóa thông qua các bước sau:

2.1.1. Phát hiện từ khóa:

Luận đề thường được ẩn trong các từ ngữ then chốt, các hình ảnh biểu tượng. Vì thế, điều đầu tiên cần làm trong khi rèn kỹ năng giải thích chính là phát hiện chính xác những điểm cần làm rõ trong đề bài. Xác định sai hoặc cắt nghĩa sai đều có thể khiến cả bài nghị luận thất bại.

Để tìm đúng những từ khóa, học sinh cần đọc thật kĩ đề. Có trường hợp phải đọc đi đọc lại nhiều lần, cân nhắc thật kĩ mới không sai lệch. Đây là thao tác nhiều học sinh cho rằng đơn giản nên hay làm sơ sài, qua quýt; thậm chí có những bạn đã rèn để luôn phát hiện chính xác ngay khi tiếp cận đề bài, nhưng rồi chủ quan vẫn có thể nhầm lẫn. Vì thế, học sinh cần thật sự để tâm và tập trung khi đọc, tránh chủ quan.

Tuy nhiên tập trung và thận trọng không có nghĩa là học sinh cẩn thận quá mức, chọn cả những từ thừa dẫn đến phần giải thích dài dòng, lan man, không trúng vấn đề. Ngoài ra còn bị mất thời gian quý giá cho khâu phát hiện từ khóa này.

Để đảm bảo những yêu cầu trên, chỉ có một cách là rèn luyện thật nhiều, cả ở nhà và trên lớp. Chúng tôi thường khống chế thời gian từ 1-2 phút cho 1 đề bài. Cứ 1 ngày, học sinh làm việc với 5 đề bài. Chỉ 1 thời gian ngắn sẽ nhanh chóng tiến bộ.

Ví dụ 2: Trong đề bài sau

     “Cái không đáng khóc bây giờ, ta sẽ khóc mai sau”

(Chế Lan Viên)

     “Rồi có thể sau mười năm ra đi

     Ta lại khóc cho những điều ngày hôm nay chưa biết”

(Chu Minh Khôi)

Suy nghĩ của anh/chị từ thông điệp gửi gắm trong những câu thơ trên!

Học sinh cần phát hiện đúng những từ cần giải thích. Những từ đó bao gồm “khóc”, “bây giờ”, “mai sau”, “không đáng khóc bây giờ”.

Ví dụ 3. Trong đề bài sau

Một cô bé 8 tuổi gửi thư lên tờ The New York Sun hỏi “Ông già Noel có thực không?”, biên tập viên kì cựu của tờ báo đã trả lời bằng một bài báo có tiêu đề: “Ông già Noel có thực!”

Suy nghĩ của anh/ chị từ câu trả lời trên?

Học sinh cần chỉ ra chính xác từ cần giải mã. Đó là “ông già Noel” và “có thực”.

Ví dụ 4. Trong đề bài sau

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “cô đơn là sự tối cần của người viết, nó là điều kiện hàng đầu của nhà văn. Không một người viết hay nào tôi biết mà không cô đơn. Không thần tượng văn chương nào của tôi mà không bị cô đơn giày vò”

Bằng hiểu biết của anh/chị về văn học, hãy bình luận ý kiến trên.

Học sinh cần giải thích từ “cô đơn”, “tối cần”, “người viết hay”, “thần tượng”.

Sau khi đã rèn tốt khâu phát hiện từ khóa, học sinh sẽ chọn hướng giải thích. Đây là bước tiếp theo định hướng để tìm đúng luận đề.

2.1.2. Giải thích từ khóa và rút ra luận đề:

Một từ đôi khi có nhiều lớp nghĩa nên khi đã chọn được từ khóa rồi cũng không hề đơn giản. Cần phải giãi mã chính xác ý nghĩa của từ đó trong đề bài mới có thể đi tới luận đề.

Nhiều khi học sinh suy nghĩ không thấu đáo nên đã cắt nghĩa lệch hướng, dù nghĩa được chỉ ra vẫn nằm trong vùng nghĩa của từ, nhưng đó không phải là nghĩa đích đáng mà đề bài muốn đề cập. Muốn hạn chế sai lệch ở khâu này cần nắm được đề tài chung mà đề đang đề cập. Đó chính là ánh sáng bao trùm lên mọi từ ngữ được sử dụng trong đề bài, cũng là ánh sáng dẫn đường khi chọn hướng giải thích.

Khi đã xác định được ý nghĩa chính của từ khóa trong đề bài, luận đề sẽ trở nên rõ ràng hơn. Bên cạnh đó cũng tránh được sự rườm rà, dài dòng trong lối viết.

Trong tư duy, khâu này diễn ra gần như đồng thời với khâu phát hiện ra từ khóa. Bởi vì phát hiện từ khóa chính là sự lóe sáng của tư duy khi nhận ra ý nghĩa mà từ đó chuyên chở. Khoanh chính xác lớp nghĩa đang lấp lánh trong vùng nghĩa của từ cũng chính là khẳng định được vị trí của từ đó trong đề bài. Tuy nhiên đó là những gì diễn ra trong tư duy, còn trong thực tế thì học sinh cần tiến hành tuần tự: phát hiện từ khóa trước rồi mới phát hiện ý nghĩa và xác định luận đề

Khi luyện tập trên lớp, học sinh chỉ cần gạch chân từ khóa như một cách định vị. Gạch ở ngay trong đề hay viết ra trên giấy nháp tùy theo thói quen. Còn giải mã từ thì nên viết ra giấy nháp, bởi vì khi những nét chữ hiển hiện trên giấy có thể khiến cho học sinh nhìn nhận lại, cân nhắc một lần nữa trước khi quyết định. Cuối cùng là diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng luận đề.

Thời lượng cho khâu này cũng chỉ gói gọn trong 1-2 phút, vì vậy học sinh cần thực hiện nhanh. Muốn vừa nhanh, vừa chính xác, việc cần làm vẫn là nỗ lực làm bài tập. Giáo viên có thể giao cho học sinh bài tập hàng ngày và sát sao chữa tay đôi để học sinh kịp thời sửa. Nếu để học sinh tự làm rồi không có hiệu quả dễ khiến các em nản.

Trước khi giao bài tập, cần có các ví dụ cụ thể cho học sinh.

Ví dụ 5. Với đề bài ở ví dụ 2, có thể cắt nghĩa từ theo hướng sau:

“Khóc”: nuối tiếc, ân hận

Ngày hôm nay”: thời gian hiện tại

Mai sau”, “sau mười năm”: thời gian tương lai

“Ta”:  trong câu thơ là chỉ cá nhân song có thể hiểu rộng với nghĩa con người nói chung.

Cả hai câu thơ đã tập trung thể hiện một thông điệp: Hãy sống hết mình, sống trọn vẹn cho hiện tại để mai sau không phải hối tiếc.

Ví dụ 6. Với đề bài trong ví dụ 3, có thể cắt nghĩa từ quan trọng như sau:

Ông già Noel”: nhân vật huyền thoại xuất hiện trong đêm Noel để tặng quà cho trẻ em, hiện thực hóa mơ ước, khao khát của các em nhỏ. Ông là biểu tượng cho phép nhiệm màu, cho những điều đẹp đẽ của cuộc đời

Câu hỏi của cô bé 8 tuổi biểu hiện sự hoài nghi về sự màu nhiệm, về kì tích và sâu xa hơn là về những điều tốt đẹp trong cuộc đời.

Câu trả lời của biên tập viên đã khẳng định sự tồn tại của những giá trị tốt đẹp

Ví dụ 7. Trong đề bài cho ở ví dụ 4, có thể cắt nghĩa các từ khóa như sau:

cô đơn“: cô độc, đơn lẻ, không người chia sẻ, đồng hành

“tối cần”, “điều kiện hàng đầu”: quan trọng, mang tính quyết định

“người viết hay”-“thần tượng văn chương“: quan hệ tăng tiến, chỉ những nhà văn lớn.

Với kiểu câu khái niệm, cách nói phủ định của phủ định, Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định vai trò của “cô đơn” đối với mỗi người viết. Câu nói đã chỉ ra một đặc trưng quan trọng trong quá trình sáng tạo của nhà văn cũng như yêu cầu khắt khe của hoạt động sáng tạo. Đây là ý kiến hoàn toàn đúng đắn, thuyết phục.

2.2. Thực hành viết đoạn

Sau khi xác định được vấn đề nghị luận, cần bắt tay vào viết hoàn chỉnh phần giải thích. Yêu cầu ở phần này là diễn đạt trong sáng, rõ ràng, cô đọng. Cả đoạn giải thích cần có bố cục hợp lí, lối viết hấp dẫn, lôi cuốn thể hiện được sự sắc sảo trong tư duy và bản lĩnh của người viết.

Một điều cần lưu ý là khâu này tưởng như đơn giản nhưng cũng là một thử thách với học sinh, do đó cần thận trọng lựa chọn từ ngữ, đặt câu để đoạn giải thích có sức thuyết phục.

Thời lượng cho phần này tầm 10-15 phút nhưng dung lượng phải đảm bảo. Học sinh có thể viết nhanh là vì ý tưởng đã rõ ràng, tư duy đã được khai mở thì có thể thăng hoa thành những từ ngữ lấp lánh. Ban đầu học sinh có thể viết chậm, diễn đạt chưa tốt nhưng sau một thời gian luyện tập sẽ thực sự hiệu quả.

Điều quan trọng ở phần này là cần tạo được hứng thú cho học sinh, vì lặp đi lặp lại một thao tác dễ mất hứng thú. Vì vậy, bên cạnh việc chọn được nhiều dạng đề phong phú, hấp dẫn, người thầy còn phải sát sao và tạo được sự lôi cuốn, khiến cho học sinh nhận thấy được sự tiến bộ rõ rệt của mình.

Chúng tôi đã cho học sinh luyện thao tác này qua các bài tập, xin trích đề bài và phần làm việc của học sinh.

Bài tập 1. Viết phần giải thích cho đề bài sau:

Anatole France cho rằng: “Để làm được những điều vĩ đại, không những phải hành động mà còn phải ước mơ, không những phải lập kế hoạch mà còn phải tin tưởng”

Suy nghĩ của anh/chị về quan niệm trên.

Học sinh đã viết đoạn như sau.

“Nhắc tới hai tiếng vĩ đại, ta liên tưởng ngay đến những điều thật lớn lao và khó có thể thực hiện được. Anatole France đã chỉ ra những yếu tố song hành cùng nhau trên con đường hiện thực hóa “điều vĩ đại”: “hành động” và “ước mơ”, “lên kế hoạch” và “tin tưởng”. Nhưng các cặp phạm trù này lại được đặt trong mối quan hệ không cân bằng, mà có xu hướng tăng cấp (“không chỉ” – “mà còn”) để nhấn mạnh hơn “mơ ước”, “tin tưởng” – đều thuộc về tinh thần con người. Nhà văn Pháp đã cho chúng ta thức nhận đúng đắn hơn về tầm quan trọng của “ước mơ” và sự “tin tưởng” – những nhân tố tinh thần so với “hành động”, “kế hoạch” – nhân tố vật chất, “để làm được những điều vĩ đại”.

Mỗi hành động nhỏ của con người đều xuất phát từ một mục đích nhất định. Như vậy, hành trình đi tới những thành công vĩ đại, trước hết cũng phải xuất phát từ một mục đích lớn lao. Nói cách khác, ước mơ chính là yếu tố căn cốt, là cội rễ của hành động cụ thể. Một chuỗi các hành động được sắp xếp theo trật tự để đi tới thành công lại cần có niềm tin lâu dài bên cạnh mơ ước. Chính ước mơ là sinh khí cho hành động, niềm tin là động lực thúc đẩy và đảm bảo một quá trình (kế hoạch) diễn ra liền mạch và đi tới đích”.

Bài tập 2: Viết phần giải thích cho đề bài sau

Chế Lan Viên từng dặn con gái:

“Ta cúi xuống đất

Hí hửng nhặt từng cái kim rơi vụn vặt

Mà để lồng lộng trên cao

Những mùa trái mùa chim bay mất

Những mùa yêu, mùa hạnh phúc bay vèo

(Tu hú có cần đâu)

Cô gái trẻ Thụy Thảo lại bừng tỉnh: “Ta mong với trời cao và biển rộng, mà quên rằng hoa từ đất mà ra” (Với tuổi)

Suy nghĩ của anh/chị về thông điệp được gợi ra từ những quan niệm trên.

Học sinh đã viết đoạn như sau:

“Những câu thơ của Chế Lan Viên và Thụy Thảo gợi lên trong tôi hình dung về hai đối ảnh. Đây là một người đang cúi xuống thật thấp, rạng rỡ, hân hoan với những sự vật, những niềm vui bé mọn như “kim rơi vụn vặt” mà bỏ quên trên lưng là bầu trời với biết bao điều đẹp đẽ, lớn lao – “mùa trái”, “mùa chim”, “mùa yêu”, “mùa hạnh phúc” đang trôi đi vội vã như “bay vèo” . Còn kia lại là một con người trong tư thế đối nghịch: dang rộng tâm hồn như muốn chạm tới tận cùng của “trời xanh, biển rộng”, người ấy phóng tầm mắt lên thinh không mà chẳng mảy may để ý rằng, dưới chân họ, một bông hoa nhỏ bé đang hé nở. Bằng việc sử dụng khéo léo những hình ảnh mang tính chất tượng trưng, cả hai nhà thơ đã cho ta cảm nhận rõ nét về sự đối nghịch mạnh mẽ giữa hai quan niệm sống: hoặc quá chú trọng tới tiểu tiết, hoặc quá mơ mộng viển vông. Nói cách khác, đây cũng chính là mối quan hệ tưởng như đối lập nhưng thực chất là bao chứa, chi phối lẫn nhau của những điều nhỏ bé và những điều lớn lao trong cuộc sống.” Cả hai điều nàyđều có ở trong nhau. Vì thế, hãy biết sống dung hòa, đừng vì điều còn lại mà lãng quên mất điều kia.

Bài tập 3. Viết phần giải thích cho đề bài sau

Có ý kiến cho rằng:

Cái đẹp trong nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống nhưng quan trọng và trực tiếp hơn cả là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ”

Bằng hiểu biết của mình về văn học, anh chị hãy bình luận ý kiến trên.

Học sinh đã viết đoạn giải thích như sau:

Một bông hoa đẹp có thể làm rực sáng một không gian, làm lòng người rạo rực mà thanh thản; một cô gái đẹp, duyên dáng có thể khiến tâm hồn những chàng trai si tình dâng lên một cảm giác bâng khuâng khó tả. “Cái đẹp” trên đời luôn có sức mạnh thật diệu kì. Nó là một phạm trù của mĩ học, bao gồm các giá trị tích cực có khả năng bồi dưỡng, nâng cao tâm hồn, nhận thức, trí tuệ và hành động của con người. Nét chữ đẹp làm nên con người đẹp, tác phẩm văn học “đẹp” tạo nên các nhà văn tên tuổi, các độc giả chân chính, giàu tình yêu thương. Nói đến cái đẹp trong nghệ thuật, người ta sẽ nghĩ đến vẻ đẹp trong hình ảnh, cốt truyện, nội dung,… và thực chất, chúng đều bắt nguồn từ đời sống cả. Chúng gắn bó với đời sống như cây với đất. Cây hút chất dinh dưỡng từ đất, bám chặt vào đất mà lớn lên. Sẽ chẳng có một con quỷ dữ Chí Phèo được xây dựng thành công đến thế, chẳng có một làng Vũ Đại nhốn nháo, đói khổ đến thế trong truyện ngắn của Nam Cao nếu ông không nhìn thấy tình cảnh của người nông dân lúc bấy giờ, trong cái xã hội thối nát và mục ruỗng; sẽ chẳng có một bức tranh thu ở đồng bằng bắc bộ thanh sơ đến tươi mát trong “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến nếu ông không gắn bó cả đời với quê hương và thân thuộc với từng dáng vẻ quê hương. Thực tiễn là cội nguồn của nghệ thuật, nhưng không phải cái quyết định giá trị của tác phẩm,“quan trọng và trực tiếp hơn cả là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ”. “Cái đẹp trong chính người nghệ sĩ” hẳn phải là vẻ đẹp ẩn sâu, kín đáo chứ không như vẻ đẹp của cô gái kia. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn, của một tư tưởng nhân văn, một trí tuệ uyên thâm, một tài năng vượt bậc. Ví như khám phá “Tràng Giang” của Huy Cận, ta phải thấy được nỗi buồn mênh mang của người trí thức trẻ, phải thấy tài năng của ông trong việc sử dụng từ ngữ có sức vang, có khả năng thấm thía bao nỗi niềm vào lòng người đọc. Đó chính là sản phẩm được tạo ra từ vẻ đẹp trong chính con người ông. Vẻ đẹp của tâm hồn và trí tuệ. Với cách diễn đạt thành hai vế, ý kiến trên vừa khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và đời sống, vừa nhấn mạnh vai trò của người nghệ sĩ trong việc sáng tạo cái đẹp. Tất cả những điều ấy mới có thể làm nên sức sống dẻo dai của văn chương muôn đời.”

Bài tập 4. Viết đoạn giải thích cho đề bài sau:

Quá trình sáng tạo là khoảnh khắc lóe sáng của người nghệ sĩ.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

Học sinh đã viết đoạn như sau:

“Thần thoại Hy Lạp cho rằng cảm hứng nghệ thuật – nguồn gốc của sáng tao – nằm ở con suối Castali. Đây là nơi người thường đến để sám hối, rửa tội, cầu phúc; còn văn nghệ sĩ thì uống nước, tắm gội để tìm nguồn cảm hứng thiêng liêng từ nguồn nước được Apolong và các nàng tiên Muydo bảo trợ. Nhưng sáng tác  của người nghệ sĩ liệu có phải chỉ là sản phẩm thần thánh? Không ! Ý kiến trên dường như đã đề xuất một vấn đề đối lập: quá trình sáng tạo là khoảnh khắc lóe sáng của người nghệ sĩ. Theo đó, sự sáng tạo là suối nguồn được khơi từ trong tâm hồn người nghệ sĩ, chính nó cuộn chảy thành dòng chữ, trang văn, trang thơ. “Quá trình sáng tạo” là thời gian người nghệ sĩ sáng tác, sinh thành ra một tác phẩm nghệ thuật. Nó bao gồm nhiều công đoạn: ấn tượng, thai nghén, liên tưởng và viết…để tạo thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Còn “khoảnh khắc” chỉ là một giây lát tức thời, ngắn ngủi và bất ngờ. Đó là giây phút “lóe sáng” – tài năng của người nghệ sĩ được đánh thức, bừng nở và hình thành ý tưởng sáng tạo. Giống như tia chớp “lóe sáng” rực rỡ và chói lọi giữa bầu trời trong chớp mắt, kéo theo những đám mây và những cơn mưa chữ hình thành nên tác phẩm. Phải chăng đó là khoảnh khắc con tim rung động mãnh liệt “hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó” (Alfred de Muset)? Như vậy, có thể thấy ý kiến trên đã khẳng định vị trí quan trọng của tia chớp sáng tạo giúp nhà văn hình thành tác phẩm. Câu nói không phủ nhận lao động nghệ thuật công phu, bền bỉ, tìm kiếm và tích tụ, bởi đó là tiền đề cần thiết – như đám mây tích điện để có thể hình thành tia chớp. Nhưng quan trọng hơn cả là nguồn cảm hứng dâng trào như sao băng rực sáng bầu trời. Đây là ý kiến xác đáng và có sức thuyết phục”.

2.3 Thực hành sửa lỗi:

Sau khi đã viết trọn vẹn phần giải thích, còn một bước cuối cùng vô cùng quan trọng, đó là cần đọc lại và sửa những gì đã viết để bổ sung, hoàn thiện hơn.

Trong thực tế, khi làm bài kiểm tra hoặc bài thi, học sinh không có điều kiện để sửa lại, bổ sung, lược bớt những gì đã viết. Điều đó dễ khiến cho tư duy đứt đoạn, trình bày không sạch đẹp. Tuy nhiên, trong bước đầu rèn kỹ năng giải thích cho học sinh, cần có bước này để học sinh có ý thức hướng tới sự hoàn thiện.

Sau khi đã viết xong, có những khi học sinh đã nhận ra ngay sự thiếu hụt hoặc nhầm lẫn của bản thân. Do đó việc đọc lại và sửa, thậm chí viết lại có thể diễn ra khá dễ dàng. Bổ sung hoặc viết lại xong, đọc lại và đối chiếu giữa đoạn ban đầu và đoạn đã sửa, đôi khi đó là một khoảng cách khá xa. Khoảng cách ấy cũng là sự “lên tay” của người viết, và khiến cho người viết ý thức sâu sắc về yêu cầu của phần giải thích, ý thức nhắc nhở bản thân cần rút kinh nghiệm.

Song song với thao tác sửa chữa, bổ sung hoàn thiện bản đã viết, học sinh có thể tự chấm điểm cho mình trên cơ sở thang điểm giáo viên cung cấp. Điều đó kích thích sự nỗ lực của học sinh để đạt kết quả tốt hơn.

Tuy nhiên, theo quan niệm của người xưa – “văn mình vợ người” – nên nhiều khi việc tự sửa, tự chấm cũng gặp một vài khó khăn. Để khắc phục khó khăn này, có thể đổi bài để học sinh sửa và chấm cho nhau. Như vậy, vừa đảm bảo sự khách quan, vừa để học sinh học tập lẫn nhau, xem bạn để sửa mình.

Ban đầu, giáo viên có thể để học sinh tự sửa theo ý tưởng riêng, sau đó sẽ xây dựng một đáp án và thang điểm chung để làm căn cứ. Sở dĩ trải qua hai bước như vậy là để cho học sinh hiểu rõ những gì cần làm được trong phần giải thích, đo mức độ đáp ứng của mình và nỗ lực hơn.

Trong thực tế giảng dạy, khi tiến hành bước này trên lớp, học sinh hoạt động rất sôi nổi và hứng thú. Đó cũng là bước tích lũy cho học sinh nhiều kinh nghiệm trong rèn kỹ năng giải thích.

Dưới đây là một số bài tập học sinh đã làm, đã viết và đã sửa.

Bài tập 1.  Viết đoạn giải thích cho đề bài sau:

Trong tập thơ “Những con chim bay lạc”, nhà thơ Ta – go viết:

             “Những con chim mùa hè bay lạc

               đến cửa sổ tôi

               để hót lên rồi lại bay đi

               Còn những chiếc lá thu vàng

               không lời ca tiếng hát

               chỉ run rẩy thở dài rơi xuống”

Anh (chị) suy nghĩ gì về thông điệp nêu trên?

Phần viết ban đầu của học sinh:

“Hãy hình dung, nhà thơ đang đứng bên cửa sổ vào một ngày trời thu mát mẻ. Bỗng dưng lại thấy một chú chim mùa hè bay lạc vào đây, đậu bên cửa sổ, hót vang một tiếng rồi lại bay đi. Dù chỉ là một tiếng hót trong vài giây ngắn ngủi thôi nhưng nó đã mang đến cho nhà thơ một niềm vui lớn, một hạnh phúc lớn giữa mùa thu buồn.

             “Những con chim mùa hè bay lạc

               đến cửa sổ tôi

               để hót lên rồi lại bay đi”

Đó là niềm vui thầm kín trong lòng nhà thơ, niểm vui được lan truyền từ cái vui trong tiếng hót thoáng qua của một loài động vật “trái mùa”. Ấy là tinh thần sống lạc quan luôn vui vẻ, sôi nổi, luôn làm đẹp cho đời. Còn những chiếc lá thu vàng, tuy ở ngay trước mặt nhà thơ nhưng im lặng, không lời ca tiếng hát, lại “run rẩy thở dài” yếu ớt. Chiếc lá thu vàng tuy tồn tại trước mặt con người nhiều hơn nhưng chỉ khiến người ta nghĩ đến chết chóc, buồn thương, không có nghị lực. Đoạn thơ là một nhận thức đúng đắn về lẽ sống: con chim, chiếc lá cũng biểu trưng cho loài người chúng ta. Ta sống ngắn hay sống dài, điều đó không quan trọng. Quan trọng hơn cả là cách sống của chúng ta – sống bằng cả niềm nhiệt huyết và tình yêu cuộc sống, là ta đã mang lại cho cuộc sống những gì, làm đẹp cho nó như thế nào”

Học sinh tự chấm đã chỉ ra được những lỗi sau: lỗi diễn đạt trong từ “cái vui“, lặp ý và lặp từ trong hai cụm “tuy ở ngay trước mặt nhà thơ” và “tuy tồn tại trước mặt con người” trong hai câu sát nhau.

Bài tập 2. Viết đoạn giải thích cho đề bài sau:

Đề bài: Lê Đạt từng nhận xét:

“Trong một bài thơ cổ điển, nghĩa thường đến đúng hẹn

Trong một bài thơ hiện đại, nghĩa thường đến trễ giờ”

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

Phần viết ban đầu của học sinh:

“Ý nghĩa của thơ lắng đọng ở bề sâu của trang giấy, giống như “muối” kết tinh ở “ô nề” (Chế Lan Viên). Nó không lộ thiên trên mặt chữ mà ẩn hiện ở những khoảng trống giữa dòng. Lê Đạt đã đưa ra một nhận định không chỉ về ý nghĩa của thơ mà còn thể hiện ý thức trong sáng tạo của một nhà thơ hiện đại. Nhận định đưa ra hai vế cân xứng, đối ứng nhau. “Thơ cổ điển” và “thơ hiện đại” được so sánh trong thế tương quan về “nghĩa“. Một bên “nghĩa” “thường đến đúng hẹn”, một bên “nghĩa” lại “thường đến trễ giờ“. Người xưa đã có câu “Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo” để nói về thơ cổ điển, một thứ thơ mực thước, chuẩn chỉnh về niêm, luật và về cả nội dung – “chí, đạo“. Đọc “Cảm hoài”, “Thuật hoài” của Đặng Dung, Phạm Ngũ Lão ta thấy ngay một khí thế anh hùng vì giang sơn nguyện đem thân chiến đấu. Đọc “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ta thấy ngay một tinh thần dân tộc bất khuất và lòng căm thù giặc sâu sắc. Phải chăng đó là nghĩa (tư tưởng, nội dung) “thường đến đúng hẹn“, đến tức thời ngay khi câu thơ vừa dứt, sáng rõ, tường minh như Lê Đạt đã nói. Trái lại, “thơ hiện đại” mà ở đây cụ thể như thi phẩm của các nhà thơ trong thời kỳ đổi mới văn học – thứ thơ tự do đã thoát khỏi tính quy phạm của niêm, luật, gò bó của tư tưởng thì “nghĩa” thường đến trễ giờ. “Trễ giờ” tức là không đến tức thì mà phải có một khoảng nhất định sau khi bài thơ kết thúc, nghĩa mới từ từ, chậm rãi gọi đến. Nhưng như vậy không phải là thơ hiện đại nghĩa rối rắm và mờ mịt. Nó đến “trễ giờ” vì giống như lớp trầm tích chìm khuất trong trang giấy, mỗi chữ gợi nên cả một vỉa tầng lịch sử ngôn từ. Ý kiến của Lê Đạt là một nhận định sâu sắc. Nó nhấn mạnh và khẳng định một trong những đặc tính nổi bật của thơ hiện đại: sức gợi mở bao la vô tận trong từng con chữ. Ý kiến không chỉ đưa ra một quan niệm về ngữ nghĩa của thơ mà còn đề ra định hướng cho những nhà thơ, người “phu chữ” trong sáng tác, và cả bạn đọc, những người sẽ khám phá, chờ đợi “nghĩa” đến “trễ giờ” ấy.

Học sinh tự chấm và nhận xét: bạn viết rõ ràng, dễ hiểu nhưng đưa hơi nhiều ví dụ sẽ hơi rối rắm.

  1. Một số điều cần chú ý

Mặc dù thao tác giải thích trong bài văn nghị luận có những yêu cầu, cách triển khai và mục đích chung. Nhưng trong quá trình rèn kỹ năng giải thích, cần tùy từng dạng bài, từng đối tượng để áp dụng linh hoạt. Có thể đẩy bước này lên trước, chuyển bước kia xuống dưới cho sát với đối tượng học sinh. Thậm chí với đối tượng học sinh giỏi văn, có thể rút ngắn một số bước hoặc việc tham khảo tư liệu có thể để cho học sinh tự làm việc ở nhà.

Đặc biệt, ở dạng bài nghị luận xã hội và nghị luận văn học cần có hướng giải thích khác nhau. Các từ khóa của đề nghị luận xã hội cần giải mã theo vùng nghĩa xã hội, còn các đề nghị luận văn học lại đọc trong vùng nghĩa nghệ thuật, thẩm mĩ.

Chỉ khi vận dụng linh hoạt mới có thể đạt hiệu quả cao.

 CHƯƠNG III

MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA HỌC SINH GIỎI VĂN TRONG QUÁ TRÌNH RÈN KỸ NĂNG GIẢI THÍCH TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN

Bài viết 1.

“Kẻ vá trời lấp bể

Người đắp lũy xây thành

Ta chỉ là chiếc lá

Việc của mình là xanh”

(Lá xanh – Nguyễn Sĩ Đại)

Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề đặt ra trong bài thơ trên.

Bài làm

Cuộc sống là bức tranh muôn hình vạn vẻ, là bể cạn trời sâu, là góc khuất và ánh sáng. Mỗi người giống như là mảnh ghép trong bức tranh ấy. Chúng ta có thể đứng ở góc khuất, ở trung tâm, nhưng đều cùng mang trong mình một sứ mệnh: làm cho bức tranh ấy càng tràn đầy sức sống, đẹp tươi. Trong bài “Lá xanh”, Nguyễn Sỹ Đại đã viết

Người vá trời lấp bể

Kẻ đắp xây lũy thành

Ta chỉ là chiếc lá

Việc của mình là xanh

Quả là một triết lý sâu xa. Và tôi đã cố gắng để là một chiếc lá thật xanh qua bài viết này.

Thời xưa, các bậc đại hàn nho sĩ thường quan niệm về công và danh gắn liền với chí làm trai. Còn Nguyễn Sỹ Đại, dường như lại gửi gắm trong câu thơ của mình có một thông điệp khác.

“Vá trời lấp bể, đắp lũy xây thành”  là những việc mà người bình thường khó có thể thực hiện được. Nó thuộc về một lực lượng siêu nhiên, về những anh hùng, ở đây dùng để chỉ những việc lớn lao đại sự. “Người, kẻ” tức người khác, người kia. Còn ta, Nguyễn Sỹ Đại nhấn mạnh: “Ta chỉ là chiếc lá“. Mỗi chiếc là là một phần tử của cây xanh, nó chiếm một phần nhỏ thôi nhưng thiếu lá, cây như dòng sông cạn, quanh năm xơ xác. Dùng hình ảnh chiếc lá làm biểu tượng cho con người, Nguyễn Sỹ Đại muốn nói chúng ta không lớn lao như vũ trụ, không vĩ đại như bậc kỳ nhân nhưng chúng ta quan trọng như giọt nước với đại dương, như hạt cát trên sa mạc. Thiếu mỗi cá thể ấy, làm sao có thể cấu thành tổng thể? Người ta sinh ra đã là một phần tử rất nhỏ của xã hội, việc của ta là “xanh – sống hết mình, tỏa ra một ánh sáng riêng đúng với khả năng, thiên chức và cống hiến cho đời. Bốn câu thơ ngắn chứa đựng triết lý sâu xa: sống có ý nghĩa, cống hiến theo thiên chức, làm việc nghĩa cho đời.

Martin Luther King từng nói đại ý nếu là một người phu quét đường, hãy quét những con đường như William Shaskpeare, như rất nhiều những nhà danh tài khác trên thế giới. Cuộc đời tựa một quả cầu, nếu may mắn ta sẽ được đứng ở chỗ đối diện với luồng ánh sáng, nếu không thì đành phải đứng khuất sau góc đường chân trời. Nhưng điều đó không quan trọng, quan trọng là ta đã cháy hết mình như thế nào. Tôi từng đọc một câu chuyện về một anh bạn quét rác ở Mỹ, ngày ngày anh đều dọn sạch con đường trước cổng trường đại học, đều nở một nụ cười thật tươi với các sinh viên, động viên họ bằng một tấm lòng chân thật. Thiết nghĩ, đó là “xanh”. Anh có thể là chiếc lá nhỏ xíu dưới góc tối của tán bạch dương, nhưng hành động của anh đã thúc đẩy dòng máu dồi dào nuôi toàn xã hội. Hơn nữa chúng ta sinh ra đã được hưởng ân huệ của trời đất, được hít hà thứ hương tinh túy của sự sống ngàn đời, nếu ta như hòn gạch sần sùi, hòn gạch ấy phải góp phần dựng xây cuộc sống, nếu ta như chiếc lá yếu ớt, ta vẫn có thể thu vào mình ô xi cho cây quang hợp. Chúng ta là một phần của xã hội này, điều chúng ta cần làm không phải chỉ chú tâm vào việc lớn lao, hãy bắt đầu đóng góp cho sự sống quanh mình từ những điều nhỏ nhất vì đó là nền tảng để xây nên thế giới. Chị Đậu Thị Huyền Trâm, một chiến sỹ công an 25 tuổi bị bệnh ung thư khi đang mang thai đứa con đầu lòng. Có người nói cuộc sống của chị quá ngắn ngủi, chị chưa làm được điều gì vĩ đại cho cuộc sống này. Nhưng với tôi, chị là chiếc lá xanh nhất, là ánh dương đẹp nhất, là người mẹ tuyệt vời nhất khi đã hi sinh bản thân mình để cứu con. Cái chị đóng góp cho đời không phải là một trận chiến với kẻ thù, một phát minh đổi thay thế giới. Cái chị mang đến cho đời là vẻ đẹp của một khúc ca làm người. Bạn có thể mơ rất xa, ước được chạm vào nơi sâu nhất của vũ trụ này, nhưng bạn có biết không, chính những cống hiến nhỏ nhoi mà ý nghĩa lại là biểu hiện đầu tiên để khẳng định giá trị con người. Thanh Hải trước khi ra đi cũng để lại khát vọng:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Hay là khi tóc bạc

Anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” cũng là người như thế. Ta ca ngợi anh ở những thứ lặng thầm ở sâu trong trái tim nhiệt huyết. Anh đẹp lắm, vẻ đẹp nổi rõ giữa đám lá ở một thân cây xù xì. Một màu đỏ có thể vẽ nên một mặt trời, một màu vàng có thể vẽ nên lá mùa thu, một màu hồng làm hoa đào chớm nở, màu trắng tinh khôi ẩn mình dưới lớp tuyết mùa đông. Nhưng gộp lại chúng ta đã có bức tranh đời tươi sáng. Con người cũng vậy, có những việc rất nhỏ nhưng ý nghĩa lại có thể từng bước lay chuyển cuộc đời.

Ý kiến được Nguyễn Sỹ Đại nêu ra là vô cùng đúng đắn và ý nghĩa. Ông không phê phán những đại sự, nhưng lại đề cao việc cống hiến lặng thầm và ý nghĩa. Trong một bài phát biểu của một giáo sư người Nhật phân tích điểm khác biệt giữa người Việt và người Nhật, ông cho rằng, người công nhân Nhật nhìn thấy một cái đinh vít bị rơi họ sẽ nhặt lên cho vào kho, còn người Việt thì không, đó là vấn đề thuộc về ý thức nghề nghiệp. Điều đó lý giải vì sao Nhật lại phát triển như bây giờ. Tôi muốn nói với các bạn rằng, dù chúng ta là ai, chúng ta đứng ở vị trí nào cũng hãy cháy hết mình như ngọn lửa rực cháy trong đêm lần cuối, như hạt phù sa lần cuối cùng nằm lại với đất mẹ yêu thương, là giáo viên thì hết mình với học sinh, là kỹ sư thì hết mình dựng xây vẻ đẹp, là nhà văn, trước khi cầm bút, hãy đảm bảo rằng mình đã sống và sẽ viết hết mình, tấm lòng sẽ trao trọn bể chữ mênh mông.

Nhưng không phải cứ lúc nào cũng là chiếc lá. Ai đó nói rằng “Nếu không có mục đích lớn lao, bạn chẳng thể làm được gì cả”. Mục đích lớn lao là “quê hương” của tài năng. Nhưng cái cốt lõi là phải biết dung hòa giữa bình dị và lớn lao, giữa cái cao siêu và điều nhỏ bé. Đó là trường hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, đến những Obama, Bill Clinton mà ai ai cũng biết. Obama, trên cương vị của một người cha, chưa bao giờ vắng mặt trong buổi họp phụ huynh cho con gái; trên cương vị của một người chồng, chưa bao giờ bỏ mặc người vợ của mình tự xoay xở. Sống cũng như cách điều chế một dung dịch hóa học, nếu không biết cân bằng, nó sẽ nổ tung.

Tôi là một học sinh, một người trẻ, tôi từng mơ đổi thay thế giới như bạn trẻ Dư Hoài trong phim “Tuổi thanh xuân mãi bên nhau” nhưng sau khi đọc câu nói này tôi biết mình cần làm gì. Trước hết là học sinh của một trường chuyên, tôi cần hết mình trong học tập, trong giúp đỡ mẹ cha. Tôi thấy mình như một đám lửa có nhiều tia sáng, tia sáng mạnh nhất tôi sẽ dành trọn ở tương lai, tia sáng xung quanh nó tôi sẽ góp vào để hoàn thành nghĩa vụ trước mắt.

Hôm nay tôi ở xa nhà, trời nắng đẹp, nơi tôi đứng may mắn là không khuất dưới bóng râm, nhưng mỗi người vẫn là một chiếc lá xanh, một dòng nhựa ngọt. Mỗi nỗ lực dù là nhỏ nhất cũng là chất xúc tác hữu hiệu thúc đẩy xã hội đi lên.

Bài viết 2.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cho rằng: Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống.

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng một bài thơ trong chương trình Ngữ Văn 10.

Bài làm

Từng nốt nhạc du dương trầm mặc của Bản Sonate Ánh trăng đều khiến lòng người lặng đi vì xúc động. Phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Quy luật của nghệ thuật nói chung là bắt nguồn từ dòng tình cảm. Thơ ca cũng thế. Nguyễn Đình Thi từng nói “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”.

Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ viết câu thơ bằng chính rung động của mình trước bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống xung quanh. “Thơ” là một thể loại trữ tình dùng ngôn từ, vần và nhịp để biểu thị nội dung. Nguyễn Đình Thi cho thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn, tức thơ dùng để biểu thị, bộc lộ thứ tình cảm sâu kín trong trái tim. Thơ nói hộ trái tim người nghệ sĩ, thơ gảy khúc đàn từ chính rung động của thi nhân. Nhưng phải là tiếng nói “đầu tiên”, “thứ nhất“, tức những rung cảm chợt xuất hiện, chợt nảy sinh khi nhà thơ vừa “đụng chạm tới cuộc sống“. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã đề cập đến đặc trưng cơ bản của thơ: Thơ ca bắt nguồn từ tình cảm, tâm tư và cũng là công cụ để bộc lộ tình cảm mãnh liệt.

Jose Martin cho rằng “thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thơ làm những câu có vần chứ không thể trở thành nhà thơ“. W Goethe thì nói “thơ ca là bùng cháy của trái tim“. Xuất phát từ đặc trưng văn học nói chung là phản ánh đời sống khách quan qua lăng kính chủ quan, qua sự sàng lọc và gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả. Thơ cũng là một thể loại của văn chương và thơ không đứng ngoài quy luật ấy. Thơ phản ánh cuộc sống, ấy là lúc các nhà thơ khám phá cuộc đời, là khi Huy Cận nhìn thời thế mà cất bút lên viết “Tràng Giang” buồn mênh mang, khi Tố Hữu nhớ lại ngày mình được ánh sáng của Đảng chiếu rọi mà viết nên Từ ấy. Nhưng thơ là một thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng là thể hiện tình cảm, là đem sự thật kia vào câu chữ để mỗi chữ vang lên đều như một nốt nhạc thăng hoa từ tình cảm của thi nhân. Người nghệ sĩ đến với thi ca là để được giãi bày. Anh nhìn thấy một cụ già, một em nhỏ, anh thương cho cụ già kia, rạo rực nét ngây thơ của em nhỏ kia. Tình cảm xuất hiện rất nhanh, lần đầu tiên thôi nhưng dâng lên mãnh liệt đến nỗi anh phải dùng thơ mà diễn đạt. Anh bộc lộ cảm xúc của mình về cuộc sống nhưng lại vô tình (hay cố ý) thỏa mãn được nhu cầu khám phá tình cảm, tình người đồng ý tri âm của độc giả khi đến với thơ ca. Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua trái tim người nghệ sĩ và khi đến với người đọc thì nó đã nhuốm máu nhà thơ. Vệt máu ấy đọng lại trong tim người đọc như một vùng sáng, tìm đến trái tim họ để cùng sẻ chia, hàn gắn.

Nếu đến với khoa học vật lý, hóa học, người ta chỉ tìm thấy những định luật, định lý khô khan thì đến với Nguyễn Du, người ta được đau cùng nhân vật và tác giả. Không phải tự nhiên đâu mà Mạc Ngôn, nhà Nobel văn học năm 2012 lại nói “Bạn có thể tìm thấy mọi thứ tôi muốn nói trong tác phẩm của tôi“. Thơ như một ngọn núi cao hiểm hóc nhưng thơ mộng, người đọc không dễ leo lên mà vẫn muốn leo lên để thấy thi nhân đã cảm thế giới như thế nào.

Nếu coi nền văn học Việt Nam là bầu trời đầy sao rực rỡ thì không ít những nhà thơ trung đại là ánh sao sáng rực, chiếm một góc trời. Con người trung đại làm thơ bắt nguồn từ tình cảm, có những thứ tình cảm rất riêng, rất tế vi nhưng vẫn nói được tiếng nói của nhiều kiếp người nơi ấy. Nguyễn Du là một tác gia điển hình. Người đời ca ngợi Nguyễn Du với Truyện Kiều nhưng tôi lại thích một Đại thi hào trong “Độc Tiểu Thanh kí”.

Độc Tiểu Thanh ký là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn thi gia. Sống trong thời đại đầy biến động, nơi số phận con người như thuyền trên nước, trôi nổi bấp bênh, Nguyễn Du lại tìm thấy tập thơ của nàng Tiểu Thanh khi xưa và chẳng ai xui khiến ông tìm về viếng nàng. Chính niềm xót thương đồng cảm ấy – thứ tình cảm đầu tiên nảy sinh ấy đã thành dòng sông cảm hứng để ông viết nên bài thơ này. Nhìn thời thế, nhìn cuộc sống, nhà thơ nghĩ đến sức mạnh của thời gian:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Đọc hai câu đề, bạn có thể nói: Sống lâu như vậy rồi, quan niệm thời gian trong câu này đâu còn là thứ “tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất”. Xin thưa rằng chiêm nghiệm thì đã lâu, nhưng chỉ trong hoàn cảnh viếng nàng Tiểu Thanh này, nỗi sợ mới lên đến đỉnh điểm. Tây Hồ đẹp vậy mà giờ đã hóa gò hoang, điêu tàn, chết chóc. Chữ “tẫn” như ẩn chứa cả sức mạnh hàng vạn năm. Nguyễn Du thốt lên chữ ấy vì ông sợ cái sức mạnh khủng khiếp của thời gian, nỗi sợ phần nào giống với Hồ Xuân Hương “văng vẳng trống canh dồn”. Trước đó cũng có thấy đại thi hào thương cho nàng Kiều nhưng đó là tình thương đối với người trong nước. Ở đây người ta lại gặp một tri âm tiếc thương, cảm thông vượt cả thời gian, xuyên không gian ra ngoài biên giới. Đây chẳng phải là “tiếng nói đầu tiên, thứ nhất” xuất hiện trong tâm khảm thi nhân là gì? Hình ảnh một người với một mảnh giấy bên một song cửa, viếng một người, hai người họ đã là tri âm.

Khi đại thi hào “đụng chạm tới cuộc sống” đâu đâu cũng chỉ thấy bóng người khuất oan, đâu đâu cũng chỉ mang nỗi đau vạn cổ, như trong “Văn tế thập loại chúng sinh” ông thương đứa trẻ mới lọt lòng:

Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế vào ra

U ơ tiếng khóc thiết tha não lòng

Còn ở đây ông thương cho tất cả cái tài, cái đẹp trong xã hội:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Son phấn là ẩn dụ cho người con gái hay sắc đẹp nói chung, văn chương là ẩn dụ cho cái tài nói chung, chúng có “thần chôn vẫn hận“, “không mệnh đốt còn vương”. Bằng nghệ thuật nhân hóa, bằng “con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời“, tấm lòng nhà thơ nhìn thấu con người và sự việc, xoa dịu cả nỗi khắc khoải nhất, oan uổng nhất (xuất phát từ nỗi oan của nàng Tiểu Thanh) để rồi hết lòng trân trọng cái tài, cái đẹp nhưng cũng hết lòng đồng cảm, xót thương. Hai câu thực đối nhau nhưng là đối tương đồng. Tất cả hình ảnh, ngôn từ đều hướng đến bày tỏ nổi lòng của tri âm. Ấy là tâm tư hồn thi sĩ vậy. Tâm hồn như sợi dây đàn, một khi đã rung lên thì ngòi bút tràn trề cảm xúc.

Thương cho người chỉ là một nửa trái tim, nửa còn lại, thi hào thương cho chính bản thân mình:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vân kì oan ngã tự cư

Nỗi oan trời không biết đất không hay, đó là cái nỗi oan gì vậy? Tự nhận mình là “ngã tự cư“, một kẻ cùng hội cùng thuyền với những người bất hạnh ấy, phải chăng Nguyễn Du đang rất đau. Lần đầu tiên người ta thấy được lời than trực tiếp cho cái tôi của mình trong văn học, quả là một ngòi bút đi trước thời đại. Trong ca dao cũng có “thân em“, “thân cò” nhưng biết thân ấy là ai. Nguyễn Du đã thật sự dùng thơ làm tiếng nói tâm hồn nên thậm chí còn dám xưng danh bằng một câu hỏi:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Nguyễn Du cá tính như Hồ Xuân Hương vậy:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Nhưng tình cảm của nhà thơ không giống “ba trăm năm nữa” chỉ là con số tưởng tượng. Ba trăm năm hay vài thế kỷ nữa trôi qua, trong tương lai, có ai còn khóc cho ông như ông đang khóc nàng Tiểu Thanh, có ai còn nhớ đến cái tên Tố Như không? Xuân Hương xưng danh để khao khát, Nguyễn Du xưng danh cũng để khao khát nhưng khi kết hợp với câu hỏi tu từ thì lại có phần khắc khoải, mơ hồ, bất lực. Hỏi chỉ để hỏi thôi, hỏi nhưng chẳng có lời nào vọng lại. Đọc đến câu thơ này, tiếng nói của tâm hồn nhà thơ đã được bộc bạch rõ. Đụng tới nỗi đau của mình và của mọi kiếp người trong cuộc sống, lòng nhà thơ đã rung, tay nhà thơ đã viết, những câu từ như lời nói phát ra từ cổ họng, tự kêu, tự thương, tự mơ ước cho chính mình. Dấu chấm câu kết thúc, người đọc vẫn thấy dư vang của một thời – cái cuộc sống mà thi nhân đã đụng chạm, đã nằm trong đó, đã bị cái gai của cuộc sống cắm vào. Nhưng dư âm càng sâu hơn nữa đó là sự trân trọng với tác giả, cái tài và cái đẹp, đồng thời đồng cảm, thương xót, ước mơ. Và câu hỏi xưa của cụ Nguyễn, ngày nay đã có nhiều lời đáp lại. Georges Baudard – nhà văn nước ngoài từng nói “Trên thế giới không có nhà văn nào để lại chấn động mạnh mẽ đến nhân dân nước mình như Nguyễn Du ở Việt Nam“. Đúng vậy, người ta yêu Nguyễn Du là yêu một tâm hồn, một tài năng biểu đạt tâm hồn xứng là bậc thầy của dân tộc.

Ý kiến mà Nguyễn Đình Thi đưa ra là hoàn toàn đúng đắn và ý nghĩa. Nó đúng không chỉ với Nguyễn Du mà còn đúng với rất nhiều nhà thơ trung đại khác. Ta được thấy thái độ chống lại số phận của Hồ Xuân Hương, thấy tấm lòng yêu thiên nhiên và tấc dạ ưu thời mẫn thế của Nguyễn Trãi trong “Cảnh ngày hè“. Đến văn học hiện đại, ta lại cảm nhận được không khí rầm rộ, rộn ràng của các nhà thơ kháng chiến, thấy thái độ hào hứng của Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, của Tố Hữu trong “Từ Ấy“, của Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu”. Và không chỉ trong thơ, trong văn, bất kỳ môn nghệ thuật nào cũng cần tình cảm. Tôi từng đắm say bức tranh “Bữa ăn tối cuối cùng” của Leonardo De Vinci. Tôi thấy ở đó một tình thương vô ngần của đạo, và của chính nhà họa sĩ.

Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một ngọn hải đăng cho các thi sĩ chèo thuyền về đúng hướng. Những ai đang viết thơ, hãy viết chúng bằng cả tấm lòng mình, hãy huy động tất cả vẻ đẹp của tâm hồn và dòng máu vào trang viết, để người đọc khi đến với tác phẩm cũng phải sống hết mình với nó, khám phá nó như tìm đường đến với ngọn hải đăng giữa biển khơi. Có vậy lịch sử văn chương mới thực sự đi lên bền vững.

Nền văn học vẫn chảy trôi và phát triển, thi ca muôn đời vẫn là lãnh địa của cảm xúc và trái tim khi nhà thơ lấy chúng ra từ hiện thực. Tôi đắm mình trong đó và tôi nghĩ mình đã đạt đến một mức nào đó đòi hỏi của người đọc thơ: yêu và khám phá.

 KẾT LUẬN

Rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi văn là khâu cần thiết, quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng và chất lượng dạy học nói chung. Tập trung rèn tốt khâu này sẽ góp phần phát triển tư duy, đem lại sự thuyết phục cho bài văn nghị luận. Ý thức được điều đó, chúng tôi đã nỗ lực thực hiện, trong cả một quá trình và bước đầu có những kết quả đáng kể. Chúng tôi mạnh dạn chia sẻ những gì đã làm được với các quý đồng nghiệp xa gần để có thể trao đổi, rút kinh nghiệm.

Phần trình bày của chúng tôi, dù đã rất cố gắng, chắc chắn không tránh khỏi hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.

MỤC LỤC THAM KHẢO

  1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003
  2. Nguyễn Văn Bảo, Thành ngữ cách ngôn gốc Hán, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.
  3. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục. 2003
  4. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại, NXB Thuận Hóa, 2010.
  5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, 2005.
  6. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học…gần và xa, NXB Giáo dục, 2006.
  7. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1994.
  8. Phương Lựu, Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, NXB văn học, 2001.
  9. Phương Lựu, Trần Đình Sử (chủ biên), Lí luận văn học – tập 1, tập 2, tập 3, NXB Đại học sư phạm, 2009.
  10. Nguyễn Đăng Mạnh, Muốn viết bài văn hay, NXB Giáo dục, 1992.
  11. Nguyễn Đăng Mạnh, Văn bồi dưỡng học sinh giỏi phổ thông, NXB Giáo dục, 1996.
  12. Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (đồng chủ biên), Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam (dùng trong nhà trường), NXB Giáo dục, 2012.
  13. Trần Quang Minh, 150 bài tập rèn kĩ năng viết đoạn văn, NXB Giáo dục, 1990.
  14. Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân (biên dịch), Cổ học tinh hoa, NXB Thời đại, 2010.
  15. Phạm Xuân Nguyên, Những giá trị của sáng tạo và nhân văn (Báo cáo tổng kết giải thưởng văn học 2011 của Hội Nhà văn Hà Nội), nguồn: phongdiep.net.
  16. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Tài liệu chuyên văn ba tập, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012.
  17. Nhiều tác giả, Tuyển tập những bài làm văn đạt giải Quốc gia, NXB Giáo dục, 2006.
  18. Nhiều tác giả, Tuyển tập những bài làm văn đạt giải quốc gia từ 2004 – 2014, NXB Giáo dục, 2015.
  19. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004.
  20. Những bài viết của học sinh giỏi văn trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *