Nghị luận ý kiến:Truyện có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn

Bài văn mẫu HSG

Đề bài.

Khái quát về thể loại truyện sách giáo khoa Ngữ Văn 11. “Truyện có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Làm sáng tỏ qua việc phân tích hai truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” và “Chữ Người Tử Tù”.

Bài làm

Nhà văn nổi tiếng sô lê khốp từng tâm đắc, “đối với con người sự thực đôi khi nghiệt ngã nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai”. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người. Không chỉ riêng sôlôkhôp, mà những người cầm bút muốn trở thành một nhà văn thực thụ, cũng cần phải thế, phải tạo ra những trang văn mà như những trang đời, những dòng ký thác tâm sự từ sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Truyện là một thể loại tự sự, nhà văn làm được điều đó nó có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người. Truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân là hai tác phẩm tiêu biểu như thế.

Truyện là một thể loại tiêu biểu cho tự sự thường có cốt truyện, nhân vật, lời kể chuyện như là một bức tranh đời sống sinh động, nhưng khám phá ra vẻ đẹp của bức tranh đó ta sẽ rút ra được một chân lý nhân sinh sâu sắc ở đời. Bởi thế mà chuyện có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn, tức là qua lăng kính của nhà văn hiện thực đời sống được tái hiện vào trong chuyện một cách chân thực, khách quan nhưng không có nghĩa là sao chép theo y nguyên mà có chọn lọc tỉ mỉ. Thế nên cuộc sống rộng lớn đến mấy khi được nhà văn phản ánh trong truyện cũng giống như một thế giới thu nhỏ. Truyện toàn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người. Đối tượng mà văn học cũng như truyện ngắn muốn hướng đến là con người, vì vậy chức năng của thể loại này là khắc họa rõ nét không chỉ là vẻ bề ngoài nhưng ngoại hình, tính cách mà cả bên trong tâm hồn là những diễn biến tâm trạng tinh vi của nhân vật. Như vậy ý kiến trên muốn nêu ra đặc trưng cơ bản của thể loại truyện là phơi bày hiện thực cuộc sống, dù là nó xấu xa hay tốt đẹp, để từ đó làm nổi lên những số phận cùng với những dòng chảy tâm trạng trong tâm hồn họ khi sống trong một hoàn cảnh như vậy.

Nhà văn Banlzao từng nói “Nhà văn là thư kí trung thành của thời đại”, thiên chức của họ là nhìn nhận và phản ánh cuộc sống trong tính khách quan của nó vào trong truyện. Truyện phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện con người vào trong truyện một cách thụ động giản đơn. Một tác phẩm truyện thật sự đặc sắc phải là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh động thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc hướng tới bản chất của đời sống xã hội con người. Không những thế những biến cố sự kiện xảy ra liên tiếp tạo nên sự vận động của hiện thực được phản ánh còn phải góp phần khắc họa rõ nét tính cách các nhân vật và số phận từng cá nhân. Bởi lẽ “văn học là nhân học” (Gorki). Lý con người làm đối tượng miêu tả chủ yếu nhà văn có được một điểm để nhìn ra toàn thế giới. Thế nên nhà văn bao giờ cũng miêu tả nhân vật chi tiết và sinh động trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh có khi đi sâu vào tìm tòi và khai thác những chuyển biến nhẹ nhàng mà tinh vi trong tâm hồn họ. Ta thấy rõ những rung động mong manh, mơ hồ như cánh bướm non trong tâm khảm Liên, thấy được cái quần quại, đau đớn rằng sé mâu thuẫn trong tâm can Chí Phèo, hay luôn ám ảnh bởi bức tranh toàn cảnh đời sống Việt Nam trước Cách mạng đến nhếch nhác, tiêu điều. Ta cảm nhận rất rõ những điều ấy qua hai truyện ngắn “Chí Phèo” và “hai đứa trẻ”.

Tuy khác nhau về khuynh hướng sáng tác nhưng cả Nam Cao và Thạch Lam đều có chung một quan điểm đó là đều hướng ngòi bút của mình đến thứ văn chương vị nhân sinh. Với một quan điểm nghệ thuật tiến bộ, Nam Cao muốn văn học phải là sự thật ở đời. Bởi lẽ nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ là những đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than kia. Con Thạch Lam lại quan niệm “với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát thoát li hay sự quên lãng, trái lại văn chương là một thứ khi giới thành cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trở nên trong sạch và phong phú hơn. Tuy là vậy hai nhà văn vẫn sáng tạo ra những thiên truyện hướng người đọc vào thực tại cuộc sống, đều có khuynh hướng nội tâm đi sâu vào thế giới tinh thần con người. Truyện ngắn “hai đứa trẻ” và “Chí Phèo”, chính là một minh chứng điển hình cho những nét tương đồng này của hai nhà văn.

Trước hết đến với “hai đứa trẻ” của Thạch Lam nhà văn đã khái quát thật đầy đủ cái tăm tối chật hẹp của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 qua bức tranh Phố huyện. Câu chuyện mở ra bằng khung cảnh một buổi chiều tà gợi buồn “Chiều, chiều rồi”. Nhịp điệu của Văn chầm chậm, đều đều nghe như một tiếng thảng thốt, thở dài. Bức tranh chiều quê có sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc, âm thanh, đường nét đẹp là thế nhưng sao vẫn cứ đượm buồn. Buổi chiều được gợi ra trước hết là tiếng trống thu không, từng tiếng một văng ra để gọi buổi chiều. Nhịp trống khô khan, mà chậm rãi như điểm vào nhịp bước đi của thời gian. Có tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng tiếng muỗi vo ve trong gian hàng. Không hề có âm thanh của sự sống con người, mà tất cả những âm thanh nghe thấy không hề náo động mà chỉ càng làm tô đậm thêm cái yên lặng, vắng vẻ của một Phố huyện trong cảnh chiều tàn. Cùng với sự yên ắng đó trên bầu trời là “phương tây đỏ rực như lửa cháy những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn”. Bức tranh có sắc đỏ rực của mặt trời, nhưng không mang đến cho người đọc cảm giác ấm áp, mà chỉ gợi lên sự vội vã đến não ruột của cảnh ngày sắp hết. Cảnh chiều quê hiện lên với nhiều nét vẽ, nhưng cũng đủ thấm sâu vào lòng ta một nỗi buồn bâng khuâng, man mát, mơ hồ. Trong một đoạn văn ngắn mà chỉ có 5 từ chiều, 2 từ buồn, cùng với nhịp điệu của văn chậm rãi, thong thả ru hồn người. Thạch Lam đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mà ngay từ đầu đã tạo nên không khí trầm buồn, hắt hiu cho toàn thiên chuyện.

Đặc biệt hơn Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên tất cả bộ mặt của Phố huyện này. Nói đến chợ người ta thường nghĩ ngay đến một nơi đông vui, tấp nập, nó là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, là nơi biểu hiện thuần ohong mỹ tục. Ấy vậy mà Thạch Lam đã khéo léo tả cảnh chợ tàn ngày phiên để nói hết cái xơ xác, tiêu điều của Phố huyện. Chợ tàn người về hết và tiếng ồn ào cũng mất trên đất chỉ còn rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị lá nhãn, lá mía. Mặc dù thế nhưng lũ trẻ vẫn cố bọn nó trong đám phế thải đó cái gì còn sót lại có thể dùng được. Mùi vị tỏa ra từ khung cảnh ấy là mùi của rác rưởi, cỏ cây, một mùi ẩm ẩm, ngai ngái. Đó là thứ mùi rất đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn, nó đã góp phần làm bức tranh Phố huyện thêm xơ xác, tàn tạ, tiêu điều và héo Úa. Không chỉ dừng lại ở đó Phố huyện hiện lên đến ám ảnh và tù túng hơn khi bóng tối dần ngữ trị bao trùm. Thạch Lam đã sử dụng tại tỉnh nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, để diễn tả hết sự sự ngột ngạt ấy. Phố huyện về đêm bao trùm bởi một màn đêm đen thăm thẳm. “Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”. Tôi hết cả con đường thăm thẳm ra sông con đường qua nhà chị về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. Trong khi bóng tối bao trùm đen đặt mênh mông thì ánh sáng lại rất nhỏ nhoi leo lét yếu ớt không đủ soi rõ cuộc sống xung quanh. Đó chỉ là những khe sáng hột sáng, vệt sáng của ngàn sao trên trời, của con đom đóm lập lòe, của ngọn đèn chị tí. Sự chênh lệch đối lập giữa ánh sáng và bóng tối đã thể hiện sự ám ảnh về một cuộc sống ngột ngạt, tù túng không lối thoát. Không khí ấy cũng là không khí của xã hội Việt Nam trước Cách mạng.

Trên cái này lấy những cảnh đời, những con người chứng nhân của cuộc sống nghèo nàn đơn điệu hiện lên thật ám ảnh. Thạch Lam đã đi sâu vào nỗi khổ của từng mảnh đời ấy rất cụ thể đến nỗi ám ảnh bạn đọc. Điển hình cho những kiếp người đó là mẹ con chị tí với nhịp sống quẩn quanh, ngày mở cua bắt ốc, đêm đến lại dọn hàng nước ra gốc cây để bán. Nhưng cái đáng sợ là dẫu biết sớm hay muộn có ăn thua gì mà chị vẫn dọn. Đây không phải là cuộc sống thật sự mà lên sự giao tranh, cầm chừng với sự sống. Bà cụ Thi điên một hình ảnh đầy sức ám ảnh với giáng đi lảo đảo, và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Phải chăng đó là hình ảnh của một cuộc sống mòn mỏi người điên, người thi còn đó những đời đã tàn quá nửa. Đó còn là bác siêu với gánh phở của mình, hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Nhưng ở nơi Phố huyện ngày này phở trở thành một thứ quá xa xỉ, nên nguy cơ ế càng cao. Gia đình bác xẩm dung lời ca tiếng hát để kiếm sống, nhưng ở cái Phố huyện nghèo này cái ăn còn khó kiếm thì lấy đâu tiền để thưởng thức âm nhạc. Thế nên cái đói luôn rình rập qua gia đình bác. Cuối cùng là chị em Liên được, Mẹ giao cho một quán hàng nhỏ ngày ngày trông coi, rồi tối đến lại dọn hàng đợi mẹ ra kiểm tra. Cuộc sống cứ lập, đi lập lại như thế cứ như một điệp khúc vậy. Hai chị em Liên sống trong cuộc sống tù đọng ấy, như hai mầm cây non đang dần héo mòn. Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa sút, tiêu điều, chỉ một xã hội đang nổi váng lên. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động, trong thiên truyện ý tưởng “tòa Nhị Kiều” của Xuân Diệu. Họ thực sự là những con người sống cuộc đời tẻ nhạt, như tàu không đổi chuyến.

Từ những mảnh đời thường nhật những nhịp sống quen nhàm bình lặng đó Thạch Lam còn muốn đi sâu hơn vào tâm tư của họ để thấu hiểu và cảm thông hơn cho nỗi buồn của con người. Vì lẽ đó mà nhà văn đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật liên, để khai thác những rung động mong manh, mơ hồ, như cánh bướm non trong tâm hồn cô bé. Bằng ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã diễn tả thật khéo léo cái nỗi buồn man mát của Liên trước giờ khắc ngày tàn. Trong cái khoảnh khắc của ngày tàn Liên ngồi im lặng trong bóng tối, trong mắt Liên bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên cảm nhận được cái ảm đạm của buổi chiều quê, cảm nhận được cái hương vị riêng trong cái mũi của đất, mùi riêng của quê hương này. Liên động lòng trắc ẩn để thương xót đồng cảm cho lũ trẻ con nhà nghèo, nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng. Từ nỗi buồn man mác trước cảnh ngày tàn, nỗi buồn lan tràn thấm thía ra cả cuộc sống của những kiếp người xung quanh. Liên chia sẻ với mẹ con chị tí bằng sự thấu hiểu của cuộc sống nhạt nhòa, quanh quẩn. Chia sẻ với sự ê ẩm của gánh phở Bắc siêu, gánh đi gánh về gợi một cuộc sống buồn tẻ. Liên thương xót sợ hãi trước tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên và còn buồn hơn khi cảm nhận được sự tẻ nhạt của chính cuộc đời mình. Chính sự nhận thức đó đã đánh thức tâm hồn Liên, khao khát một sự đổi thay, khao khát về một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Hình ảnh đoàn tàu chính là niềm mơ ước không chỉ của riêng Liên, mà cả người dân nơi Phố huyện về một tương lai tươi sáng hơn. Nhà văn đã ghi lại từng khoảnh khắc, tâm trạng khi tàu sắp đến, đến và rồi đi qua.

Khi tàu sắp đến chị em Liên háo hức chờ đợi anh dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố dặn chị “Khi nào tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Lúc đầu đến cũng kéo theo bao tâm trạng vui sướng náo nức của hai chị em Liên. Đoàn tàu với những toa hạng trên sang trọng, như mang cả một thế giới khác đi qua. Bởi nó là đoàn tàu từ Hà Nội về từ nơi mà hai chị em Liên đã có biết bao kỉ niệm vui buồn được đi chơi được uống những cốc nước xanh đỏ bên bờ hồ. Có lẽ vì thế mà khi tàu đã khuất rồi mà vẫn để lại trong lòng liên một nỗi buồn bâng khuâng, một niềm tiếc nuối vô hạn. Qua tâm trạng đợi tàu, Thạch Lam muốn lay tỉnh những con người đang sống trong buồn chán, quấn quanh, bế tắc hãy vươn lên để có một cuộc sống tươi sáng hơn. Đồng thời cũng lên tiếng tố cáo xã hội đã vùi dập đẩy con người vào cuộc sống tăm tối, nhất là trẻ thơ.

Để tái hiện thành công hiện thực cuộc sống, miêu tả rõ nét những chuyển biến tinh vi trong tâm hồn con người, Thạch Lam đã vận dụng bút pháp lãng mạn, xen lẫn hiện thực một cách tài tình. Cách dựng chuyện độc đáo, thư pháp đối lập, tương phản cùng lời văn nhẹ nhàng thấm đẫm cảm xúc… tất cả đã làm nên một thiên truyện tâm tình, bất hủ.

Nếu như ở “hai đứa trẻ” Thạch Lam góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm, bình lặng, những đốm sáng lẩn quẩn, leo lét trong bóng tối tĩnh mịch, để làm nên bức tranh hiện thực khó quên, thì ở “Chí Phèo” lại khác. Nam Cao đã đi sâu vào những mâu thuẫn xung đột gay gắt, những số phận bi thảm để dựng nên hình ảnh làng Vũ Đại, bức tranh thu nhỏ của người nông thôn Việt Nam trước Cách mạng.

Toàn bộ thiên chuyện diễn ra ở làng vũ đại, một làng nhỏ nhưng có tôn ti, trật tự nghiêm ngặt. Nam Cao đã phát hiện bên trong ngôi làng tưởng chừng yên bình này là những mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt. Trước hết là mâu thuẫn giữa bọn cường hào, ác bá với những người nông dân. Đám cường hào ác bá giống như một đàn cá tranh nhau miếng mồi béo bở, đó là đất đai, mồ hôi, công sức của nhân dân. Chúng bóc lột người dân bằng sưu cao, thuế nặng, bằng lệ phí kiện tụng bằng đủ thứ mưu mẹo. Đời sống nhân dân khổ cực bị đẩy đến bước đường cùng, không lối thoát. Điển hình là giữa Bá Kiến và Chí Phèo. Ngoài ra còn tồn tại mâu thuẫn trong nội bộ bọn cường hào ác bá, một mặt chúng đoàn kết lại với nhau để bóc lột nhân dân, một mặt lại ngấm ngầm tìm chỗ hở để trị nhau. Mâu thuẫn này tưởng chừng như không liên quan đến người nông dân, nhưng chính nó lại tạo ra những bi kịch như Chí Phèo, Bình chức, năm Thọ. Bằng những mâu thuẫn gay gắt thấm đẫm mà quyết liệt Nam Cao đã tạo ra được một không khí tăm tối, ngột ngàn, tù túng nơi Làng Vũ Đại. Đó cũng là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng Tháng 8. Cái xã hội thối nát đó đã bóp nát nhào nặng bộ mặt lương thiện của con người dân nơi đây, biến Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành trở thành một kẻ bại hoại vô nhân tính.

Như một thước phim quay chậm, Nam Cao đã từ từ làm hiện ra trước mắt ta cuộc đời đáng thương của Chí Phèo mà nhà văn đã đi sâu vào tìm hiểu và khám phá. Cuộc đời Chí Phèo được phác họa lại đầy đủ chi tiết, từ lai lịch Chí Phèo là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ khi mới sinh ra một anh đi thả ông Lươn về nhặt được, Chí Phèo trần truồng và xám ngắt bên cái lò gạch bỏ không. Bao trùm lên cuộc đời Chí Phèo là một con số không tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không họ hàng thân thiết, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi. Tuổi thơ của Chí Phèo chuyển nuôi từ tay người này đến tay người khác. Lớn lên Chí Phèo đi làm thuê để kiếm sống, năm 20 tuổi Chí Phèo làm canh điện cho nhà Bá Kiến. Khi ấy Chí Phèo vẫn còn là một anh nông dân lương thiện và có lòng tự trọng Chí Phèo biết phân biệt giữa tình yêu với thói dâm dục tầm thường. “20 tuổi người ta không hoàn toàn là đá cũng không hoàn toàn là xác thịt”. Bị bà ba gọi lên bóp chân hắn chỉ thấy nhục chứ sung sướng gì, Chí Phèo còn có một ước mơ giản dị và vô cùng đẹp đẽ nhưng sống trong xã hội tàn ác ấy Chí Phèo đã không thực hiện được ước mơ của mình. Vì một sự ghen tuông vô cớ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù tội. Nhà tù thực dân đã bóp nát Ước mơ của Chí Phèo khi đang còn trứng nước, biến Chí Phèo thành một người khác hẳn.

Sau 7, 8 năm ra tù chí trở về làng nhưng chẳng ai nhận ra hắn nữa. Chí Phèo đã thay đổi hoàn toàn cá nhân hình lẫn nhân tính. Nhà tù thực dân đã cướp đi một mặt lương thiện của Chí Phèo, giờ đây Hắn giống như một thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất câng câng, hai mắt Gườm gườm trông gớm chết. Chỉ mang bộ mặt của một tên du côn tên lưu manh ngay cả nhân tính cũng biến dạng. Hắn không còn là anh canh điền hiền lành như ngày xưa nữa mà ngày đêm triền miên trong cơn say. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi bới cũng khi còn say men rượu. Không những thế hắn toàn trở thành tay sai đắc lực, trở thành công cụ đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Hắn sống bằng máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện, trượt dài trên con đường tha hóa, Chí Phèo giờ đây đã trở thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại, hắn đã bị đánh bật ra khỏi thế giới loài người. Bao nhiêu uất ức bi phận dường như rổ ném cả vào trong tiếng chửi Chí Phèo, chửi đời, chửi tất cả làng vũ đại, chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này. Giá như có ai đáp lại hắn thì hắn còn được làm con người. Nhưng đáp lại hắn chỉ có tiếng chó sủa, chỉ một chi tiết này thôi Nam Cao đã chỉ ra sự bế tắc, cùng quẫn của một kẻ như Chí Phèo thực sự đã bị gạt ra bên lề cuộc sống. Nhà văn đã thể hiện được tình trạng con người bị đẩy vào một nỗi cô đơn khủng khiếp.

Nhưng Thị Nở xuất hiện giống như một khối Thơ mộc nhưng đối với Chí Phèo lại như một vị thần cứu rỗi đời chí. Đến đây Nam Cao đã thật sự hóa thân vào Chí Phèo đi sâu vào trong tâm tư từng cung bậc cảm xúc đang giày xé trong Chí Phèo, để nói lên hết những đau khổ tột cùng. Sau đêm gặp Thị Nở Chí Phèo dường như trở thành một con người khác hẳn. Phải chăng lương thiện đang trên đường trở về. Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say dài và đây là lần đầu tiên hắn hết say Chí Phèo thấy lòng mình mơ hồ, buồn. Chí Phèo hoàn toàn tỉnh táo và nhận thức được cuộc đời mình cả trong quá khứ hiện tại và tương lai. Nghe những âm thanh quen thuộc ngoài kia mà lòng mơ hồ buồn. Đó là tiếng chim hót tiếng Anh Thuyền Chài gõ mái đuổi cá tiếng, người đàn bà đi chợ về. Những âm thanh đó ngày nào cũng có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì giờ hắn mới hết say. Hình như ngày xưa hắn đã có một ước mơ nho nhỏ “chồng cày thuê cuốc Mướn Vợ dệt vải kha khá thì mua dăm ba sào ruộng để làm”. Ước mơ Sao mà giản dị đến thế Nhưng giờ đây đã muộn vì hắn đã đến bên kia cái dốc của cuộc đời. hắn già rồi mới thấy mình cô độc và đói rét, ốm đau, bệnh tật không đáng sợ bằng cô độc. Như vậy với sự trở lại và khả năng nhận thức ngoại giới nhận thức chính mình cũng như tình cảm cảm xúc rất con người. Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh để trở về kiếp người.

Khi Thị Nở mang bát cháo hành tới, Chí Phèo từ ngạc nhiên xúc động. Tôi khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc. Ban đầu chí phèo hết sức ngạc nhiên và xúc động hắn thấy mắt mình ươn ướt. Bởi Đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho lần đầu tiên hắn được một sự chăm sóc từ một người đàn bà. Bát cháo hành giống như một liều thuốc giải độc giúp Chí Phèo cởi bỏ hết lối quỷ để trở về với bản chất của anh canh điền lương thiện. Trước tình cảm yêu thương chân thành của Thị Nở Chí Phèo đã khao khát hoàn lương, hắn thèm lương thiện, chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Cánh cửa trở về làm người lương thiện vừa mở ra bỗng chốc đóng sập lại. Bởi Thị Nở không thể giúp hắn. Sự việc đến với hắn quá bất ngờ làm cho Chí Phèo ngạc nhiên rồi thất vọng. Thất vọng nhưng chưa tuyệt vọng bởi Hắn như khi thấy hơi cháo hành. Hắn đuổi theo nắm lấy tay Thị Nở như nỗ lực cuối cùng để níu giữ phần hoàn lương ở lại. Những Thị Nở tàn nhẫn rũ bỏ hắn, để hắn rơi vào hố sâu bi kịch. Trong cơn vật vã đau đớn Chí Phèo xách dao đi đến nhà Thị Nở để giết chết bà cô Thị. Uất ức dồn nén đã đẩy bước chân chí đến nhà Bá Kiến giết chết hắn và cũng kết liễu đời mình. Câu nói cuối cùng của Chí Phèo “ai cho tao lương thiện, tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Đó là câu nói tỉnh táo nhất thành thục nhất của Chí Phèo bởi lúc này Chí Phèo đã nhận ra ý nghĩa lớn nhất của cuộc đời mình là được sống đúng nghĩa là con người lương thiện. Câu nói này cũng có ý nghĩa tố cáo xã hội bất công lúc bấy giờ, xã hội đã bóp nghẹt quyền sống và tước đoạt mọi khát vọng của con người. Bá kiến chết đi Chí Phèo tự tử cái kết, cục ấy cho thấy mối xung đột gay gắt quyết liệt của nông dân Việt Nam trước Cách Mạng Tháng 8. Qua đó tác giả vừa chỉ ra một chân lý Giản Dị của cuộc sống “Tức nước vỡ bờ”. Vừa lên tiếng bênh vực đòi quyền sống quyền làm người lương thiện cho người dân nghèo.

Chí Phèo đã thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao, xây dựng thành công những nhân vật đến điển hình, bất hủ, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn rất nhất quán, chặt chẽ ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc.

Qua truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao ta thấy rõ đặc trưng của thể loại truyện ngắn, đồng thời cũng đưa ra một yêu cầu cho người sáng tác truyện. Đó là một tác phẩm truyện chỉ thực sự có giá trị khi ẩn chứa đằng sau từng câu, từng chữ, là cả một bức tranh hiện thực đời sống cả một chuỗi tâm trạng nhiều cung bậc khác nhau của mỗi nhân vật. Hơn nữa tác giả còn phải cho người đọc thấy được tâm tư, tình cảm của mình đằng sau mỗi tác phẩm. Độc giả khi đọc truyện cũng cần phải có sự cảm nhận các tầng lớp nội dung và ý nghĩa của câu chuyện, chú trọng đến từng nhân vật và tâm trạng của họ mà nhà văn sáng tạo nên. Có như thế thì tác phẩm truyện ấy mới mãi mãi có giá trị.

Hai truyện ngắn là hai mảnh cuộc sống khác nhau, hai thế giới nhân vật khác nhau nhưng đều đem đến cho độc giả nỗi ám ảnh và khắc khoải đến thấu tâm can. Để khi nhắc đến thạch lam hay nam cao ta vẫn không thể không nhớ đến một Chí Phèo ngất ngưởng trong men say, một liên trong sáng mộng mơ. Chừng ấy ấn tượng cũng đủ cho ta thấy mến, thấy yêu./.

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *